Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương V: Các phẩm vị vãng sinh

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 10572)
Chương V: Các phẩm vị vãng sinh

DU TÂM AN LẠC ĐẠO
Tác Giả: Sư Nguyên Hiểu nước Tân-La -Tỳ Kheo Thích Giác Chính dịch Việt
Nhà xuất bản Fahasa 2007

Chương V
Nêu Ra Số Phẩm Vãng Sanh

Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói sinh về cõi Phật kia không ngoài chín phẩm. Do đó kinh kia nói: “Cúi xin đức Thế Tôn giảng rộng về chỗ không sầu não cho con, con muốn được vãng sinh, không ưa thích cõi ô trược Diêm-phù-đề, vì cõi ô trược này đầy dẫy địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, nhiều thứ bất thiện. Con nguyện đời sau sẽ không còn nghe tiếng ác, không thấy người ác nữa. Nay con gieo năm vóc sát đất, đảnh lễ đức Thế Tôn cầu xin sám hối. Nguyện xin Đức Phật ngày ngày dạy con quán nghiệp thanh tịnh! 

Bấy giờ, từ giữa chặn mày của đức Thế Tôn phóng ra ánh sáng màu vàng ròng, chiếu khắp vô lượng thế giới trong mười phương, rồi thâu trở về nơi đảnh, biến thành đài vàng như núi Tu-di[1], cõi nước thanh tịnh vi diệu của mười phương chư Phật đều hiện ở trong đó. Hoặc có cõi nước do bảy báu kết hợp tạo thành, lại có cõi nước thuần là hoa sen… có vô lượng cõi nước chư Phật như thế, trang nghiêm hiển bày, khiến hoàng hậu Vi-đề-hy có thể nhìn thấy.

Bấy giờ, hoàng hậu Vi-đề-hy thưa:

- Bạch đức Thế Tôn! Các cõi Phật nầy tuy thanh tịnh và có ánh sáng, nhưng con nay muốn được sinh về thế giới Cực Lạc của Phật A-di-đà. Nguyện xin Thế Tôn dạy con tư duy, dạy con chánh định!

Phật bảo Vi-đề-hy rằng:

- Ngươi nên biết Phật A-di-đà cách đây không xa, ngươi nên chuyên niệm, quán tưởng cõi kia thì sẽ thành tựu Tịnh nghiệp. Ta nay giảng rộng tất cả thí dụ cho ngươi được rõ, khiến cho tất cả chúng sinh đời sau muốn tu Tịnh nghiệp được sinh về cõi Cực Lạc. Người muốn sinh về cõi Cực Lạc cần phải đầy đủ: Một, tu mười nghiệp lành, không được sát sinh. Hai, thọ trì Tam quy, đầy đủ các giới, không phạm oai nghi. Ba, phát Bồ-đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa, khuyến tấn hành giả. Ba việc như thế gọi là Tịnh nghiệp.

Phật bảo Vi-đề-hy rằng:

- Ngươi nay nên biết ba việc này chính là chánh nhân Tịnh nghiệp của chư Phật mười phương trong ba đời

Phật giảng giải cho A-nan và Vi-đề-hy về Thượng phẩm Thượng sinh: “Nếu có người nào nguyện sinh nước kia, phát ba loại tâm, liền được vãng sinh. Ba loại tâm đó là gì? Một là Chí thành tâm, hai là Thâm tâm, ba là Hồi hướng phát nguyện tâm. Người đủ ba tâm liền được sinh về cõi nước kia. Lại nữa, có ba loại chúng sinh đáng được vãng sinh: một là những người có lòng từ bi, không sát hại, đầy đủ giới hạnh; hai là người chuyên đọc tụng kinh điển Đại thừa; ba là người tu hành Lục niệm[2], hồi hướng phát nguyện sinh về cõi Cực Lạc. Người nào đầy đủ các công đức này, niệm từ một ngày cho đến bảy ngày liền được vãng sinh. Khi được sinh về cõi nước kia, nhờ tinh tấn dõng mãnh nên được thấy Đức Phật A-di-đà và hai vị Bồ-tát Quán Âm, Thế Chí cùng với vô số hóa Phật, trăm ngàn Tỳ-kheo, đại chúng Thanh văn và cung điện bảy báu của vô lượng chư Thiên. Bồ-tát Quán Thế Âm tay bưng đài vàng cùng với Bồ-tát Đại Thế Chí đến trước hành giả, Đức Phật A-di-đà phóng đại hào quang chiếu đến thân hành giả, các Bồ-tát đưa tay tiếp dẫn. Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí cùng với vô số Bồ-tát khen ngợi tán thán hành giả, khuyến phát tâm Bồ-đề. Hành giả thấy như vậy rồi vui mừng hớn hở, tự thấy thân mình ngồi vào đài Kim cang theo sau chư Phật, trong khoảng khảy móng tay được sinh về cõi kia. Được sinh về cõi kia rồi, thấy sắc thân Phật đầy đủ các tướng, thấy các Bồ-tát đầy đủ sắc tướng, ánh sáng, rừng báu diễn thuyết diệu pháp. Hành giả nghe xong, liền ngộ Vô sinh pháp nhẫn, trong khoảng Sát-na, cúng dường chư Phật khắp mười phương cõi, đối trước chư Phật, thứ lớp thọ ký, trở về cõi nước của mình, được vô lượng trăm ngàn môn Đà-la-ni.

Thượng phẩm Trung sinh: Hành giả không thọ trì đọc tụng kinh điển Đại thừa, nhưng hiểu rõ nghĩa thú. Đối với Đệ nhất nghĩa, tâm không kinh động, tin sâu nhân quả, không hủy báng Đại thừa, đem công đức này hồi hướng nguyện cầu sinh về cõi Cực Lạc. Hành giả thực hành pháp môn này, khi sắp mạng chung được Đức Phật A-di-đà cùng với Bồ-tát Quan Âm, Bồ-tát Đại Thế Chívô lượng đại chúng quyến thuộc vây quanh, tay bưng đài vàng đến trước hành giả, khen ngợi Pháp tử: “Ngươi tu tập Đại thừa, hiểu rõ Đệ nhất nghĩa đế, cho nên nay Ta đến tiếp dẫn ngươi”. Đồng thời, có trăm ngàn hóa Phật đưa tay đón rước. Hành giả thấy mình ngồi trên đài vàng ròng, chắp tay xưng tán chư Phật, trong khoảng một niệm liền sinh về Cực Lạc. Đài vàng ròng như hoa báu lớn sinh trong ao bảy báu, trải qua một đêm liền nở, thân tướng hành giả thành màu vàng ròng, dưới chân cũng có hoa sen bảy báu. Chư Phật, Bồ-tát đồng thời phóng hào quang chiếu đến thân hành giả, mắt liền mở sáng, nhờ nhân tu tập đời trước nên hành giả nghe được khắp các âm thanh giảng thuyết Đệ nhất nghĩa đế sâu xa vi diệu, liền bước xuống đài vàng, chắp tay lễ Phật, xưng tán Thế Tôn, trải qua bảy ngày, liền không lui sụt quả vị Vô Thượng Bồ-đề, bay đi khắp mười phương cúng dường chư Phật. Rồi ở chỗ chư Phật tu các thiền định, qua một tiểu kiếp chứng Vô sinh nhẫn, hiện tiền được Phật thọ ký. 

Thượng phẩm Hạ sinh: Cũng tin nhân quả, không phỉ báng Đại thừa, phát tâm Vô Thượng Bồ-đề, đem công đức này hồi hướng nguyện được sinh về cõi nước Cực Lạc. Hành giả khi lâm chung, được Đức Phật A-di-đà cùng với Bồ-tát Quan Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí và các quyến thuộc tay cầm đài sen vàng hóa thành năm trăm vị Phật đến tiếp dẫn người này. Năm trăm vị hóa Phật đồng thời đưa tay tiếp dẫn, khen ngợi Pháp tử: “Ngươi nay thanh tịnh, phát tâm Vô Thượng Bồ-đề, Ta đến tiếp dẫn ngươi”. Khi thấy việc này, liền tự thấy mình ngồi đài sen vàng. Khi ngồi vào đài sen, hoa liền khép lại theo sau Thế Tôn, vãng sinh vào trong ao bảy báu, một ngày một đêm hoa sen nở ra, trong suốt bảy ngày được thấy Phật. Tuy thấy thân Phật nhưng tâm không biết các tướng tốt của Phật. Sau 21 ngày mới biết được, nghe tiếng nhạc diễn thuyết pháp vi diệu, lại được đi khắp mười phương cúng dường chư Phật. Đối trước chư Phật nghe pháp nhiệm mầu, trải qua một tiểu kiếp chứng được Bách pháp minh môn[3], trụ vào Hoan Hỷ địa.

Đó là tướng sinh về nhóm trên, chính là pháp quán thứ mười bốn.

Trung phẩm Thượng sinh: Nếu như có chúng sinh nào thọ trì Bát quan trai, tu hành các giới, không tạo các tội Ngũ nghịch và các tội lỗi. Đem căn lành này hồi hướng nguyện cầu sinh về cõi Cực Lạc. Người đó khi sắp mạng chung, được Phật A-di-đà và chúng Tỳ-kheo, quyến thuộc vây quanh phóng hào quang sắc vàng đến chỗ hành giả, diễn nói pháp Khổ, Không, Vô thường, Vô ngã, khen ngợi xuất gia, được lìa các khổ. Hành giả thấy rồi tâm rất hoan hỷ, tự thấy mình ngồi đài hoa sen, quỳ thẳng chắp tay, đảnh lễ chư Phật, khi chưa ngẩng đầu lên, liền được sinh về cõi nước Cực Lạc, hoa sen liền nở. Khi hoa vừa hé nở liền được nghe các âm thanh khen ngợi Tứ đế, tức thời liền được A-la-hán, đầy đủ Tam minh[4], Lục thông[5] và Bát giải thoát[6].

Trung phẩm Trung sinh: Nếu có chúng sinh nào hoặc thọ trì giới Bát quan trai, hoặc giữ gìn giới Sa-di, hoặc giữ giới Cụ túc và các oai nghi không thiếu sót trong một ngày một đêm, đem công đức này hồi hướng nguyện cầu sinh về cõi Cực Lạc, huân tu hương giới. Hành giả tu tập như thế, khi lâm chung thấy Phật A-di-đà và các quyến thuộc phóng hào quang sắc vàng, cầm hoa sen bảy báu đến trước hành giả. Hành giả tự nghe trên không trung có âm thanh khen ngợi rằng: “Thiện nam tín nữ! Các người là bậc thiện nhân, thuận theo giáo pháp của chư Phật ba đời Ta đến tiếp dẫn các người!”. Lúc đó, hành giả tự thấy mình ngồi trên hoa sen, hoa sen liền khép lại, sinh vào trong cõi Tây Phương Cực Lạc. Ở trong đất báu trải qua bảy ngày, khi hoa hé nở liền mở mắt chắp tay xưng tán Thế Tôn, nghe pháp hoan hỷ, chứng được Tu-đà-hoàn, trải qua nửa kiếp mới thành A-la-hán.

Trung phẩm Hạ sinh: Nếu có người nam, người nữ nào có lòng hiếu dưỡng cha mẹ, thực hành hạnh nhân từ. Người này khi mạng chung gặp Thiện tri thức nói rõ sự vui đẹp ở cõi Phật A-di-đà và bốn mươi tám đại nguyện của Tỳ-kheo Pháp Tạng[7]. Hành giả khi nghe việc này xong, liền bỏ thân mạng, trong khoảng thời gian co duỗi cánh tay của vị lực sĩ, liền sinh về cõi nước Cực Lạc. Trải qua bảy ngày thì được Bồ-tát Quán ÂmĐại Thế Chí thuyết pháp cho nghe, tin nhận trải qua một tiểu kiếp mới thành A-la-hán.

Hạ phẩm Thượng sinh: Nếu như có chúng sinh nào tạo các nghiệp ác, mặc dù không phỉ báng kinh điển Đại thừa, nhưng tạo các nghiệp ác mà không biết hổ thẹn. Khi hành giả mạng chung gặp Thiện tri thức nói tên của 12 thể loại kinh Đại thừa[8] cho nghe. Do nhờ nghe được tên kinh như vậy nên trừ diệt được nghiệp ác rất nặng trong ngàn kiếp, lại được người trí dạy chắp tay xưng niệm Nam-mô A-di-đà Phật. Nhờ xưng niệm danh hiệu Phật nên trừ được tội sinh tử trong 50 ức kiếp[9]. Lúc đó, Đức Phật kia liền sai các vị hóa Phật, hóa làm Bồ-tát Quán Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí đến trước người đó khen ngợi rằng: “Thiện Nam tử! Ngươi nhờ xưng niệm danh hiệu chư Phật mà diệt trừ được các tội nặng, Ta đến tiếp dẫn ngươi”. Nói lời ấy xong, hành giả liền thấy hào quang của vị hóa Phật bao trùm khắp nhà, thấy rồi vui mừng, liền bỏ thân mạng, nương hoa sen báu, theo sau hóa Phật, sinh trong ao báu. Trải qua 49 ngày, hoa sen mới hé nở, khi hoa sen vừa hé nở, Bồ-tát Đại Bi Quán Thế Âm phóng hào quang sáng lớn đến trước hành giả nói 12 thể loại kinh sâu xa vi diệu cho nghe, nghe rồi tin hiểu, phát tâm Vô Thượng Bồ-đề. Trải qua mười tiểu kiếp, đầy đủ Bách pháp minh môn, được vào Sơ địa. Hàng Hạ phẩm Thượng sinh này, được nghe danh hiệu chư Phật, danh hiệu Pháp và danh hiệu Tăng, cũng liền được vãng sinh.

Hạ phẩm Trung sinh: Nếu có chúng sinh nào hủy phạm Ngũ giới, Bát quan trai giớigiới Cụ túc, trộm cắp vật của Tăng-kỳ, vật của hiện tiền Tăng, nói pháp bất tịnh không có tâm hổ thẹn, dùng các nghiệp ác để bồi đắp cho mình. Tội nhân như thế, vì nghiệp ác lẽ ra bị đọa vào địa ngục, khi mạng chung, các thứ lửa ở địa ngục cùng lúc ập đến, nhưng nhờ gặp được bậc Thiện tri thức dùng lòng đại từ giảng nói về oai đức mười lực của Phật A-di-đà, nói rõ về thần lực quang minh của Phật kia, đồng thời khen ngợi giới, định, huệ, giải thoátgiải thoát tri kiến. Người này nghe xong liền trừ được tội lỗi sinh tử trong 80 ức kiếp. Lửa dữ địa ngục hóa thành gió mát lành, thổi các hoa trời. Trên hoa đều có các vị hóa Phật, Bồ-tát đến tiếp dẫn, trong khoảng một niệm liền được sinh vào trong hoa sen trong ao Thất bảo. Trải qua sáu kiếp, hoa sen mới hé nở, Bồ-tát Quán Thế ÂmĐại Thế Chí dùng Phạm âm để cảm hóa và giảng nói kinh điển Đại thừa sâu xa vi diệu cho người đó. Người đó nghe xong pháp này rồi liền phát tâm Vô Thượng Bồ-đề.

Hạ phẩm Hạ sinh: Nếu có chúng sinh nào tạo nghiệp bất thiện, Ngũ nghịch, Thập ác, đầy dẫy các điều bất thiện. Người ngu như thế, do nghiệp ác lẽ ra phải bị đọa vào đường ác, trải qua nhiều kiếp chịu khổ vô cùng, nhưng khi mạng chung gặp được Thiện tri thức cảm hóa, nói pháp cho họ nghe, dạy họ niệm Phật, vì người kia bị những điều khổ bức bách, không thể niệm Phật. Vị Thiện tri thức bảo rằng: “Nếu ngươi không niệm được, nên xưng Vô Lượng Thọ Phật”. Chí tâm như thế, tiếng niệm không dứt, đầy đủ mười niệm Nam-mô A-di-đà Phật. Nhờ xưng danh hiệu Phật nên trong mỗi niệm trừ được tội sinh tử trong 80 ức kiếp. Sau khi mạng chung, người đó thấy hoa sen vàng giống như mặt trờitrước mặt mình, trong khoảng một niệm liền được sinh về cõi Cực Lạc. Ở trong hoa sen mãn 12 đại kiếp, hoa sen mới nở, được Bồ-tát Quán Thế ÂmĐại Thế Chí dùng âm thanh Đại bi giảng rõ thật tướng các pháp và phương pháp diệt trừ tội lỗi cho họ nghe. Nghe xong hoan hỷ, liền phát tâm Bồ-đề.

Giải thích: Chín phẩm này, tóm lược có hai thuyết:

Thuyết thứ nhất giải thích rằng: Sinh về chín phẩm này đều là hàng Bồ-tát Thập tín, căn cứ theo lúc tiến lúc thoái, tạo thiện tạo ác, lên xuống không đồng, cho nên chia ra chín phẩm. Ba phẩm Thượng là hàng Thập tín từ gốc Bất thoái vào thẳng, vì thực hành có sâu, có cạn nên thành ra ba phẩm Thượng. Ba phẩm Trung, do hàng Bồ-tát thoái tâm Đại thừaphát tâm Tiểu thừa, thoái hạnh Đại thừa mà tu hạnh Tiểu thừa, thực hành có sâu có cạn, nên thành ra ba phẩm Trung. Ba phẩm Hạ do thoái tâm Đại thừa theo dòng sinh tử, thoái hạnh Đại thừa mà tạo tội sinh tử có nặng, có nhẹ, nên thành ra ba phẩm Hạ.

Thuyết thứ hai giải thích rằng: Những người phát tâm Bồ-đề, tu hạnh Bồ-tát, thực hành có cạn, có sâu thành ra ba phẩm Thượng. Những người phát tâm Bồ-đề, tu hạnh Thanh văn, thực hành có cạn có sâu, thành ra ba phẩm Trung. Những người không phát cả hai loại tâm, không tu hành hạnh của Đại thừa hoặc Tiểu thừa, chỉ theo tâm sinh tử, tạo các tội sinh tử, vì tạo tội có nặng có nhẹ, thành ra ba phẩm Hạ.

Trên đây là luận bàn sơ lược về chín phẩm. Nếu luận bàn kỹ thì bậc Thượng phẩm Thượng sinh khi phát ba loại tâm, theo luận Khởi Tín nói: “Giai vị Tín thành tựu phát tâm là tâm sau cùng của Thập tín, nếu sinh về cõi kia, liền được Vô sinh pháp nhẫn”. Đó gọi là Duyên quán Vô sinh nhẫn, vì kinh Anh Lạc Bản Nghiệp nói: “Giai vị Thập giải được Vô sinh nhẫn”. Bậc Thượng phẩm Trung sinh là vị đầu tiên của Thập tín, thời giancõi nầy một kiếp bằng ở cõi kia một ngày, trải qua một tiểu kiếp được Vô sinh pháp nhẫn, gọi là chứng lý Vô sinh nhẫn, tức ngay Sơ địa. Bậc Thượng phẩm Hạ sinh là hàng phàm phu trước Thập tín kính tín và quy y Tam Bảo, thọ giới Bồ-tát, vì cũng tin nhân quả, không hủy báng Đại thừa, phát tâm Vô Thượng đạo, cho nên trong bảy ngày, chỉ thấy thân Phật mà tâm chưa sáng tỏ. Sau 21 ngày hoàn toàn thấy nghe rõ ràng, nghĩa là người này chưa chứng đắc, chỉ nương vào nghiệp thức mà thấy được Như Lai. Sau 21 ngày mới dự vào hàng Thập giải, thấy Phật là chỉ do tâm hiện khởi, trải qua ba tiểu kiếp thì dự vào bậc Hoan hỷ địa. Tiểu kiếp ở cõi kia bằng a-tăng-kỳ ở cõi này, cho nên bậc Trung phẩm trải qua một tiểu kiếp, bậc Hạ phẩm trải qua ba tiểu kiếp thì cùng dự vào hàng Sơ địa. Vì hàng Bồ-tát thuộc Thắng giải hành địa căn cơlợi độn, nên hạnh có siêng năng giải đải, tuy lâu mau khác nhau mà công hạnh bằng nhau. Các phẩm khác ở dưới, căn cứ theo đây mà biết được.

Trong bậc Trung, Trung phẩm Thượng sinh là những hàng thuộc Noãn vị, Đảnh vị, Nhẫn vị, Quyết trạch phần vị[10]. Trung phẩm Trung sinh là Giải thoát phần của ba Phương tiện vị trước trong Thất phương tiện[11]. Trung phẩm Hạ sinh là những phàm phu hướng thiện trước Ngũ đình tâm vị. Ba phẩm này đều là Hiện Bát[12], nhưng từ nửa kiếp ở hiện đời mà chia ra làm ba phẩm vậy.

Ba phẩm bậc Hạ, bao gồm tất cả phàm phu theo nghiệp ác, tạo các tội Ngũ nghịch, nặng nhẹ không đồng nhau, nhờ gặp duyên nghe pháp diệt được tội, mà thành ra ba phẩm, hoàn toàn không có giai vị khác. Nếu căn cứ theo kinh Vô Lượng Thọ thì gom chung ba phẩm, kinh ghi: “Phật bảo A-nan: Nếu có chúng sinh nào sinh về cõi kia, đều được sinh trong Chánh định tụ. Vì sao như thế? Vì trong cõi Phật kia không có các Tà định tụBất định tụ. Vô lượng chư Phật Như Lai trong mười phương đều cùng tán thán khen ngợi sức công đức không thể nghĩ bàn của Đức Phật Vô Lượng Thọ. Nếu có chúng sinh nào nghe danh hiệu của Ngài, tín tâm hoan hỷ dù chỉ một niệm chí tâm hồi hướng, nguyện sinh về nước kia, liền được vãng sinh, trụ vào ngôi Bất thoái chuyển, chỉ trừ những kẻ phạm năm tội nghịch và chê bai chánh pháp”. 

Phật bảo A-nan: “Hết thảy trời và người trong mười phương thế giới, nếu chí tâm nguyện sinh về cõi kia thì được chia thành ba bậc:

Bậc Thượng là những người đã bỏ nhà, đoạn dục, xuất gia làm Sa-môn, phát tâm Bồ-đề, chuyên niệm danh hiệu Đức Phật Vô Lượng Thọ, tu các công đức, nguyện sinh về cõi kia. Những chúng sinh này khi mạng chung thì được thấy Đức Phật Vô Lượng Thọ cùng đại chúng hiện ra trước mặt, được theo Đức Phật Vô Lượng Thọ sinh về cõi của Ngài, tự nhiên hóa sinh trong hoa Thất bảo, trụ vào ngôi Bất thoái chuyển, trí huệ dũng mãnh, thần thông tự tại. Do đó, này A-nan! Nếu có chúng sinh nào ở cõi Ta-bà này thấy được Đức Phật Vô Lượng Thọ thì nên phát tâm Vô Thượng Bồ-đề, tu tập các công đức, liền được sinh về cõi nước của Ngài.

Bậc Trung là các trời và người trong mười phương thế giới, chí tâm nguyện sinh về cõi nước kia, mặc dù không xuất gia làm Sa-môn, tu tập các công đức lớn, nhưng phát tâm Vô Thượng Bồ-đề, chuyên niệm danh hiệu Đức Phật Vô Lượng Thọ, tu tập thiện nghiệp được nhiều hay ít, giữ gìn trai giới, xây dựng tháp tượng, cúng dường Sa-môn, treo phan, thắp đèn, rải hoa, đốt hương, đem những việc này hồi hướng nguyện sinh về cõi kia. Những người này khi mạng chung, được Đức Phật Vô Lượng Thọ cùng với đại chúng hóa hiện ra thân hình đầy đủ tướng hảo, hào quang rực rỡ như chính Phật ngay trước mặt. Người này liền theo Đức Phật hóa hiện đó mà sinh về cõi của Ngài, trụ vào ngôi Bất thoái chuyển, công đức trí huệ gần bằng như bậc Thượng.

Bậc Hạ là những trời và người trong mười phương thế giới, chí tâm muốn sinh về cõi nước kia, giả sử không thể làm được chút công đức nào, nhưng nhờ phát tâm Vô Thượng Bồ-đề, chuyên tâm niệm danh hiệu Đức Phật Vô Lượng Thọ cho đến mười niệm, nguyện sinh về cõi kia, nếu được nghe pháp sâu xa mầu nhiệm, hoan hỷ tin ưa, không sinh tâm nghi hoặc, dù chỉ một niệm nhớ nghĩ Đức Phật kia cho đến thành tâm nguyện sinh về cõi nước của Ngài, người này khi mạng chung mộng thấy Đức Phật kia, liền được vãng sinh, công đức trí huệ gần bằng với bậc Trung. Cần phải suy nghĩ kỹ các nghĩa này mới có được tâm hạnh ngay thẳng”.

Tóm lại, bậc Thánh Tam thừa, bậc Tam HiềnThất phương tiện phát tâm của Nhị thừa trở đi, từ Bồ-tát quyền thừa cho đến trước Phương tiện đạo, bốn chúng nam nữ, không căn, hai căn, cho đến tám bộ rồng, quỷ… nếu phát tâm Bồ-đề, chuyên niệm danh hiệu Phật A-di-đà, nhàm chán cõi xấu ác, vui thích Tịnh độ, thì khi lâm chung, chánh niệm hiền tiền đều được vãng sinh. Nếu người nào dõng mãnh tinh tấn, quán hạnh rõ ràng, khi lâm chung, tâm không tán loạn thì đều được vãng sinh Thượng phẩm, cho đến khi lâm chung niệm mười niệm liên tục thì được sinh Hạ phẩm. Trong đây, Bồ-tát vãng sinh có ba bậc, Nhị thừa vãng sinh có ba bậc, phàm phu vãng sinh cũng có ba bậc, mỗi hạng có chín phẩm, nhưng trong kinh không trình bày rõ ràng tỉ mỉ, chỉ luận bàn chung chín phẩm của Đại thừa, Tiểu thừaphàm phu. Thật ra, nếu xét kỹ thì có rất nhiều sai khác, xét yếu chỉ của Quán Kinh và 48 lời nguyện, thì phàm phu vãng sinh là chính, Thánh nhân chỉ là phụ. Kinh kia chỉ nói tất cả chúng sinh đời vị lai bị phiền não oán tặc làm hại, cho nên chỉ bày chỗ thanh tịnh, để khuyên mọi người vãng sinh, không luận là Bồ-tát. Trong hàng phàm phu, người hủy báng Đại thừa không được vãng sinh, do đoạn mất thiện căn vậy. Trong Nhị thừa, hàng Ngu pháp cũng không được vãng sinh, vì không tin có Tịnh độ trong mười phương. Bồ-tát không nguyện vãng sinh cũng không được vãng sinh, vì giữ hạnh nguyện rộng lớn. Nếu là hàng Nhị thừa vô học, không kể ngu pháp hay không ngu pháp đều được vãng sinh, vì trong ba cõi dơ uế không có chỗ thọ sinh. Nghĩa sơ lược của phẩm loại vãng sinh là như vậy.
 
Giải thích pháp số:

[1] Tu-di sơn: còn gọi Diệu Cao sơn, Hảo Cao sơn, Hảo Quang sơn, Thiện Cao sơn, Thiện Tích sơn, Diệu Quang sơn, An Minh Do sơn.

Vốn là ngọn núi trong thần thoại Ấn Độ, được Phật giáo sử dụng, cho rằng đây là ngọn núi cao đứng sừng sững ở chính giữa một Tiểu thế giới. Lấy núi này làm trung tâm, có tám lớp núi, tám lớp biển bao bọc chung quanh, hình thành một thế giới (TĐPH Huệ Quang, t. V, tr. 4614).

[2] Lục niệm: sáu điều mà người tu Phật đạo phải luôn nhớ nghĩ.

1. Niệm Phật: nghĩ nhớ công đức vô lượng, đại từ, đại bi của chư Phật.

2. Niệm Pháp: nghĩ nhớ ba tạng, 12 thể loại kinh của Đức Phật đã dạy, để làm lợi ích cho khắp chúng sinh.

3. Niệm Tăng: nghĩ nhớ chư Tăng đầy đủ giới, định, huệ làm ruộng phước cho chúng sinh.

4. Niệm Giới: nghĩ nhớ giới hạnhnăng lực lớn hay trừ các phiền não xấu của chúng sinh.

5. Niệm Thí: nghĩ nhớ bố thícông đức lớn, hay trừ tham lam keo kiệt của chúng sinh.

6. Niệm Thiên: nghĩ nhớ chư Thiênba cõi đều nhờ căn lành đời xưa đã tu tịnh giới, bố thí, văn huệ mà được quả báo an vui này (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 2549).

[3] Bách pháp minh môn: môn trí huệ thấu suốt trăm pháp một cách rõ ràng mà Bồ-tát chứng đắcHoan hỉ địa (Sơ địa). Đối với 100 pháp của Bách pháp minh môn, các kinh luận có các quan điểm như sau:

1. Thập Địa Kinh Luận, q. 3 cho rằng: Bách pháp tức chỉ cho các thứ pháp môn.

2. Hoa Nghiêm Kinh Thám Huyền Ký, q. 11: Bách pháp chỉ cho các pháp môn Uẩn, Giới, Xứ chứ chẳng phải chỉ cho con số 100.

3. Theo phẩm Hiền Thánh Danh Tự trong kinh Bồ-tát Anh Lạc Bản Nghiệp, q. thượng: Bách pháp là do 10 Tín tâm: Tín tâm, Niệm tâm, Tinh tấn tâm, Huệ tâm, Định tâm, Bất thoái tâm, Hồi hướng tâm, Hộ tâm, Giới tâm, Nguyện tâm, mỗi tâm đều có 10 tâm mà thành 100 pháp. Sau khi thành tựu viên mãn 10 tâm của Thập tín, Bồ-tát mới có thể vào Sơ địa.

4. Theo Thích Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Ký của Pháp ThôngQuán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ Diệu Tông Sao, q. 6 của Tứ Minh Tri Lễ, Bách pháp tức là Ngũ vị bách pháp của Pháp tướng.

5. Theo Thích Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Ký: mười tâm sở pháp; Thọ, Tưởng, Tư, Xúc, Dục, Huệ, Niệm, Giải thoát, Ức, Định, khi sinh khởi một tâm sở thì chín tâm sở kia nương nhau mà khởi thành ra 100 pháp (TĐPH Huệ Quang, t. I, tr. 222).

[4] Tam minh: ba minh, tức trí huệ sáng tỏ thông đạt vô ngại ba việc: Túc mệnh, Thiên nhãnLậu tận.

1. Túc mệnh minh: trí huệ biết rõ tướng trạng của mình và chúng sinh từ một đời cho đến trăm nghìn vạn ức đời.

2. Thiên nhãn minh: trí huệ biết rõ các tướng trạng sinh tử của chúng sinh, khi tử khi sinh, sắc lành sắc dữ hoặc do nhân duyên tà phápthành tựu ác hạnh, sau khi mạng chung sinh vào đường ác hoặc nhờ nhân duyên chánh phápthành tựu thiện hạnh, sau khi mạng chung sinh vào đường lành…

3. Lậu tận minh: trí huệ biết rõ như thậtchứng đắcTứ đế, giải thoát tâm hữu lậu, diệt trừ tất cả phiền não… (TĐPH Huệ Quang, t. V, tr. 4131).

[5] Lục thông: sáu diệu dụng vô ngại tự tại của Phật, Bồ-tát do nương sức định huệthị hiện. Đó là: Thần túc thông, Thiên nhĩ thông, Tha tâm thông, Túc mạng thông, Thiên nhãn thôngLậu tận trí chứng thông (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 2579).

[6] Bát giải thoát: tám định lực giúp hành giả lìa bỏ tham dục của cõi Sắc và Vô sắc:

1. Trong có tưởng về sắc dục quán các sắc để giải thoát.

2. Trong không có tưởng về sắc dục ngoài quán sắc để giải thoát.

3. Thân thanh tịnh giải thoát chứng Cụ túc trụ.

4. Vượt các sắc tưởng diệt hữu đối tưởng, không suy nghĩ mọi cái tưởng, nhập vào Không vô biên xứ, an trụ đầy đủ giải thoát.

5. Vượt tất cả Không vô biên xứ, nhập Thức vô biên xứ, an trụ đầy đủ giải thoát.

6. Vượt qua tất cả Thức vô biên xứ, nhập vào Vô sở hữu xứ, an trụ đầy đủ giải thoát.

7. Vượt qua tất cả Vô sở hữu xứ, nhập vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ, an trụ đầy đủ giải thoát.

8. Vượt qua tất cả Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nhập vào Tưởng thọ diệt, thân tác chứng trọn vẹn, an trụ đầy đủ giải thoát (TĐPH Huệ Quang, t. I, tr. 390).

[7] Pháp Tạng: Pháp danh của Đức Phật A-di-đà lúc Ngài chưa thành Phật. Theo kinh Vô Lượng Thọ, q. thượng, nhiều kiếp lâu xa về đời quá khứ, vào thời Thế Tự Tại Vương Như Lai, có một vị quốc vương nghe Đức Phật thuyết pháp, liền phát tâm vô thượng, bỏ ngôi vua xuất gia, hiệu là Pháp Tạng. Ngài thấy được hai trăm mười ức cõi nước của chư Phật, nên Ngài phát 48 lời đại nguỵện. Vì giáo pháp mà Ngài hộ trì không mất và tích tụ rất nhiều, cho nên kinh Vô Lượng Thọ dịch là Pháp Tạng (Dharmakara); hội Vô Lượng Thọ Như Lai trong kinh Đại Bảo Tích, q. 17, đời Đường dịch là Pháp Xứ; kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm, đời Tống dịch là Tác Pháp; luận Đại Trí Độ thì dịch là Pháp tánh (TĐPH Huệ Quang, t. IV, tr. 3543).

[8] Mười hai thể loại kinh điển Đại thừa: mười hai thể loại kinh được phân biệt theo hình thức trình bày và nội dung giáo pháp: 1. Khế kinh (Trường hàng): tức thể loại văn xuôi, trực tiếp ghi chép giáo thuyết của Phật.

2. Ứng tụng (Trùng tụng): tức phần kệ tụng giải thích lại giáo thuyết mà Khế kinh đã nói.

3. Ký biệt (Thọ ký): vốn là các đoạn văn giải thích về giáo nghĩa, đời sau đặc biệt chỉ cho lời ấn chứng trước của Phật đối với việc làmvị lai của các đệ tử.

4. Phúng tụng (Cô khởi): tức kệ tụng độc lập, trực tiếp ghi chép giáo thuyết của Đức Phật mà không lặp lại ý của văn Trường hàng trước đó.

5. Tự thuyết: Đức Phật không đợi có người hỏi pháp mà tự khai thị giáo thuyết.

6. Nhân duyên: ghi chép nhân duyên thuyết pháp giáo hóa của Phật, như phẩm Tự của các kinh.

7. Thí dụ: dùng thí dụ để giảng nói pháp nghĩa.

8. Bản sự: các bản kinh nói về hành nghi ở đời quá khứ của Phật và đệ tử, ngoài Bản sinh đàm. Hoặc những kinh mở đầu bằng câu “Phật như thị thuyết” cũng thuộc loại Bản sự.

9. Bản sinh: thể loại kinh nói về các hạnh đại bi của Đức Phật tu hành vào thời quá khứ.

10. Phương quảng: các kinh giảng nói giáo nghĩa rộng lớn sâu xa.

11. Hi pháp (Vị tằng hữu pháp): nói về những việc ít có của Phật và các đệ tử.

12. Luận nghị: Đức Phật luận nghị phân biệt thể tánh các pháp, làm sáng tỏ ý nghĩa (TĐPH Huệ Quang, t. VI, tr. 5274).

[9] (Theo chánh văn, No.1965, tr. 116-các, dòng à 11): “稱南無阿彌陀佛。稱佛名故。除五十億劫生死之罪。爾時彼佛即遣化佛化觀世音化大勢至至行者前”.

[10] Quyết trạch phần vị: Thế đệ nhất vị.

[11] Thất phương tiện (còn gọi là Thất phương tiện vị, Thất hiền, Thất hiền vị, Thất gia hành vị): bảy địa vị trước khi vào địa vị Kiến đạo của Thanh văn, đó là: Ngũ đình tâm quán, Biệt tướng niệm trụ, Tổng tướng niệm trụ, Noãn pháp, Đảnh pháp, Nhẫn phápThế đệ nhất pháp (TĐPH Huệ Quang, t. VI, tr. 5372).

[12] Hiện bát: quả Bất hoàn, một trong bốn quả Thanh văn. Bậc Thánh ở cõi Dục đoạn hết dư hoặc, nhập Niết-bàn, nên gọi là Hiện bát (TĐPH Huệ Quang, t. II, tr. 1820).


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11378)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
(Xem: 11541)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13530)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14119)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10296)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10762)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11310)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11266)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11418)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10158)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9953)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10688)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11310)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42166)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10473)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11846)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10004)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10449)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10608)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45721)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32099)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11312)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10692)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11306)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10616)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13452)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12363)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11012)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10603)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12305)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11151)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11832)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29237)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9202)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10529)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10220)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10567)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10899)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10796)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32114)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27366)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17771)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11849)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12272)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10436)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11695)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10417)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10768)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28042)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10140)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10270)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10635)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10761)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11217)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10390)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10687)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11462)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18238)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10512)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12834)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11747)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29161)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28570)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28271)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13312)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22760)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13426)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11553)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13795)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25690)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26054)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22288)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14478)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12058)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11789)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11687)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11482)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33160)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31827)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12013)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39603)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22464)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11954)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14210)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13342)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14300)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12052)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10387)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11222)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13289)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34499)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12606)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12216)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13526)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12612)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12958)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16286)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11727)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27371)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28405)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant