Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

2. Kinh Ðại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương, quyển 2

31 Tháng Năm 201100:00(Xem: 15173)
2. Kinh Ðại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương, quyển 2

BỘ MẬT TÔNG (Bốn Tập)
Dịch Giả:Tỳ Khưu Thích Viên Đức

B. TẬP HAI
KINH ÐẠI THỪA TRANG NGHIÊM BẢO VƯƠNG

NAM MÔ ÐẠI THỪA TRANG NGHIÊM 
BẢO VƯƠNG KINH HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT MA HA TÁT 
(3 lần) 

PHẬT NÓI KINH 
ÐẠI THỪA TRANG NGHIÊM BẢO VƯƠNG 

 
QUYỂN HAI 

 
Sau thời kỳ Phật Thức Khí, có Ðức Phật ra đời hiệu là Tỳ Xá Phù Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Trừ Cái Chướng! Tôi ở thời ấy làm Nhẫn Nhục Tiên Nhơn nơi thâm sơn. Chỗ ấy núi cao hiểm trở sỏi đá khô cằn, không người lai vãng ở lâu trong đó. Bấy giờ, tôi ở chỗ đức Như Lai kia, nghe công đức oai thần của Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát, Ngài Quán Tự Tại hiện thân vào nơi kim vị, vì Phú Diện hữu tình mà nói diệu pháp, chỉ bày Bát Chánh Ðạo, đều khiến chứng được địa vị Niết Bàn. Ra khỏi kim địa này lại vào ngân địa. Chỗ ấy hữu tình đều là bốn chân. Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát vì loài hữu tình kia mà nói pháp: “Ngươi nên lắng nghe! Chánh pháp như vậy, cần phải phát tâm suy xét chín chắn, ta nay chỉ bày tư lương Niết Bàn cho ngươi.” Các hữu tình ấy đứng trước Ngài Quán Tự Tại bạch Bồ Tát rằng: “Hữu tình không mắt, cứu làm sáng tỏ, khiến được thấy đường. Không nơi nương nhờ, lại làm cha mẹ, khiến được nhờ nương. Trong đường tăm tối làm đèn đuốc sáng, khai mở chánh đạo là nguồn giải thoát. Nếu có hữu tình niệm danh hiệu Bồ Tát thì được an vui. Chúng tôi thường chịu khổ nạn như vậy.” Khi ấy tất cả những hữu tình nghe kinh Ðại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương, được nghe kinh rồi, liền được an vui, chứng bậc Bất thối

Bấy giờ, Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát ra khỏi nơi ấy lại vào thiết địa mà nơi ấy là chỗ cấm của vua Ðại Lực A Tô La. Bồ Tát khi vào trong đó hiện thân như Phật. Bây giờ vu đại Lực A Tô La, từ xa đến nghinh đón Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát vào trong vương cung A Tô La, có vô số quyến thuộc, phần nhiều trong ấy đều là lưng gù xấu xí, quyến thuộc như vậy đều đế, thân gần lễ bái nơi chân Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát mà nói bài kệ rằng: 

Con đời nay đắc quả, chỗ nguyện thảy viên mãn

Mong cầu được như ý, đấy là chánh kiến con. 

Ðã được thấy Bồ Tát, con và các quyến thuộc đều được an vui, lại lấy bảo tòa báu dâng hiến Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, chấp tay cung kính bạch rằng: Bọn quyến thuộc chúng con từ xưa đến nay ham ưa việc tà dâm, thường ôm lòng sân hận, ưa giết hại sanh mạng, tạo tội nghiệp âý, tâm con rất lo buồn, sợ hãi già chết luân hồi, chịu nhiều điều khổ não, không nơi nương, không chỗ tựa. Cúi mong Ngài thương tình cứu độ, vì con chỉ bày đường đạo giải thoát

Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát dạy rằng: Thiện nam tử! Ðức Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác thường làm hạnh khất thực, nếu ai bố thí đồ ăn sẽ được phước đức nói không kể hết. Thiện nam tử! Chẳng những thân tôi tại hang A Tô La này nói không thể hết, mà cho đến như mười hai Căng già hà sa số Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đều ở một chỗ, cũng không thể nói hết phước đức số lượng như thế. Thiện nam tử! Vi trần đã có, tôi có thể đếm số lượng của nó được. Thiện nam tử! Cúng thí cơm cho đức Như Lai được phước đức đó, tôi không thể nói hết số lượng. Thiện nam tử! Lại như nước biển lớn, tôi có thể đếm mỗi một giọt nước kia được. Thiện nam tử! Cúng thí đồ ăn cho đức Như Lai thì được phước đức tôi không thể nói hết số lượng. Thiện nam tử! Lại như bốn đại châu, đã có người nam, kẻ nữ, con trai, con gái, thảy đều gieo ruộng, đầy khắp bốn đại châu, không trồng giống khác, chỉ gieo hạt cải. Long rồng thuận thời, thường được mưa xuống, hạt cải chắc tốt, nơi trong một châu lấy làm sân chứa, giậm đạp xong rồi gom thành đống lớn. Thiện nam tử! Như vậy tôi có thể đếm hết số mỗi một hạt cải. Thiện nam tử! Cúng thí đồ ăn cho đức Như Lai được phước đức tôi không thể nói hết số lượng. Thiện nam tử! Lại như núi Diệu Cao Sơn Vương vào nước tám vạn bốn ngàn Du thiện na, ra nước tám vạn bốn ngàn Du thiện na. Thiện nam tử! Như vậy núi Vương kia lấy làm giấy, lấy nước biển lớn chứa đầy trong đó, đều làm nước mực. Ðem bốn đại châu gồm có tất cả kẻ nam, người nữ, con trai, con gái, thảy đều chép viết lượng núi Diệu Cao đã chứa giấy ấy, chép hết không sót, như vậy tôi có thể đếm số mỗi một chữ kia. Thiện nam tử! Cúng thí món ăn cho đức Như Lai được phước đức mà tôi không thể nói số lượng. Thiện nam tử! Như vậy tất cả người chép viết ấy, đều đắc Thập Ðịa Bồ Tát vị. Như vậy Bồ Tát đã có phước đức, cùng với cúng thí cho đức Như Lai một bữa ăn, lượng phước đức kia bằng nhau không khác. Thiện nam tử! Như Căng già sa hà sa số biển lớn, trong đó có số cát, tôi có thể đếm mỗi một hột các kia. Thiện nam tử! Cúng dường bữa ăn cho đức Như Lai được phước đức mà tôi không thể nói hết số lượng. Lúc bấy giờ vua Ðại Lực A Tô La nghe nói việc đó buồn khóc thảm thiết, lệ chảy tuôn tràn, ôm lòng buồn khổ nghẹn ngào than thở. Bạch Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát rằng: Con từ xa xưa làm việc bố thí, nhưng chỗ thí ấy tối tăm phi pháp, do việc thí ấy cho nên con nay và các quyến thuộc ngược lại phải chịu nghiệp báo ràng buộc ở trong ác thú, nay đây làm thế nào đem ít phần thực, phụng dâng Như Lai biến thành cam lồ. Con từ xưa đến nay ngu si vô trí, tập hành ngoại đạo pháp Bà la môn. Thời ấy có một người thân hình hèn xấu, đến nơi chỗ con cầu xin cần thiết. Con đem bày đủ các thứ mão báu đẹp đẽ, vàng bạc vòng tai, y phục thượng diệu, đủ báu trang nghiêm, đồ đựng ứ già … Lại có trăm ngàn voi ngựa xe báu, chơn châu anh lạc, lưới báu trang nghiêm, treo các chuỗi ngọc xen nhau trong sức, có các thức tàn báu, lưới báu, màng trướng, trên treo các linh báu tiếng khua lung linh mầu nhiệm. Lại có một ngàn con trâu màu vàng lông sắc tuyệt đẹp, móng bạc trang nghiêm, sừng vàng phục sức. Lại dùng các báu xen nhau trang điểm. Còn có một ngàn đồng nữ hình thể đẹp đẽ, dung mạo đoan nghiệm, dường như thiên nữ, đầu đội mão trời, vàng báu đeo tai, thân mặc diệu y, lưng đeo dây báu, vòng quý đeo tay, chuỗi ngọc anh lạc, khua rung êm diệu, tràng hoa mầu nhiệm, các thứ như vậy thân đều trang sức. Lại có các thứ tòa báu vô số trăm ngàn. Còn có các thứ vàng bạc châu báu chứa để vô số. Có các trâu dê số trăm ngàn vạn, và người chăn thả cũng nhiều như thế. Các thứ đồ ăn mỹ vị thơm tho như ở cõi trời. Còn có vô số linh báu, vô số tòa sư tử bằng vàng bạc, vô số phất trần vàng báu đẹp đẽ. Vô số đồ bảy báu trang nghiêm tàn lọng. Khi bày đủ các thứ như vậy làm đại bố thí, thì có trăm ngàn Tiểu vương đều đến nhóm hội. Có vô số trăm ngàn muôn chúng Sát Ðế Lợi cũng đến nhóm hội. 

Khi con thấy rồi lòng sanh nghi hoặc. Ðương thời ấy con là tối tôn, đủ thế lực mạnh thống lãnh đại địa. Con y phép Bà la môn, chuyên làm sám hối túc thế ác nghiệp, muốn giết các Sát đế lợivợ con quyến thuộc của họ, lấy cắt tim gan để cúng tế trời, mong trời diệt tôi. Khi ấy con đem trói hết tay chân và nhốt hết vào trong hang cấm bằng đồng trăm ngàn người biên địa, cũng đều bỏ vào trong hang cấm, lấy dây sắt trói vào cột sắt, trói cột tay chân tất cả người ấy. Bây giờ con tạo dựng cửa hang, lấy cây thường làm lớp cửa thứ nhứt, lấy cây khư nhĩ làm lớp cửa thứ hai, dùng sắt làm lớp cửa thứ ba, lấy thục đồng làm lớp cửa thứ tư, lấy sanh đồng làm lớp cửa thứ năm, lấy bạch ngân làm lớp cửa thứ sáu, lấy 

huỳnh kim làm lớp cửa thứ bảy, trên bảy lớp cửa như vậy. Mỗi cái dùng năm trăm dây xiềng đóng chắc chắn, lại nơi mỗi cửa đè lên một hòn núi. Khi ấy có trời Na La Diên thoạt nơi một ngày hiện thân làm con ruồi bay đến dò xem. Lại một ngày nữa hiện hình con ong. Lại một ngày nữa hiện hình con thân heo. Một ngày nọ hiện tướng phi nhơn. Cứ thế ngày ngày thân tướng thay đổi dò xem. Con bây giờ trong tâm suy nghĩ làm làm phép Bà la môn, trời Na La Diên thấy con làm phép đó, đến nơi hang đồng mà phá hoại dẹp bỏ bảy lớp cửa, đem mỗi hòn núi ném qua nơi khác và lớn tiếng kêu những người bị trói rằng: Vô Thắng Thiên Tử! Các ngươi thân chịu đại khổ não, thân mạng các ngươi còn sống hay đã chết. Những người này nghe tiếng kêu hỏi, lên tiếng trả lời: “Mạng tôi nay còn đây.” Trời Na La Diên Tôn sai Ðại Lực Tinh Tấn cứu khổ nạn tới, trời kia liền pháp hoại hang đồng cùng bảy lớp cửa, khi ấy các tiểu vương ở tại hang đồng, liền được thoát nạn trói buộc mà thấy trời Na La Diên

Bấy giờ những người lòng toan suy nghĩ, Ðại Lực A Tô La Vương kia đã chết rồi ư? Hay lại ở đâu hay chết phương nào? Những Sát đế lợi lại nói lên rằng: Tôi thà cùng họ đối địch giết nhau chết mà còn có đất, chứ không chịu trói cột thế này đến phải chết, tôi nay sẽ y pháp Sát đế lợi cùng họ chiến đấu giết nhau, giả như có chết tại nơi đất ấy cũng được sanh Thiên. Giờ các Tiểu vương nơi tại nhà mình bày biện xe giá, yên cương dây ngựa, tay cầm dùi gậy muốn đại chiến đấu. 

Bấy giờ, trời Na La Diên hiện Bà la môn thân hình lùn xấu, mặc áo giáp da, quấn quanh nơi vai, trong tay nắm cầm chĩa ba cây nhọn, làm vật tùy thân, qua đến cửa con. Khi ấy kẻ giữ cửa bảo người kia rằng: Không nên vào cửa này, người ông hèn xấu, chớ có vào trong. Bà la môn nói: Tôi nay từ xa mà qua đến đây. Kẻ giữ cửa hỏi Bà la môn rằng: Ông từ đâu đến? Bà la môn đáp: Tôi là Ðại Tiên Nhơn làm Quốc vương xứ Nguyệt Thị, từ đó mà đến đây. Bây giờ kẻ giữ cửa đến chỗ Ðại Lực A Tô La Vương nói: Người ấy nay đến đây để làm gì? Người giữ cửa nói: Tôi nay không biết họ đến làm gì? Ðại Lực A Tô La Vương bảo rằng: Ngươi đi kêu Bà la môn đến. Người giữ cửa vâng lệnh gọi Bà la môn vào trong. Ðaị Lực A Tô La vương thấy rồi liền mời ngồi tòa báu. Kim Tinh là thầy đã được A Tô La Vương hầu hạ phụng sự ở trong đó, bảo Ðại Lực A Tô La Vương rằng: Nay Bà la môn này là người đại ác, lại đến đây quyết định phá hoại thầy ông. Nay sao biết ư? Bảo rằng: Tôi nay biết đó. Sao biết thân ta đã hiện ấy là trời Na La Diên? Ðã nghe thấy rồi tâm liền suy nghĩ. Con làm huệ thí thì không phản phúc, nay đến chướng nạn phá hoại nơi con. Ðại Lực A Tô La nói: Con miệng biện tài cần gì hỏi Bà la môn: Ông đến chỗ tôi là có ý gì? Bà la môn đáp: Tôi đến xin vua hai dặm đất. A tô La bảo Bà la môn rằng: khanh cần xin hai dặm đất, tôi sẽ cho khanh đất kia ba dặm. Trước lấy bình vàng trao nước tịnh thủy, bảo rằng cần đất khanh sẽ thọ lấy. Bà la môn thọ rồi mà chúc nguyện an vui trường thọ

Bấy giờ Bà la môn biến mất thân hìn xấu xí. Lúc ấy Kim tinh bảo A Tô La Vương rằng: Ông nay sẽ chịu ác nghiệp quả báo. Bây giờ trời Na La Diên thoạt nhiên hiện thân, trên vai gánh hai vầng nhật nguyệt tay cầm gươm bén, tay bưng luân báu cung tên cây gậy. Khi ấy Ðại Lực A Tô La Vương bỗng nhiên thấy rồi giựt mình run sợ, thân người té xỉu mê man dưới đất, giây lâu mới tỉnh, nay phải sao đây! Ta thà tự vẫn thuốc độc mà chết ư? Khi ấy trời Na La Diên đang đo số đất chỉ còn hai dặm chứ không có nữa, chẳng đủ ba dặm trái lời hứa trước, tôi nay làm? Na La Diên nói với vua rằng: Nay phải nên theo lời tôi chỉ bảo. Lúc đó, Ðại Lực A Tô La Vương thưa rằng: Tôi xin vâng lời chỉ giáo. Trời Na La Diên nói: Ngươi thật ấy ư? Ðại Lực A Tô La Vương thưa: Tôi như thật vậy. Ðây là lời thành thật tôi không hối tiếc

Thời ấy con y Bà la môn giáo, làm chỗ tác pháp đều bị phá hoại những của cải đã có, vàng bạc trân báu, đồng nữ trang nghiêm, y phục linh báu, tàn lọng, phất mầu, bảo tòa sư tử, trâu vàng nghiêm báu, cùng các quý khác trang nghiêm đầy đủ. Bấy giờ tiểu vương cùng thảy các chúng đều thọ nhận lấy, tức thời ra khỏi nơi chỗ tác pháp Ðại Lực A Tô La vơng. 

Vua Ðại Lực A Tô La bạch Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát rằng: Con nay tâm hằng suy nghĩ, vì khi xưa kia y pháp Bà la môn, làm đại hội bố thí, việc bố thí của con thật mê muội sai lầm. Con nay và các quyến thuộc, vì thế bị cầm giữ trong hang sắt này, chịu đại khổ não. Ngài Quán Tự Tại! Con nay xin quy y, mong Ngài thương xót, cứu thoát chúng con khỏi khổ nạn. Rồi làm lời khen rằng: 

Quy mạng Ðại Bi Liên Hoa Thủ

Ðại Liên Hoa Vương đại Cát Tường

Các thứ trang nghiêm diệu sắc thân, 

Ðầu đội mão trời trang nghiêm các báu. 

Ðảnh đội Di Ðà nhất thiết trí

Cứu độ hữu tình hằng vô số

Người thì bịnh khổ cầu an vui, 

Bồ Tát hiện thân làm thầy thuốc. 

Mắt sáng mặt trời nơi đại địa

Tối thượng thanh tịnh mắt mầu nhiệm

Chiếu soi hữu tình được giải thoát

Ðược giải thoát rồi diệu tương ưng

Cũng như như ý ma ni bảo, 

Hay hộ chơn thật diệu Pháp Tạng

Thường hằng nói sáu Ba la Mật

Xương dương pháp ấy đủ đại trí

Con nay khẩn thiết đến quy y

Khen ngợi Ðại Bi Quán Tự Tại

Hữu tình nhớ niệm danh Bồ Tát

Lìa khổ giải thoát được an vui. 

Tạo gây ác nghiệp đọa Hắc Thằng

đại A Tỳ địa ngục đạo

Có các ngã quỷ nơi khổ thú, 

Sợ sệt xưng danh đều giải thoát

Như vậy ác đạo các hữu tình

Thảy đều lìa khổ được an vui. 

Nếu người hằng niệm Ðại Sĩ danh, 

Sẽ được vãng sanh cõi Cực Lạc

Thấy Phật Như Lai Vô Lượng Thọ

Ðược nghe diệu pháp chứng Vô Sanh

Lúc ấy Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát thọ ký cho Ðại Lực A Tô La Vương: Ông đời vị lai sẽ được thành Phật, hiệu rằng Cát Tường Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Ông ở thời ấy sẽ chứng sáu chữ Ðại Minh của môn Tổng Trì. Nay đây tất cả các A Tô La Vương, ở đời sau ông đều cứu độ. Tất cả hữu tìnhcõi Phật như vậy, 

không còn có tiếng tham sâm si. Bây giờ Ðại Lực A Tô La Vương đã được thọ ký rồi, liền lấy trân châu anh lạc giá trị trăm ngàn cùng các thứ diệu báu mầu nhiệm trang nghiêm, trăm ngàn muôn số mão trời vàng ngọc vòng tai, dâng lên nguyện mong thọ nhận. 

Lúc bấy giờ Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát bảo Ðại Lực A Tô La Vương rằng: Ta nay vì ông nói pháp, ông hãy lắng nghe mà suy nghĩ, đời ngườivô thường giả tạm, mạng căn khó bền lâu, trong tâm các ông thường suy nghĩ tham đắm đầy đủ đại phước đức, lòng thì thường mến nhân dân tôi tớ, cho đến lúa nếp kho lẫm và kho tàng của báu. Tâm thường luyến cha mẹ, vợ con, cho đến các quyến thuộc, những thứ như vậy tuy hằng thương yêu nhưng chỉ như chiêm bao đã thấy, khi mạng chết rồi không thể thay nhau cứu được. Mong được sống lâu ở Nam Thiệm bộ này, do điên đảo đó nên sau khi mạng chung, thấy sông Nại Hà máu huyết tràn đầy, lại thấy cây lớn lửa hừng cháy mạnh. Thấy việc ấy rồi tâm sanh khiếp sợ, khi ấy Diêm Ma ngục tốt lấy dây cột trói, vội vã dắt đi trên đường lớn đầy chông dao bén nhọn. Mỗi cất bước đi là chẻ cắt đứt thương, có vô số chim la la, chim thứu hung tợn và những chó dại gầm rú ăn thịt. Ở tại địa ngục chịu cảnh cực khổ kia, trong đường đi lớn đầy dao nhọn bén, lại còn có những cây gai nhọn dài đến mười sáu ngón tay, mỗi bước có năm trăm mũi dao nhọn đâm vào bàn chân, đau đớn khóc than kêu gào thảm thiết mà nói rằng: Những hữu tình chúng tôi đều ưa tạo tội nghiệp, nay phải chịu đại khổ, tôi nay biết làm thế nào? Khi ấy Diêm Ma ngục tốt bảo rằng: Ngươi từ xưa đến nay chưa từng đem cơm cúng dường cho các bậc Sa Môn, cũng chưa từng nghe những tiếng pháp âm thâm diệu hòa nhã, chưa từng đi nhiễu tháp tượng Phật. Khi ấy các tội nhơn bảo Diêm Ma ngục tốt rằng: Tôi là tội chướng đối với Phật, Pháp, Tăng, không cung kính tín hiểu mà thường xa lìa. Ngục tốt bảo rằng: Chính ngươi đã tự tạo các ác nghiệp, nay phải chịu khổ báo, ngục tốt đem các tội nhơn ấy đến chỗ vua Diêm Ma, đến rồi đứng trước mặt. Khi ấy vua Diêm Ma nói rằng: Ngươi đi đến ở nơi chỗ nghiệp báo. Khi ấy Diêm Ma ngục tốt lãnh dắt tội nhân bỏ vào đại địa ngục Hắc Thằng, đến rồi các tội nhơn ấy bị ném bỏ vào trong địa ngục, đã ném vào rồi, mỗi một tội nhơn đều bị trăm vết thương, thân thể vị dùi cắt mạng đều không chết. Lại bị hai trăm vết thương lớn, thân thể đều bị dùi cắt mạng cũng không chết. Lại có ba trăm vết thương lớn, đồng thời dùi cắt thân mạng kia cũng không chết, mạng vẫn còn sống. Khi ấy đem ném vào hầm lửa lớn mạng cũng không chết. Lúc ấy lại lấy cục sắt nóng nhét vào trong miệng tội nhơn bắt phải nhai nuốt, môi răng lưỡi nứu, cổ và yết hầu đều bị cháy nát, cả tim gan ruột bụng cũng đều bị nướng, khắp thân cháy hoại như rang khô. Quán Tự Tại dạy Ðại Lực A Tô La Vương rằng: Khi chịu những cái khổ đó không một ai thay nhau cứu được, ngươi nên biết vậy. Ta nay vì ngươi nói pháp đó, các ngươi phải đem thân tự mình làm phước. Bấy giờ Ngài Quán Tự Tại bảo Ðại Lực A Tô La Vương rằng: Ta nay muốn đến rừng cây Kỳ Ðà, ngày nay ở tại đó đại chúng đang nhóm hội. 

Khi ấy Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát phóng vô số sắc hào quang sáng: Hào quang sắc xanh, hào quang sắc vàng, hào quang màu hồng, hào quang màu trắng, hào quang màu pha lê, hào quang màu sắc sáng màu vàng kim … Những hào quang đó chiếu đến trước đức Tỳ Xá Phù Như Lai. Bấy giờ trời, rồng, dược xoa, la sát bà, Khẩn Na La, Ma Hộ La nga và các người cùng thảy đều nhóm hội. Lại có vô số đại Bồ Tát cũng đến nhóm hội. Trong chúng ấy có một vị Bồ Tát tên là Hư Không Tạng từ chỗ ngồi đứng dậy sửa y áo trịch vai bên hữu, gối hữu sát đất, chấp tay cung kính hướng về đức Thế Tônbạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Hào quang sáng này là từ đâu đến? Phật dạy: thiện nam tử! Hào quang sáng ấy là của Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát ở trong cung Ðại Lực A Tô La Vương phóng ra đến đây. Bấy giờ Ngài Hư Không Tạng Bồ Tát bạch đức Thế Tôn rằng: con nay làm cách nào để có thể thấy Ngài Quán Tự Tại kia? Phật bảo: Thiện nam tử! Bồ Tát kia Ngài sẽ đến đây. 

Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát khi ra khỏi vương cung Ðại Lực A Tô La, vườn cây Kỳ Ðà bỗng nhiên hiện cây Thiên Diệu Hoa, cây Thiên Kiếp Ba, lại có vô số chư Thiên đẹp đẽ sắc tướng trang nghiêm, trên cây treo trăm thứ chơn châu chuỗi ngọc anh lạc, các thứ Kiều Thi Ca y rất đẹp và các thứ y phục khác. Cây nhánh đều là sắc thẫm hồng, vàng bạc thì làm lá. Lại có vô số cây hương thơm vi diệu và những cây hoa nhiệm mầu, vô số ao báu trong ao báu ấy có trăm ngàn muôn sắc diệu hoa xen nhau tỏa khắp mùi hương. Khi cảnh xuất hiện ra những điều như vậy, Ngài Hư Không Tạng bồ tát bạch đức Thế Tôn rằng: Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát nay ở đâu mà chưa thấy đến? 

Phật dạy: Thiện nam tử! Ngài Quán Tự Tại từ vương cung Ðại Lực A Tô La ra rồi, lại có một chỗ gọi là Hắc Ám, không người năng đến. Thiện nam tử! Chỗ Hắc Ám kia ánh sáng mặt trời mặt trăng không thể chiếu thấu, có như ý bảo gọi là tùy nguyện, ở trong đó thường khi pháp ra ánh sáng chiếu soi, nơi ấy có vô số trăm ngàn Dược Xoa an trú. Khi thấy Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát đi vào, lòng chúng quá vui mừng nhảy nhót hớn hở, đến chiêm ngưỡng nghinh đón Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, đầu mặt lễ sát chân mà thưa hỏi rằng: Bồ Tát nay vào đây không mệt nhọc ư? Lâu nay không thấy đến chỗ Hắc Ám này? Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát nói: Ta vì cứu độ các hữu tình nên đến đây. Bây giờ chúng Dược Xoa, La Sát đem tòa sư tử Thiên Kim Bảo mà thỉnh Ngài an tọa. Bồ Tát liền vì Dược Xoa, La Sátthuyết pháp: Các ngươi nên lắng nghe! Có kinh Ðại Thừa tên Trang Nghiêm Bảo Vương. Nếu có người được nghe một bài kệ bốn câu mà hay thọ trì đọc tụng, giải nói nghĩa lý, tâm thường suy nghĩ sẽ được phước đức không có hạn lượng. Thiện nam tử! Vi trần đã có, ta có thể đếm số lượng được. Thiện nam tử! Nếu có người đối với kinh Ðại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương này có thể thọ trì một bài kệ bốn câu thì phước đức kia ta không thể đếm số lượng. Như nước biển lớn, ta có thể đếm từng giọt một. Ðối với kinh này mà thọ trì một bài kệ bốn câu, phước đức ấy ta không thể tính số lượng được. Giả sử mười hai Căng già ha sa số Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác, trải qua mười kiếp đều ở một chỗ, thường lấy y phục, ngọa cụ, thuốc thang, đồ ăn uống và các món cần dùng khác dâng cúng chư Phật, cũng không thể nói hết số lượng phước đức kia được. Chẳng những chỉ mình ta ở chỗ Hắc Ám mà nói không thể hết. Thiện nam tử! Lại nữa, người trong bốn châu lớn mỗi ngươì tự mình xây dựng nhà cửa, tạo lập tịnh xá, trong đó lấy toàn vàng báu cõi trời tạo dựng ngàn tháp nhiều tầng (Suất Ðổ Ba), trong một ngày hết thảy thành tựu các công đức cúng dường, không bằng đối với kinh này mà thọ trì đọc tụng một bài kệ bốn câu. Thiện nam tử! Như năm sông lớn dẫn nước về đại hải, những dòng nước như thể khôngcùng tận. Nếu có người hay thọ trì kinh Ðại Thừa này bốn câu kệ thì phước đức thu được cũng bất tận vậy. 

Bấy giờ Dược Xoa, La sát bạch Ngài Quán Tự Tại rằng: Nếu có hữu tình mà hay biên chép kinh Ðại Thừa này thì phước đức kia thế nào? Thiện nam tử! Phước đức ấy vô cùng vô tận. Nếu có người hay biên chép kinh này, cùng với người biên chép tám vạn bốn ngàn pháp tạng phước đức ấy bằng nhau. Người đó sẽ được địa vị Chuyển luân Thánh vương, thống lãnh bốn đại châu oai đức tự tại, diện mạo đoan nghiêm, ngàn thiên nữ vây quanh hầu hạ, tất cả kẻ địch tự nhiên thần phục. Nếu có người chỉ thường niệm danh hiệu kinh này, ngươì đó mau được giải thoát khổ báo luân hồi, xa lìa già chết, ưu bi khổ não. Người đó sau khi sanh nơi nào cũng nhớ được túc mạng đời trước, thân thường có mùi thơm ngưu đầu chiên đàn, trong miệng thường tỏa ra mùi thơm hoa sen xanh, thân tướng viên mãn, đầy đủ đại thế lực.

Khi thuyết pháp rồi, các Dược xoa, La sát có kẻ chứng được Thánh quả Dự lưu. Trong đó hoặc có kẻ đắc quả Nhất lai mà nói lên lời như thế này: Cầu xin Bồ Tát ở lại chỗ này chớ đi nơi khác. Con nay ở chỗ Hắc Ám này, lấy vàng báu tạo chỗ kinh hành. Khi ấy Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát dạy rằng: Ta vì cứu độ vô số hữu tình khiến được đạo Bồ đề cho nên muốn đi nơi khác. Lúc ấy các Dược xoa, La sát đều cúi đầu, lấy tay chống má bồi hồi, lòng càng lưu luyến mà nghĩ như thế này: Nay Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát bỏ đây mà đi, sau này ai vì chúng ta nói pháp vi diệu

Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát ở đây ra đi, các Dược xoa, La sát đều đi theo mà đưa tiễn. Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát bảo rằng: Các ngươi đưa đi xa rồi nên trở về chỗ. Các Dược xoa, La sát đầu mặt sát đất đảnh lễ bên chân Ngài Quán Tự Tại rồi mới trở về chỗ cũ. 

Khi ấy Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát cũng như ánh lửa xẹt lên hư không, đến thẳng cung trời, đến cung trời Ngài hiện thânBà la môn. Trong các thiên chúng kia, có một vị Thiên tử gọi là Diệu Nghiêm, mà lại thường chịu khổ báo nghèo cùng. 

Bấy giờ Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát hiện thân Bà la môn đến chỗ Thiên tử đó, đến rồi bảo rằng: Tôi bịnh hoạn đói khát và lại mệt nhọc. Lúc ấy Thiên tử khóc than mà bảo Bà la môn rằng: Tôi nay nghèo thiếu không có vật chi để dâng. Bà la môn nói tôi rất cần xin đem biếu tôi chút ít phần. Thiên tử lúc ấy gắng gượng vào cung tìm tòi coi có vật chi, thoạt tiên thấy các đồ đựng báu lớn, lại có các thứ quý báu khác đựng đầy trong đó. Lại có đồ quý trong ấy đựng đầy thức ăn uống thượng vị. Lại có thượng diệu y phục để trang nghiêm nơi thân đầy khắp trong cung. Lúc đó Thiên tử lòng toan suy nghĩ: Bà la môn ngoài cửa phải là người không thể nghĩ bàn, khiến tôi được phước thù thắng phi thường, phải mời vị đại Bà la môn kia vào trong cung điện. Vua đem những đồ quý báu và các thức ăn uống cao lương mỹ vị cúng dường. Thọ lãnh đồ cúng dường rồi vị Bà la môn chúc vua an vui trường thọ

Bấy giờ Thiên tử bạch Bà la môn rằng: Hiền giả từ phương nào đến đây? Bà la môn nói: Tôi từ trong đại tịnh xá rừng cây Kỳ Ðà mà đến đây. Thiên tử hỏi rằng: Chỗ đó thế nào? Bà la môn bảo: Tịnh xá ở trong rừng cây Kỳ Ðà, nơi ấy thanh tịnh, xuất hiện ma ni báu trời và cây Kiếp Thọ trang nghiêm. Lại hiện ra các thứ ma ni quý báu khác lòng rất ưa thích. Còn hiện ra các thứ ao báu. Lại có vô số các vị đại chúng giới đức oai nghiêm đầy đủ đại trí tuệ, cùng xuất hiện trong đó. Ở đó có Ðức Phật hiệu Tỳ Xá Phù Như Lai. Nơi ấy là chỗ Thánh Thiên an trụ, có việc biến hóa xuất hiện như thế. Bấy giờ Thiên tử bạch hiền giả rằng: Thế nào Ngài đại Bà la môn nên nói thật Ngài là trời hay là người? Hiền giả! Làm sao lại xuất hiện các việc ấy? Bà la môn nói: Tôi chẳng phải trời chẳng phải ngươì. Tôi là Bồ Tát vì muốn cứu độ tất cả hữu tình, thấy được đại Bồ Tát đạo. Thiên tử nghe rồi liền lấy Thiên diệu mão báu, vòng tay ngọc quý trang nghiêm đem dâng cúng dường, nói kệ khen rằng: 

Con gặp được công đức, xa lìa các tội lỗi

Như nay trồng ruộng tốt, hiện chắc được quả báo

Khi Thiên tử nói kệ rồi, vị Bà la môn kia việc hóa độ đã xong mà liền ra khỏi Thiên cung. Liền khi ấy qua nước Sư Tử. Ðến nơi đứng trước mặt các nữ La sát, hiện thân tướng đẹp đẽ trang nghiêm lạ kỳ. Các La sát nữ thấy vẻ đẹp ấy khởi lên dục tâm, đem lòng hâm mộ, bước đến gần mà bảo rằng: Ông có thể làm chồng tôi, tôi là gái trẻ đẹp, chưa từng sính đôi, mong được làm chồng tôi, nay đã đến đây chớ đi nơi khác, như người vô chủ mà lại được chủ, nhà nhà tối gặp đèn sáng, tôi này giàu có kho lẫm chứa đầy đồ ăn, thức uống, y phục và có vườn đầy trái ngon ngọt, có ao tắm trong mát vừa lòng. Vị Bà la môn bảo bọn nữ La sát rằng: Các ngươi nên lắng nghe ta nói. La sát nữ thưa: Xin nghe lời chỉ dạy. Bà la môn bảo: Ta nay vì các ngươi nói pháp Bát Thánh Ðạo và nói pháp Tứ Thánh Ðế … Bây giờ bọn nữ La sát nghe pháp rồi, đều được chứng Thánh quả, có người được quả Dự lưu, có người được quả Nhất lai, không còn khổ tham sân si, không khởi ác tâm, không ý giết hại sinh mạng, lòng mến chánh pháp , vui trọn nơi giới. Bọn La sát nói: Chúng tôi từ nay trở đi không dám giết hại, như người Nam Thiệm Bộ châu giữ gìn giới luật, sống đời trong sạch, ăn uống thanh tịnh. Chúng tôi từ nay nguyện sống cuộc đời như vậy. Thế là bọn nữ La sát không còn tạo nghiệp ác nữa và giữ giới thanh tịnh

Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát ra khỏi nước Sư Tử, lại qua đại thành Ba La Nại. Chỗ ấy xấu xa nhơ nhớp, có vô số trăm ngàn vạn loại sâu giòi chen sống nơi ấy. Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát vì muốn cứu độ các hữu tình kia nên hiện ra con ong bay đến miệng phát ra tiếng: “NẴNG MỒ MỘT ÐÀ DÔ (Nam Mô Phật Ðà Da), các loài trùng nghe tiếng ấy, cùng nhau lên tiếng như thế. Do sức oai lực ấy, loài sâu trùng kia, thân kiến tuy chấp như núi cao và đầy các tùy hoặc phiền não, trí Kim Cang xử đều phá hoại tất cả, liền được vãng sanh về Cực Lạc thế giới, đều làm Bồ Tát đồng danh Diệu Hương Khẩu. 

Ở đó Ngài cứu độ các loài hữu tình kia rồi, Ngài Quán Tự Tại liền ra khỏi thành Ba La Nại, qua đến nước Ma Dà Ðà. Khi ấy trong nước gặp trời nắng hạn hơn hai mươi năm. Ngài thấy dân chúng và các hữu tình đói khát khổ não, đều ăn thịt lẫn nhau. Lúc ấy Bồ Tát Quán Tự Tại suy nghĩ: “Lấy phương pháp gì để cứu hữu tình này?”. Bây giờ Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát giáng xuống những trận mưa, nước mưa thấm ướt khắp hết những nơi khô khan. Sau tiếp mưa rơi đầy các thứ đồ đựng, nước trong mỗi đồ đựng biến thành những món ăn thức uống ngon ngọt, các người kia được ăn uống no đủ. 

Khi ấy Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát lại giáng xuống những trận mưa hạt giống như lúa, mè, đậu, bắp cùng các thứ khác cần dùng. Những người nơi đó thọ dụng tùy ý đầy đủ. Bây giờ tất cả nhân dân trong nước Ma Dà Ðà lấy làm kinh ngạc chưa từng có. Dân chúng nhóm hội một chỗ, đã khi đang nhóm họp các người đồng nói lên rằng: Oai lực của trời nay vì sao lại đến như thế? Trong đám dân chúng ấy có một cụ già lưng khòm, tay chống gậy, người này sống lâu vô số trăm ngàn tuổi, bảo các người rằng: Chẳng phải oai lực trời đâu! Nay đã hiện ra thế này, chắc là oai thần biến hiện của Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát. Các người hỏi rằng: Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát kia làm thế nào mà xuất hiện ra điềm tốt ấy? Ông già nói: “Ngài Thánh Quán Tự Tại dùng oai thần lực biến tối tăm thành đèn sáng, biến trời nóng bức thành bóng che mát, nơi nào thiếu khát hiện ra dòng sông, nơi nào sợ sệt liền ban vô úy, bịnh khổ bức bách hiện thầy thuốc hay, hữu tình thọ khổ biến làm cha mẹ, khiến chúng sanh trong A Tỳ địa ngục thấy được đạo Niết Bàn, hay khiến tất cả hữu tình trong thế gian đều được công đức, lợi ích an vui. Nếu có người niệm danh hiệu Ngài Quán Tự Tại thì người đó tương lai xa lìa tất cả khổ não luân hồi. Những ngươì nghe rồi đều nói lành thay! Nếu có người ở trước tượng Ngài Quán Tự Tạikiến lập đàn vuông (Mạn noa la), thường dùng hương hoa cúng dường Bồ Tát Quán Tự Tại, người đó sẽ được Chuyển luân Thánh vương, có bảy báu đầy đủ như: Kim luân báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, nữ báu, chủ kho tàng báu, chủ binh báu. Ðược bảy báu như thế. Nếu có người đem dâng một cành hoa cúng dường Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thì thân ngươì đó tiết ra mùi thơm, sanh vào nơi nào thân tướng cũng đầy đủ. 

Ông già ấy sau khi kể công đức thần lực của Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát rồi thì cùng với các người khác trở về chỗ ở. 

Bấy giờ, Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát bay lên hư không suy nghĩ: “Ta lâu không thấy đức Tỳ Xá Phù Như Lai, nay trở về rừng cây Kỳ Ðà nơi trong tịnh xá để thấy đức Thế Tôn”. Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát liền trở về tịnh xá, thấy có vô số trăm ngàn vạn trời, rồng, 

Dược xoa, Ngạn đạt phạ, A Tô la, Nghiệt lỗ noa, Khẩn Na La, Ma hộ la nga, người và chẳng phải người. Lại có vô số trăm ngàn vạn Bồ Tát đều đang nhóm hội. Lúc ấy Ngài Hư Không Tạng Bồ Tát bạch Phật rằng: Thưa đức Thế Tôn! Vị đến đây là Bồ Tát nào? Phật dạy: Thiện nam tử! Ðó là Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát. Khi đó Ngài Hư Không Tạng Bồ Tát ngồi lặng thinh. Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát nhiễu quanh Phật ba vòng rồi trở về bên trái mà ngồi. Bấy giờ đức Thế Tôn an ủi mà nói rằng: Ông không mệt nhọc ư? Thiện nam tử! Ông ở các nơi làm việc giáo hoá thế nào? Ngài Quán Tự Tại liền kể hết những việc giáo hoá đã qua, tôi đã cứu độ hữu tình như vậy. Như vậy! Lúc ấy Hư Không Tạng nghe rồi tam ngạc nhiên chưa từng có: Nay tôi thấy Quán Tự Tại còn làm Bồ Tát mà có thể cứu độ những quốc độ hữu tình như thế, những hữu tình trong những quốc độ ấy nay đã làm Bồ Tát được thấy Như Lai như thế. Khi đó Hư Không Tạng Bồ Tát đứng trước Ngài Quán Tự Tại mà thưa hỏi Quán Tự Tại rằng: Hóa độ như vậy không mệt nhọc ư? Quán Tự Tại Bồ Tát nói: Tôi không mệt nhọc, thưa hỏi rồi yên lặng mà ngồi. 

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn gọi thiện nam tử rằng: “Các ông hãy lắng nghe, tôi nay vì ông nói sáu pháp Ba la mật đa. Thiện nam tử! Nếu làm Bồ Tát, trướcc phải tu hạnh bố thí Ba la mật đa, sau tu các hạnh Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền Ðịnh, Trí tuệ Ba la mật đa, tất cả được viên mãn như vậy. Nói pháp xong đức Thế Tôn yên lặng mà an trụ. Bấy giờ trong chúng hội ai nấy đều trở về chỗ cũ, các chúng Bồ Tát cũng trở về nơi các cõi Phật Sát. 

Nam Mô Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)

Phật nói kinh Ðại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương.

  (HẾT QUYỂN HAI) 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11400)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
(Xem: 11571)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13566)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14133)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10316)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10802)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11343)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11289)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11456)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10181)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9972)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10721)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11324)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42249)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10495)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11869)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10034)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10473)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10645)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45800)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32142)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11349)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10711)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11347)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10644)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13476)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12389)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11051)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10631)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12339)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11183)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11855)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29307)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9231)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10559)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10250)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10610)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10921)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10822)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32181)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27422)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17820)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11888)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12296)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10451)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11714)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10444)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10801)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28111)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10166)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10295)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10662)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10780)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11239)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10410)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10699)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11483)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18280)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10536)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12861)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11760)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29224)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28624)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28317)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13341)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22808)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13463)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11587)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13834)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25750)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26107)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22336)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14495)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12078)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11817)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11695)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11499)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33219)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31874)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12051)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39662)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22530)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11981)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14256)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13363)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14315)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12077)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10419)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11247)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13342)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34560)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12644)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12242)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13546)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12637)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12994)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16320)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11767)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27421)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28470)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant