Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương VI: Luận Về Vãng Sanh Khó Hay Dễ

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 11033)
Chương VI: Luận Về Vãng Sanh Khó Hay Dễ

DU TÂM AN LẠC ĐẠO
Tác Giả: Sư Nguyên Hiểu nước Tân-La -Tỳ Kheo Thích Giác Chính dịch Việt
Nhà xuất bản Fahasa 2007

Chương VI
Luận Về Vãng Sanh Khó Hay Dễ

Gồm hai phần:

- Nói về nơi chốn hơn và kém
- Luận về vãng sinh khó hay dễ

1. Nói về hơn và kém: Nói chung về Thật đức thì làm gì có thua kém, bởi vì đều là Pháp vương thì đều gọi là Thiện Thệ. Báo thân có đủ vạn năng lực, Báo độ có đầy cảnh tốt đẹp, nhưng vì để hóa độ chúng sinh, nên đôi khi ở cõi uế nhiễm có nhiều núi đồi, hầm hố; ở cõi thanh tịnh toàn châu báu. Nhưng nếu luận về nơi chốn thì có hơn kém. Cung trời Đâu-suất thì nương vào hư không, còn cõi Cực Lạc thì đứng yên ổn trên đất. Như thế thì giữa trời và người có sự khác biệt. Nếu căn cứ vào cõi này mà so sánh với cõi kia thì cõi trời ưu việt hơn cõi người. Nếu luận bàn về tịnh và uế thì Đâu-suất là cõi uế, Cực Lạccõi tịnh; nếu phân biệt thô thì hai cõi có 14 điểm khác nhau. Đó là cõi trời Đâu-suất đất đai hạn hẹp, nam nữ sống lẫn lộn nhau, dục nhiễm hiện hành, có lui sụt, thọ 4000 tuổi, nhưng trong đó cũng có hạng người chết yểu. Về thân hình cũng như thế. Lại nữa, tâm luôn phát khởi ba tánh thiện, ác, vô kí. Do đó, nếu tâm duyên theo tánh ác thì sẽ bị đọa địa ngục, có ba thọ khổ, lạc, xả cùng hiện khởi, sáu trần cảnh khiến cho người buông lung. Con trai thì sinh ra từ nơi đầu gối của cha, con gái sinh ra từ đầu gối của mẹ, chỉ cho Bồ-tát là chủ thuyết pháp, có người được chứng Thánh quả, có người không chứng đắc. Còn cõi Tây Phương thì hoàn toàn ngược lại với cõi này. Nếu luận bàn theo nghĩa này thì cõi Tây Phương hơn hẳn.

2. Luận về vãng sinh khó hay dễ: Có thuyết cho rằng Tây Phương dễ sinh về, còn Đâu-suất khó sinh về. Có bảy nghĩa:

1. Cực Lạccõi người nên dễ sinh về. Đâu-suất là cõi trời nên khó sinh về.

2. Cực Lạc chỉ giữ năm giới thì được sinh về. Còn Đâu-suất phải tu đủ mười nghiệp thiện mới được sinh về.

3. Cực Lạc chỉ mười niệm được vãng sinh. Còn Đâu-suất phải tu đầy đủ bố thí, trì giới mới được sinh về.

4. Cực Lạc hoàn toàn nương vào bốn mươi tám đại nguyện của Đức Phật A-di-đà để được vãng sinh. Còn Đâu-suất thì chỉ dựa vào tự lực của mình để sinh về.

5. Cực Lạc có Bồ-tát Quán Thế Âm v.v… đang đến cõi này để khuyến tấn vãng sinh. Còn Đâu-suất thì không có việc này.

6. Cực Lạc được tất cả kinh luận khen ngợi, khuyến khích vãng sinh. Còn Đâu-suất chỉ có một kinh ca ngợi.

7. Xưa nay các bậc Đại đức phần nhiều đều hướng về Cực Lạc, ít ai hướng về Đâu-suất

Từ nghĩa này nên cho rằng Cực Lạc dễ vãng sinh, Đâu-suất khó sinh về.

Có thuyết lại cho rằng Đâu-suất dễ sinh về, còn Cực Lạc khó vãng sinh. Sở dĩ như thế là vì cung trời Tri Túc cùng ở tại cõi này, hàng Đại, Tiểu thừa đều tin nhận, đã là hóa thân, thì nhất định được vãng sinh.

Theo kinh Thượng Sinh, bốn chúng thực hành pháp Lục độ, hàng Bát bộ nghe tên đều hoan hỷ, sám hối nghiệp ác, tu mười điều thiện, hồi hướng nguyện sinh, thì tất cả đều được sinh về cõi Cực Lạc.

Theo Đối Pháp Luận, thì Biệt thời ý thú[1] nghĩa là có người nguyện sinh về cõi Cực Lạc thì được sinh về nhưng ở vào thời điểm khác, giống như mua bán, từ một đồng mà được ngàn đồng, cho nên, kinh nói: “Chẳng phải do nhân duyên thiện căn nhỏ mà được vãng sinh”.

Thiên Thân Luận[2] nói: “Người nữ, người thiếu căn, hàng Nhị thừa không được vãng sinh”. Lại tướng bạch hào của Đức Phật A-di-đà như năm Tu-di, há hàng phàm phu có thể thấy được tướng đó ư? Các nghĩa như thế được minh chứng chẳng phải là ít, cho nên vạn người nguyện sinh về cõi Cực Lạc đều được vãng sinh. Hoặc có thuyết cho rằng lý của hai thuyết trên hoàn toàn không cùng tận. Phàm vãng sinh khó hay dễ, tất cả đều tùy theo nhân duyên. Duyên nghĩa là Đồng thể Đại bi của chư Phật, Bồ-tát. Nhân là khởi nguyện tu hành của chín hạng người trong bốn chúng. Đồng thể Đại bi tuy không hạn cuộc ở nơi người, nhưng vì nghiệp của chúng sinh nên có sự sai khác. Nếu người nghiệp nhân thuần thục thì tùy theo nguyện liền được vãng sinh, chẳng phải vì lẽ trời người mà khó vãng sinh, mà do tịnh uếâ nên có ngăn ngại. Nếu người thiếu nhân nguyện hạnh, ở ngay trước mặt cũng không cảm được, há có thể cùng cõi mà dễ được vãng sinh ư? Lại nhờ hóa thân mà liền được diện kiến Như Lai. Do đó, trong thành Vương Xá hơn ba ức gia đình cùng ở chung mà không nghe đến danh hiệu của Như Lai. Còn trong thành Na-lặc-già, 90 ức người sống xa xôi cách trở như thế mà còn đến chiêm bái tướng sắc vàng của Như Lai, thế thìø biết khởi hạnh của chúng sinh vậy, do lệ thuộc vào thắng duyên mà còn hoặc mất. Hoặc có người tự tánh hệ thuộc A-di-đà, hoặc có người xưa nay hệ thuộc Di-lặc, tùy theo sở thuộc đó mà mỗi mỗi nhanh chóng đạt được đạo. Giả sử không có sự hệ thuộc, thì tốn công nhọc sức mà lợi ích chẳng bao nhiêu. Cho nên, Tỳ-mẫu của Trưởng giả, được La-hầu-la giáo hóa; Thiên tử cõi Phi tưởng, ngộ đạo nhờ Xá-lợi-phất. Thế thì, chuyên tâm vào nơi tôn kính, gắng sức mong cầu Tịnh nghiệp thì việc vãng sinh dễ như trong khoảng khảy móng tay, sao chỉ tranh nhau luận bàn về việc khó dễ? Nếu phát tâm, nhất định không ngại thì sáu việc[3] dễ thực hành, chín phẩm chẳng khó tu, tội nghiệp tuy nhiều, nhưng tiêu tan như ánh mặt trời chiếu soi cõi tối; đường đến tuy tối tăm cách trở, nhưng cũng được thông suốt như ấn vua khai lối tắc. Chỉ vì người học như kẻ “khắc thuyền tìm gươm”[4], như hành giả “ôm cây đợi thỏ”[5], nghi ngờ lời chân thật của tướng lưỡi rộng dài bao trùm ngàn cõi, mà tin nhận tiếng kêu rỗng suông của con ếch nằm đáy giếng mê mờ nhất tâm. Há chẳng phải là hạng người cất giữ sỏi đá, mà ném bỏ trân báu ư? Than ôi! Thật đáng thương thay!

Giải thích pháp số:

[1] Biệt thời ý thú (biệt thời ý, thời tiết ý thú): Như Lai dùng ý thú biệt thời để thuyết pháp, một trong bốn ý thú, nghĩa là lợi íchthời gian khác. Người nào tụng trì danh hiệu Phật Đa Bảo thì quyết định đối với Vô Thượng Bồ-đề không còn lui sụt hoặc người chỉ cần phát nguyện thì liền được vãng sinh cõi Phật An Lạc. Đây là Như Lai vì khuyên nhắc kẻ giải đãi không thích tu hành, nên nói lợi ích lúc khác mà chẳng nói lợi ích ngay lúc này. 

Nhiếp Đại Thừa Luận Thích, q. 6 (Đại 31, 194 trung) ghi: “Người thiện căn giải đãi nhờ tụng trì danh hiệu Phật Đa Bảo mà được tiến lên công đức thượng phẩm”.

Phật nói công đức thượng phẩm là nhằm vào người có hạnh cạn cợt, muốn cho họ bỏ giải đãi, siêng tu hành, chứ chẳng phải do tụng danh hiệu Phật mà được không lui sụt, quyết định đắc Vô Thượng Bồ-đề. Thí dụ từ một đồng tiền vàng do kinh doanh lâu ngày nên sinh ra nghìn đồng tiền vàng, chẳng phải trong một ngày được số tiền vàng đó. Một đồng tiền vàng là nhân sinh ra hàng nghìn đồng tiền vàng.

Ý Như Lai cũng vậy, tụng trì danh hiệu Phật là nhân để chẳng lui sụt Bồ-đề (TĐPH Huệ Quang, t. I, tr. 546).

[2] Thiên Thân (Thế Thân): một đại luận sư Ấn Độ, sống vào khoảng thế kỷ IV, V, người thành Phú-lâu-sa-phú-la, nước Kiện-đà-la thuộc Bắc Ấn Độ, là con thứ hai của Quốc sư Bà-la-môn Kiều-thi-ca. Lúc đầu, Sư cùng với anh là Vô Trước học Tát-bà-đa bộ (Hữu bộ). Ngài Vô Trước học thẳng vào Đại thừa, ngài Thiên Thân lại đi vào Kinh Lượng bộ, lập chí cải thiện giáo nghĩa Hữu bộ… Lúc đầu, Sư công kích Phật giáo Đại thừa, cho rằng Đại thừa chẳng phải là pháp do Phật nói. Sau nhờ ngài Vô Trước dùng phương tiện khai thị, Sư mới ngộ được lý Đại thừa, chuyển sang tin tưởng, tôn thờ và hoằng dương yếu nghĩa Đại thừa. Sư soạn nhiều luận và sách chú thích, đặt nền tảng cho phái Du-già thuộc Phật giáo Đại thừa. Các tác phẩm quan trọng, gồm hơn 40 loại: Luận Câu-xá (30 quyển), Nhiếp Đại Thừa Luận Thích (15 quyển), Thập Địa Kinh Luận (12 quyển), Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh Luận, Quảng Bách Luận, Luận Bồ-đề Tâm, Duy Thức Tam Thập Luận Tụng, luận Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn, Vô Lượng Thọ Kinh Ưu-ba-đề-xá… (TĐPH Huệ Quang, t. VI, tr. 5408).

- Thiên Thân Luận (gọi đủ là Thiên Thân Nhiếp Luận, Thế Thân Nhiếp Luận): một trong năm bộ Nhiếp Luận. Đó là bộ luận do ngài Thế Thân biên soạn để giải thích bộ Nhiếp Luận của ngài Vô Trước. Bộ Luận này có ba bản dịch: Bản dịch của ngài Chân Đế đời Trần, gồm 15 quyển, gọi là Nhiếp Đại Thừa Luận Thích; bản dịch của ngài Cấp-đa đời Tùy, gồm 10 quyển, gọi là Nhiếp Đại Thừa Thích Luận; bản dịch của ngài Huyền Trang đời Đường, gồm 10 quyển, gọi là Nhiếp Đại Thừa Luận Thích (TĐĐPB).

[3]Sáu việc (Lục sự pháp): theo Quán Di-lặc Thượng Sinh Đâu-suất Thiên Kinh Tán, q. hạ, tr. 295b ghi:

1. Tinh tấn tu tập, gieo trồng phước nghiệp trong ba ruộng Kính, Ân, Bi.

2. Giữ gìn oai nghi và các giới nghiêm mật, hành trì các quy tắc một cách tự tại.

3. Siêng năng quét dọn chùa tháp, trang nghiêm đạo tràng đúng theo giáo pháp chế định.

4. Cúng dường hương hoa, tùy nghi cung cấp những vật dụng trong bốn việc ẩm thực, y phục, phòng xá, y dược…

5. Phàm phu hành trì nhập định Tam-muội hữu lậu, bậc Thánh nhập định vô lậu tùy theo đó mà đắc thiền.

6. Đọc tụng kinh điển, diễn thuyết tu tập 10 pháp hành v.v…

[4] Khắc chu cầu kiếm (Khắc chu nhân): chuyện khắc chu cầu kiếm trong thiên Sát Kiếm của Lã Thị Xuân Thu. Chuyện ghi: “Có một người qua sông, vô ý đánh rơi kiếm xuống sông. Người ấy vội vã khắc lên thuyền để đánh dấu chỗ kiếm rơi. Thuyền đã đi đến nơi khác rồi mà người kia vẫn theo dấu khắc ấy lặn xuống sông tìm kiếm. Kết quả tìm hoài chẳng được”.

Trong Thiền tông dùng từ ngữ này để chỉ cho người học ngu si chấp trước, thiếu sự linh hoạt đối với cơ pháp của bậc thầy (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 2276).

[5] Thủ chu đãi thố (ôm cây đợi thỏ): Truyền thuyết kể rằng thời Chiến Quốc, ở nước Tống có một người nông dân thấy một con thỏ đâm đầu phải gốc cây mà chết, anh ta bèn bỏ cả việc cày bừa ngồi ôm gốc cây để chờ con thỏ khác lại đâm đầu vào gốc cây ấy nữa (Từ điển Hán-Việt, VNNH, Phan Văn Các chủ biên, Nxb Tp. HCM, 2001, tr. 1309).
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11378)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
(Xem: 11541)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13530)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14120)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10296)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10762)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11312)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11267)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11418)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10159)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9955)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10688)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11310)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42168)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10473)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11846)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10004)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10450)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10610)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45726)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32101)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11312)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10692)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11308)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10616)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13453)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12363)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11012)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10604)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12305)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11154)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11834)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29239)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9202)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10529)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10221)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10568)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10900)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10796)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32114)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27371)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17773)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11850)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12274)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10436)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11695)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10417)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10768)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28051)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10140)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10270)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10635)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10761)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11219)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10390)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10687)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11462)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18238)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10512)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12836)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11747)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29163)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28571)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28271)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13313)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22760)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13427)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11554)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13797)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25692)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26055)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22289)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14478)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12058)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11789)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11688)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11483)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33161)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31828)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12013)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39606)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22465)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11954)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14211)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13343)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14302)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12053)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10387)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11223)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13290)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34502)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12608)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12216)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13526)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12615)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12960)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16286)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11729)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27372)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28416)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant