Danh hiệu của đức PhậtThích-ca Mâu-ni đọc theo âm Phạn và Pāli tên là Sakyamuni.
Hán phiên âm là Thích-ca Văn Phật và dịch Thích-ca là Năng nhân, Năng nhẫn, Năng tịch, Tịch mặc, Năng mãn, v.v…
Năng nhân là có khả năng thực hiện sự yêu thương; Năng nhẫn là có khả năng kham nhẫn; Năng tịch có khả năng thực hiệnđời sốngan tịnh; Tịch mặc là có khả năng yên tịnh từ trong ra
ngoài; Năng mãn có khả năng thành tựuviên mãn các hạnh.
Mâu-ni dịch là Thánh nhân, Hiền nhân, Đạo sĩ, Ẩn sĩ, hay Tịch mặc… nghĩa là bậc
Thánh nhân, bậc Hiền triết, bậc Minh triết, bậc Đạo sĩ, bậc Ẩn sĩ… có khả năng sống đời thanh tịnh và giải thoát.
Như vậy, Thích-ca Mâu-ni là đấng có đời sốngan tịnh, đời sống có kham nhẫn, tràn đầy sự thương yêu, xuất thân từ họ Thích-ca (Sakya). Và Thích-ca có nghĩa là
dòng họ có đầy đủ khả năngtự lực và sáng tạo.
Tên của Ngài đọc theo âm Pāli là Siddhattha và Phạn là Sarvasiddhārtha.
Hán phiên âm là Tất-đạt-đa-la-tha, Tất-đạt-đa, Sĩ-đạt-ta, Tất-đạt… và dịch là Nhất
Thế Nghĩa Thành, nghĩa là thành tựu tất cả chân nghĩa; hoặc dịch là Nhất Thế Sự Thành, nghĩa là thành tựu hết thảy sự nghiệp; hoặc dịch là Thành Lợi, nghĩa là thành tựu hết thảy lợi ích; hoặc dịch là Nghiêm Sự, nghĩa là chiêm nghiệm để thấy rõ nghĩa lýchân thật.
Thân phụ là Suddhodana, Hán dịch là Tịnh Phạn, nghĩa là vị có khả năng hiến tặng hạnh phúc cho đời; mẹ là Maha-Māya, Hán dịch là Đại Mộng, do trong chiêm
bao thấy được mộng lành. Dòng họ Thích-ca thuộc giai cấp Sát-đế-lợi (Khattiya), kinh thành Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu). Ngài xuất hiện vào thời kỳ tuổi thọ của nhân loại 100 tuổi.
Thị hiện đản sanh:
Hoàng hậu Māya năm 45 tuổi, một hôm nằm mộng thấy voi trắng sáu ngà từ trên trờiđi xuống và giữa không trung có những làn
sóng nhạc vang lừng, quyện lại với những lời chúc tụng của chư thiên xa
vọng không ngớt.
Voi trắng đi xuống càng lúc càng gần, da của voi trắng như tuyết, ngà của voi có quấn một đóa sen hồng. Voi đến gần và đưa đóa sen hồng chạm vào người bà. Trong giấc mộng, bà thấy thân tâm
sảng khoái lạ kỳ.
Tỉnh dậy bà đem giấc mộng ấy kể lại cho vua Tịnh Phạn nghe. Ngay sáng hôm ấy, vua mời các nhà đoán mộng tại kinh đô Ca-tỳ-la-vệ đến để giải mộng.
Các nhà đoán mộng đều cho rằng: “Đây là một giấc mộng lành chắc chắn Hoàng hậu sẽ thụ thai, và sẽ sinh Hoàng tử xuất chúng”.
Nghe các nhà đoán mộng như thế, vua Tịnh Phạnhết sứcvui mừng, vua hạ lệnh đem lương thực, tài sản trong kho ra chẩn phát cho dân nghèo và những người tật bệnh, ân xá lao tù. Nhân dân xứ Ca-tỳ-la-vệ đều thấm nhuần ơn mưa mốc.
Gần một năm kể từ ngày nằm mộng, hoàng hậu Māya về vương quốc Koliya quê hương của bà để sinh nở. Trên đường từ Ca-tỳ-la-vệ về Ramagama của vương quốc Koliya quê của bà để sinh nở, bà đã ghé nghỉ tại vườn Lâm-tì-ni (Lumbini).
Trong
vườn, muôn hoa đang nở rộ, chim chóc đang hót ca. Một sáng mai đẹp trời, bà thấy hoa Vô ưu đang nở đầy cành, hương và sắc đẹp đẽ, liền bước
tới đưa tay nắm lấy cành hoa, thì Thái tử cũng liền thị hiện ngay lúc đó.
Bấy giờ là ngày trăng tròn tháng Vesākha, năm 623 trước Tây lịch.
Khi ra đời Thái tử đứng thẳng nhìn vào hông phải của mẹ mà nói:
“Ngã thử thân hình Tùng kim nhật hậu, Bất phục cánh thọ Ư mẫu hiếp trung Bất nhập thai ngọa Thử thị ư ngã Tối vị
hậu thân Ngã đương tác Phật”.1
Nghĩa là:
Thân này của con Từ nay về sau Không còn trở lại Vào nằm trong thai Ở
trong hông mẹ Thân nầy của con Là thân sau cùng Con sẽ thành Phật.
Rồi, Thái tử nhìn bốn phương, mỗi phương đi bảy bước đều có
hoa sen lớn xuất hiện để đỡ chân Ngài. Trước hết nhìn về phương Đông, Thái tử nói:
“Chánh ngữ chánh ngôn, Thế gian chi trung Ngã vi tối thắng, Ngã tùng kim nhật Sanh phần dĩ tận”.2
Nghĩa là:
Lời nóichính xác, Ở trong thế gian, Tôi là tối thắng, Tôi
từ hôm nay Chấm dứt sinh tử.
Chi tiết nầy, lại được ghi chép cụ thể hơn trong Phương Quảng Đại Trang Nghiêm kinh, rằng:
“Khi sinh ra Ngài bước đi về phương Đông bảy bước có bảy hoa sen đỡ chân; lúc
bấy giờ Ngài không có chút sợ hãi và nói mạch lạc như sau:
Ngã đắc nhất thiếtthiện pháp Đương vị chúng sanh thuyết chi”.
Nghĩa
là: Tôi sẽ thành tựu hết thảy thiện pháp và sẽ vì chúng sanh mà nói.
-Ngài
lại bước đi bảy bước về phương Nam, rồi lại nói:
“Ngã ư nhân thiên Ứng thọ cúng dường”.
Nghĩa là: Tôi xứng đáng nhận sự cúng dường của chư Thiên và loài ngời.
Ở trong thế gian Tôi là tối tôn Tôi là tối thắng Thân
nầy của tôi Là thân cuối cùng Chấm dứt sinh tử.
Ngài lại bước đi bảy bước về phương Bắc và nói:
“Ngã đương ư nhất thiết chúng sanh trung, vi vô thượng thượng”.
Nghĩa là: Tôi sẽ ở nơi hết thảy chúng sanh, làm bậc Vô thượng thượng.
Ngài lại đi bảy bước nhìn xuống Hạ phương và nói:
“Ngã đương hàng phục Nhất thiếtma quân Hựu diệt địa ngục Chi mãnh hỏa đảnh Sở hữukhổ cụ Thi
đại pháp vân Vũ đại pháp vũ Đương linh chúng sanh Tận thọ an lạc”.
Nghĩa là:
Tôi sẽ hàng phục Hết thảy ma quân Hủy
diệt khổ cụ Dập tắt lửa dữ Ở nơi địa ngục Giăng mây pháp lớn Tuôn
mưa pháp lớn Khiến cho chúng sanh Tận hưởng an lạc.
Ngài lại đi bảy bước nhìn lên Thượng phương và nói:
“Ngã đương vị nhất
thiết chúng sanh, chi sở chiêm ngưỡng”.
Nghĩa là: Tôi sẽ vì hết thảy chúng sanh làm nơi chiêm ngưỡng.
Lúc Ngài nói vừa xong, âm thanh của Ngài vang khắp cả ba ngàn đại thiên thế giới.3
Năm ngày sau, vua Tịnh Phạn làm lễ quán đảnh và đặt tên Thái tử là Tất-đạt-đa và mời đạo sĩ A-tư-đà (Asitakaladevala) đến đoán tướng. Đạo sĩ nói: “Thái tử có 32 tướng tốt của bậc Đại nhân, nếu ở đời thì Thái
tử sẽ là vị Chuyển Luân Thánh Vương, dùng đức hạnh để trị vì thiên hạ. Nếu xuất gia, thì Thái tửtrở thành Bậc toàn giác đem lại sự hạnh phúcan lạc cho đời”. Niềm tin, hiểu biết và sự cảm nhận:
Việc
chuyển tải năng lượng từ một không gian nầy đến một không gian khác bằng tự thân của những năng lượng hay bằng những dụng cụ khoa học vật lý
đối với trí thức của con người ngày nay không còn là điều bí hiểm.
Cũng
vậy, việc đức Phật Thích-ca ra đời cách đây 26 thế kỷ, đi bảy bước trên
bảy hoa sen và tuyên bố những câu như đã trích dẫn ở trên đã làm cho nhiều nhà trí thức tự đặt lại câu hỏi, những sự kiện ấy có thực sự xảy ra không hay chỉ là bịa đặt, huyền thoại và bí hiểm?
Kinh Hoa Nghiêm còn nói rằng, khi đức Thích-ca thị hiện xuống thế giới Ta-bà nầy,
nằm ở trong thai mẫu, Ngài đã thuyết pháp cho vô số Bồ-tát khắp cả mười
phương và vô số Bồ-tát vào ra ở trong thai mẫu của Ngài để nghe Ngài thuyết pháp, ấy lại là một điều khó tin khó hiểu đối với chúng ta nữa, lại càng huyền thoại và bí hiểm hơn nữa?
Và kinh Pháp Hoa lại nói, không phải đức Thích-ca mới thành Phật từ đời nầy, mà Ngài đã thành
Phậttừ vô lượng kiếp về trước và đã từng giáo hóavô lượng, vô số, vô biênchúng sanh. Nên sự có mặt của Ngài cách đây hơn 26 thế kỷ, chỉ là sự tái diễn. Sự tái diễnliên tục của bản nguyệnTừ bi. Và Ngài vẫn nghiễm nhiên còn đó mà mắt thườngchúng ta không thể nào thấy được.
Những
điều ấy, kinh điển đã ghi lại cho chúng ta đọc, làm cho ta như có vẻ khó hiểu và huyền thoại. Nhưng, chẳng khó hiểu và huyền thoại chút nào, khi ta có một chút tuệ giác và tâm nguyện.
Tại sao? Trước hết, ta
nhìn nhận đức Phật là một con người như bất cứ con người nào ở trên trái đất nầy, nên những gì mà đời sốngcon người biểu hiện, thì đối với những loại vật thấp kém không thể nào hiểu nổi, và đối với thế giới loài
vật, thì mọi biểu hiện của thế giớicon người đối với chúng là không thể nghĩ bàn, là cực kỳ huyền thoại, bí hiểm. Nhưng những hành động biểu
hiện giữa con người với con người, chẳng có gì là huyền thoại cả, chúng
là một sự kiện biểu hiện tự nhiên.
Cũng vậy, đức Phật Thích-ca xuất hiện giữa thế giớicon người với hình thứccon người, nhưng lại khác người và siêu việtcon người. Tại sao? Vì con ngườixuất hiện trong thế giớicon người bằng nghiệp lực và bằng quả báo làm người; nên sự xuất hiện ấy hoàn toànthụ động, không có chủ quyền và tự do, bị trói
buộc ở trong sanh, già, bệnh, chết.
Trái lại, đức Phậtxuất hiện
giữa thế giớiloài người bằng hình tướngcon người, nhưng không phải bằng nghiệp lực mà bằng nguyện lực, không phải bằng khát ái mà bằng đại từ bi, không phải bằng quả báosinh tử mà bằng phước báo và với tư cách của một vị Giác ngộ, nên Ngài hoàn toàn có tự do và có chủ quyền khi nhập thai, trú thai và xuất thai.
Ngài nhập thai, trú thai và xuất thai đều là với tư cách của một vị Giác ngộ, không bị ràng buộc bởi
những hệ lụysinh tử, nên khi nhập thai Ngài có vô số Bồ-tát tiễn đưa, nhạc trời ngân lên ca ngợi; khi Ngài ở trong thai, có vô số Bồ-tát vào ra thai tạng để nghe Pháp và luận bànChánh pháp và khi Ngài xuất thai, thì có chư Thiên tung hoa và hoa sen đỡ chân, đi bảy bước và có những lời tuyên bố xác quyết tư cáchgiác ngộ của mình, như:
“Ở trong thế gian Tôi là tối tôn, Tôi là tối thắng Thân nầy của tôi Là
thân cuối cùng Không còn sinh tử”.
Lời tuyên bố như vậy và phong thái biểu hiện như vậy của Ngài, nếu ta nghe lời ấy bằng tâm Bồ-tát và bằng tâm Phật, thì chẳng có gì khó hiểu. Nếu ta đưa đôi mắt Bồ-tát hay Phật mà nhìn, thì chẳng có gì là khó tin, chẳng có gì là bịa đặt và huyền thoại; nhưng nếu ta đem tâm phàm phu mà nghe, lấy mắt thịt mà nhìn, thì ta chẳng nghe và chẳng thấy cái gì, nên tất cả đều là huyền
thoại và bí hiểm.
Khoa học ngày nay đã khám phá ra những điều kỳ
lạ, nên việc kinh Hoa Nghiêm nói, khi đức Phật Thích-ca đang ở trong thai mẹ, Ngài đã thuyết pháp cho vô số Bồ-tát khắp cả mười phương, và vô
số Bồ-tát khắp cả mười phương đều đến nhập thai mỗi ngày để nghe đức Thích-ca thuyết pháp là điều mà ngày nay với cách nhìn khoa học, ta có thể tin và hiểu được bằng những phương phápsiêu âm, hay bằng những phương phápsử dụngquang tuyến X, hay những làn sóng điện của truyền hình, truyền thanh, v.v…
Lại nữa, đức Thích-ca đến và nằm ở trong thai mẹ bằng năng lượng của tuệ giác và đại nguyệnTừ bi, nên những gì ô nhiễm trong thai mẹ không làm chướng ngại và ô nhiễm được Ngài.
Nằm ở trong thai mẹ mà đức Thích-ca vẫn phóng ánh sáng của năng lượngtuệ giác và đại nguyện để tiếp xúc với năng lượngtuệ giác và
đại nguyệntừ bi của vô số Bồ-tát khắp cả mười phương. Đồng thời mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút, mỗi giây, vô số Bồ-tát khắp cả mười phương đều sử dụng ánh sáng bằng năng lượngtuệ giác và đại nguyệntừ bi của mình để tiếp xúc với ánh sáng năng lượngtuệ giác và đại nguyệntừ bi của đức
Thích-ca đang có mặt và hoạt động ở trong mẫu thai là điều mà chúng ta có thể hiểu và thấy được bằng cái nghe và cái thấy, bằng tai mắt khoa học công nghệ ngày nay.
Do đó, việc nhập thai, trụ thai và xuất thai của đức Thích-ca với những hiện tượng kỳ lạ, khó hiểu, khó tin so với sự suy nghĩ và cách nhìn bằng con mắt của con người, lại là những sinh hoạtthực tế trong truyền thốngvăn hóa, đạo đức, tâm linh của thế giớibản nguyện; ấy là thế giới của những vị Bồ-tát chỉ còn một đời sau cùng thành Phật. Các Ngài đều đã, đang và sẽ nhập thai như vậy; đều đã, đang và sẽ trú thai như vậy và đã, đang và sẽ xuất thai như vậy.
Điều
ấy đã, đang và sẽ diễn ra như vậy là như vậy, ta có cảm nhận được thì cảm nhận, ta có tin được thì cứ tin; nếu chưa cảm nhận được, chưa tin được thì để đó, đừng vội vàngbác bỏ, hay đừng vội vàngkết luận. Cũng chỉ là một sự kiện xảy ra, ta phải đứng từ nhiều góc độ để nhìn nhận, và
cảm nhận để tin hiểu, ta mới có thể thẩm thấu được bản chất của vấn đề.
Nên,
Phật Đản PL.2550 lại trở về với chúng ta, chúng ta lại thực tập hạnh không vội tin và không vội phỉ báng hay kết luận khi thấy những gì đang xảy ra trong ta và xung quanhchúng ta.
Chúng ta phải thực sự sâu
lắng và trầm tĩnh, để chúng ta dâng hiến đức tính ấy lên cúng dường ngày Đản Sanh đức Từ Phụ của chúng ta và muôn loài.
Chú thích: 1. Phật Bản Hạnh Tập Kinh 7, tr. 687a, Đại Chánh 3. 2.
Kinh đã dẫn, 687b 3. Phương Quảng Đại Trang Nghiêm Kinh 3, tr. 553ab, Đại Chánh 3.
"Đêm Trước Một Cành Mai" là một bài thơ thường được nhắc nhở tới mỗi khi người ta nói đến dòng văn học Thiền. Đó là một bài thơ có vẻ như dễ hiểu và có tính chỉ thẳng (trực chỉ)...
Trời Cali suốt cả tháng cuối năm mưa buồn như mưa Huế. Trong bầu trời tím lịm của mưa lạnh, người ta mới nghĩ tới mùa Xuân. Tôi lắng lòng nhìn lại cột mốc mùa Xuân của đời mình...
Tôi yêu hoa cải, yêu màu vàng rụm của những đám hoa cải dọc bãi bờ sông Hồng. Màu vàng hoa cải giống màu y của quý thầy, sư cô đã từng đi cả vào giấc mơ của tôi...
Pháp mônTịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môntổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đờigiáo hóa của đức Thích Ca.
Ước mơ về một mùa xuân tràn đầy hạnh phúc và miên viễn luôn thao thức trong tâm hồnmọi người. Chẳng thế mà bao nhiêu thi nhân, nhạc sĩ không ngừng viết về những khát vọng...
Thưa Thầy, năm nay con 19 tuổi. Làm quà kính dâng Thầy nhân ngày Phật đản, không gì bằng một chút suy tư. Tuy sống trong xã hội Âu châu, nhưng từ nhỏ con đã theo Thầy lên chùa mỗi dịp lễ Phật đản...
Trong những ngày đầu năm, chúng ta có thể hạ quyết tâmthực hiện công cuộc thay đổi vận mệnh của mình bằng phương thức chuyển nghiệp qua nhiều bước từ cạn tới sâu...
Phật Giáo, Đạo của an lạc, Đạo của thương yêu, Đạo sống chân thật trong từng phút giây mình có, Đạo của tâm từ luôn hướng người nên tin tưởng vào ngày mai...
Hạnh quay nhìn về nơi gốc cây cổ thụ. Người khách lạ đã lẫn đâu mất giữa đám đông người qua lại. Cô chưa kịp hỏi tên nhưng cũng thầm cảm ơn cuộc hạnh ngộ này.
“Tôn trọng sự sống là một điều rất được đề cao trong Phật giáo. Cấm sát sanh và làm hại thú vật là một trong những giới luậtcăn bản dành cho mọi Phật tử...
Xuân về, những chậu hoa trong vườn tôi nở rộ, tỏa ngát hương. Xuân mang không khí hân hoan bủa khắp, cây lá thay áo mới, mặt người hớn hở, không còn nét lạnh lùngmùa Đông...
Thời gian trôi một dòng, trôi không trở lại. Quà tặng của thời gian là dành cho những ai quên nó, có nghĩa là quên chiều dài để vươn tới chiều cao thời gian cũng chính là không gian cao rộng.
Thực tế, dưới triều đại vua Lý Nhân Tông, thì cả dân tộc đang bước vào thời kỳphục hưng mọi giá trịvăn hóa sau hơn 1.000 năm bị phong kiến Trung Hoa xâm lược. Phật giáotrở thànhquốc giáo...
Ngày xuân mà thiếu trà là thiếu hương vị đậm đà của xuân. Người xưa coi trà như lẽ sống, người nay cũng lấy trà làm bạn tri âm. Một người bạn hiền, một khung cảnh ấm áp...
Cây mai vàng Yên Tửtượng trưng cho tinh thần bền bỉ, vượt lên mọi khó khăn theo truyền thốngThiền môn mà các hoà thượng đã dày công vun xới và phát triển hệ phái Trúc Lâm Yên Tử.
Buổi chiều đó, gương mặt thời gian như hiển hiện thật lâu, khắc khảm một năm những buồn vui được mất cho những ưu phiền tan đi như làn gió và chỉ để còn giữ lại cõi lòng thơm thảo vô ưu...
Kobayashi Yatarõ được tôn sùng khắp hoàn cầu với cái tên Issa, có nghĩa là Một Tách Trà. Issa sanh năm 1763 làng Kashiwabara trong nông trại quận Nagano trung tâmNhật Bản bây giờ.
Nhà thiền có danh từ “Tọa Xuân Phong” để diễn tảhạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yênvới nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp.
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đíchgiới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợphoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
Sương phủ dầy đặc, 10 giờ 30 đêm mà cứ như khuya lắm; chim chóc im bặt, cảnh vật chìm vào u tịch. Trong màn đêm, xa xa còn le lói ánh sáng mờ đục của những ngọn đèn...
Ðạo Phật ra đời nhằm xây dựngmột đời sống hạnh phúc, an lạc cho mọi người. Cho nên khát vọng trở nên người giàu có nhằm vơi đi khổ đau do đời sống vật chất đem lại...
Thằng Hào cảm thấyhạnh phúc vô bờ, nó cứ muốn cho giây phút này kéo dài ra, dài ra mãi mãi… Nó cảm nhận được, cảm thấy được từ bên ngoài vừa có một mùa Xuân an vui...
Trong giáo lýđạo Phậttuyệt nhiên không có chuyện đốt vàng mã cho người đã chết. Kinh điển của Phật có dạy rằng, một người bình thườngchúng tasau khi chết rồi...
Sáng sớm mùng 1 Tết, tiết trời Đà Lạt (Lâm Đồng) thường se lạnh, mưa xuân lất phất bay, ngoài đường phố cũng thường thưa thớt người bởi hầu hết các gia đình còn tất bật làm cơm cúng tân niên.
Ngày còn nhỏ, dĩ nhiênchúng tôi chưa biết ăn chay là gì. Chỉ thấy cứ vài ngày trong tháng là Má tôi lại ngồi ăn riêng. Má không ăn đồ ăn ‘bình thường’ của chúng tôi, mà Má có chén chao, và rau luộc.
Năm nay, Tết Nguyên Đán Canh Dần nhằm vào cuối tuần, cho nên đêm Giao Thừa và ngày Mùng Một Tết, nhằm Thứ Bảy, Chủ Nhật, ngày 13, 14 tháng 2 năm 2010, tất cả các Chùa đều tấp nập người đến Lễ Phật...
Sau nhiều trận long tranh hổ đấu thật hào hứng ở vòng loại, tứ kết, rồi bán kết, còn lại hai ứng cử viên nặng ký ngang sức ngang tài, từng hòa nhau hai trận không tỉ số với chất lượng chuyên môn rất cao...
Từ lâu, hình ảnh con trâu cứ thế mà đi vàotâm thứcmọi người, không chỉ có giá trịtrong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiênđi vàovăn học nghệ thuật Việt Nam.
Thật ra, sự giàu có là một khái niệm rất mơ hồ và chỉ dễ sử dụng khi nói về người khác. Bản thân bạn có phải là người giàu có hay không? Nếu bạn dành thời gian để suy nghĩ thật kỹ về câu hỏi này...
Đi bách bộ ra sân, hít thở không khí trong lành buổi sáng, tôi cảm nhận rõ sự sảng khoái sau một đêm dài ngon giấc. Sân trước vang lên tiếng chổi quét cùng tiếng cười nói của mấy chủ Tiểu ở chùa.
Tất cả mọi thất bại hay thành công trên cuộc đời đều bắt nguồn từ tâm. Tâm cũng là gốc của sanh và tử, là cội nguồn của mọi bất hạnh cũng như hạnh phúc.
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêngthanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lựcgia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
Đức Phật ra đời, những lời dạy của Ngài phải chăng đây là lời giải đáp cho sự tìm kiếm và trao chìa khóa để con người mở tung cánh cửa cuộc đời để đi vàothế giớian toàn và thực hiệnước mơ của mình.
Sở dĩ được gọi là Mật giáo vì đa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
Chùa Phật Đà tổ chức Cung Nghinh Chiêm Bái Phật Ngọc và Xá Lợi Phật tại CALIFORNIA CENTER FOR THE ARTS, Escondido - 340 N. Escondido Blvd., Escondido, CA 92025 từ ngày 29/1 đến 6/2/1011
Mục đích của quyển sách này là trình bày phương phápthực hànhthiền quán vipassana. Tôi lặp lại, phương phápthực hành. Đây là một kim chỉ nam thiền tập...
Một buổi sáng ra vườn, chợt thấy mấy chồi non vừa nhú, rụt rè, mảnh mai, run rẩy trước làn gió nhẹ. Những giọt sương trong vắt còn đọng trên lá cây, phản chiếu tia nắng mai lóng lánhngũ sắc.
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đườngtâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ýban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đườnggiác ngộ hay không...
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quả mà chúng ta đã vun trồng...
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng tachắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
Thấy chúng sinhphàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Laitừ bitrí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọng và tri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lực và căng thẳng cho chính bản thân mình.
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hànhchánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
Hiện nay, càng có nhiều người đang xoay qua và đặt kỳ vọng vào Thiền. Cho nên, họ rất cần thiết những phương thức hướng dẫn đơn giản nhất, để cho họ có thể tự tu tập...
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biếtsáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
Không sinh, không diệt. Không đến, không đi. Đó chính là ý nghĩa nền tảng về một tâm xuân miên viễn. Khi chúng ta nhìn sự vật có sinh có diệt, có đến có đi, lòng ta không khỏi sinh ra những luyến lưu tiếc nuối.
Nếu một người thiện nam hay tín nữthực hành và hoàn thành Năm Thực TậpChính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
Nền tảng những lời dạy của Đức Phật là phật tính. Và cũng do phật tính mà Đức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiện và đạt đượcgiác ngộ.
Qua sự trì niệmDanh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặnggật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứu và tu tập với những đạo sưTây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tậpthực tiễnhằng ngày.
Năm giờ sáng, mây xám tuy mỏng, nhưng che phủ bầu trời, che cả những vì sao muộn khiến không gian ẩm tối, lạnh lẽo và rưng rức quạnh hiu! Vậy mà có vị Phật lặng thinh ngồi đó...
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
Đạo Phật là tôn giáo đầu tiên vượt thoát ra khỏi giới hạn tự chiêm nghiệm và đặt định của con người để vươn tới cõi bao lavô cùng, vô tận của thế giớitâm linh... Trần Kiêm Đoàn
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.