Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vu Lan - Hiếu đạo, tinh thần giáo dục nhân bản Phật giáo

01 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 11208)
Vu Lan - Hiếu đạo, tinh thần giáo dục nhân bản Phật giáo

  1. A. TỔNG QUAN:

Đạo Phật xuất hiện ở đời giáo hoá chúng sinh, cảm hoá nhân loại tức ác hành thiện, phát Bồ đề tâm, hành Bồ tát hạnh, hướng về nẻo giác. Một trong những đạo lý không thể thiếu ấy, đạo Phật dạy về lẽ hiếu nghĩa: tri ân & báo ân. Chừng mực nào đó, trọng tâm của Hiếu đạo là hướng về đấng song thân sinh thành dưỡng dục. Nhưng ở nghĩa rộng hơn, trong thế giới duyên sinh tương tác này, mọi chúng sinh đang hiện hữu, đều tồn tại trong mối hỗ tương duyên khởi trùng trùng. Nói cho dễ hiểu, ta đang ở trong vòng tay nâng đỡcưu mang của gia đìnhxã hội. Do đó, đức Phật dạy ta phải biết tri ân (p:kataññū): hiếu thảo với cha mẹ, hiếu kính với người trên, hiếu hòa với kẻ dưới, hiếu thuận với mọi người, và hiếu sinh với mọi loài. Trong đó pháp lễ kính sáu phương[1] đã phản ảnh trọn vẹn tinh thần ấy. Nhìn chung, tinh thần hiếu đạo là đặc cách giáo dục nhân bản trong Phật giáo.

  1. B. NỘI DỤNG:
    1.  i. Định nghĩa:

Vu-lan nói cho đủ là Vu-lan-bồn hay Ô-lam-bà-na, là tiếng Trung Hoa dịch âm từ chữ Phạn Ullambana, dịch nghĩa là "giải đảo huyền” hay "giải đảo huyền, cứu thống khổ"[2]. Nghĩa là cởi bỏ mọi trói buộc, giải phóng khỏi mọi tai ách, khổ luỵ cho các tội nhânngạ quỷ[3], các chúng sinh bị hành hình treo ngược, chịu mọi thống khổ cực độ dưới chốn u đồ và các nẻo ác.

  1.  ii. Xuất xứ:

Tinh thần hiếu đạo của Phật giáo được phát xuất từ gương hiếu hạnh cứu mẫu thân của tôn giả Mục-kiền-liên được chép lại trong Kinh Vu-lan-bồn. Kinh dạy rõ về: ân nghĩa song thân, phương pháp báo hiếu, và nhân quả tất yếu của hiếu đạo.

Từ đó, tinh thần hiếu đạo này đã đi vào lòng của mọi người con Phật và có tác dụng ảnh hưởng mạnh mẽ trong lòng xã hội. Vu lan là dịp chung cho mọi người nghĩ về và báo đáp ân nghĩa sinh thành; mở rộng hơn nữa là hướng lòng về và chia xẻ nỗi khổ đau chung của muôn loài chúng sinh.

"Chân như đạo Phật rất mầu,
Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ nhân;
Hiếu là độ được song thân,
Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài."

 iii. Lời Phật dạy về hiếu đạo qua nhiều kinh điển:

Không phải ngẫu nhiên mà người ta cho rằng Đạo Phật là Đạo hiếu. Đức Phật có rất nhiều lời dạy về hiếu đạo, đặt nặng đến hiếu hạnh và lợi ích của hiếu hạnh, làm thế nào để báo đáp hiếu hạnh có hiệu quả cao và công đức lớn. Các kinh điển Phật giáo dạy về hiếu hạnh có thể liệt kê sơ bộ sau đây:

* Kinh Ma-ha-ma-da (Mahāmaya-sūtra, Đ.12, No.383, tr.1005), phút cuối trước khi nhập Niết-bàn, vì muốn lợi lạc cho thân mẫu, đức Phật đã thuyết pháp.

Luật tạng, Ngũ phần luật, Đ.22, tr.140c, đức Phật dạy cho các Tỳ kheo về công ơn như trời bể của cha mẹ, và cho phép các Tỳ kheo được phụng dưỡng cha mẹ già cả neo đơn, nếu ai không cúng dường phụng dưỡng cha mẹ thì phạm trọng tội.

* Kinh Vu-lan-bồn nêu gương hiếu hạnh của đức Mục-kiền-liên cứu thoát mẹ ra khỏi cảnh giới u minh, nhờ vào đạo đức tập thể của các bậc cao tăng và A-la-hán.

* Kinh Báo Ân Cha Mẹ dạy rõ về công lao sinh thành, nuôi dưỡng khó khăn của cha mẹ, và theo đó dạy cách báo đáp công ơn cao cả ấy.

* Kinh Thai Cốt và Kinh Huyết Bồn cũng có nội dung tương tự như hai kinh trên nhưng đặc biệt nhấn mạnh công đức của cha mẹ.

* Kinh Hiếu Tử dạy về các phương thức báo hiếu.

Kinh Đại Thừa Bản Sanh Tâm Địa Quán, với phẩm thứ hai - phẩm báo ân, dạy cách đền ơn cha mẹ của người xuất gia và người tại gia.

* Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân, có đến 2 phẩm nói về gương hiếu hạnh của chư Phật và chư Bồ-tát trong các đời sống quá khứ.

Kinh Địa Tạng kể về hiếu hạnh của Bồ-tát Địa Tạng, và thông qua đó hướng dẫn cách đền ơn cha mẹ ở hiện đời cũng như các đời sống quá khứ.

Sám Pháp Mục-kiền-liên dạy về cách sám hối và hướng dẫn cha mẹ về chánh pháp của đức Phật.

Kinh Thiện Sinh (Hán) hay Giáo thọ Thi-ca-la-việt (p:Singālaka) dạy về đời sống và các mối quan hệ đạo đức của xã hội, trong đó có đề cập đến 5 nguyên tắc đạo đức của các bậc cha mẹ đối với con cái và 5 nguyên tắc đạo đức của con cái đối với cha mẹ.

Kinh Pháp Hoa Phẩm thứ 27, dạy về báo hiếu bằng đem lại chánh kiến, pháp lạc lâu dài cho mẹ cha bằng con đường thâm tín Chánh pháp.

* Kinh Chánh pháp niệm xứ, dạy về 4 ân: ân mẹ, ân cha, ân Như lai và ân pháp sư giảng pháp.

Ngoài ra, còn nhiều lời dạy về hiếu hạnh có mặt trong nhiều kinh thuộc Pāli tạng và Hán tạng. Có thể nói, chữ hiếu có mặt trong rất nhiều kinh điển Phật giáo, đến nỗi người ta phát biểu: “Thiên kinh vạn điển, hiếu vi đệ nhất”. Theo tinh thần Phật dạy, hiếu đạo là nền tảng của nhân thừa, là cơ sở cho muôn hạnh lành khác phát sinh, là chặng đường quan trọng trên lộ trình hướng đến đích giải thoát. Để quán triệt tinh thần hiếu đạo ấy, chúng ta lần lượt khảo sát qua các điểm trọng yếu như sau:

  1.  iv. Vu-lan bồn giáo dục ý thức về ân nghĩa[4]:

Trong thế giới duyên sinh vô ngã, Phật dạy con người là một tập hợp của nhiều nhân tố. Cái ấm thân này chính là do cha mẹ chúng ta sinh thành nên, nhưng muốn cho tấm thân này được trưởng thành mọi mặt trong cuộc sống hiện thực này còn phải nhận lấy nhiều mối quan hệ ân nghĩa tất yếu khác. Như vậy, Vu-lan gợi cho chúng ta nghĩ nhớ về ân cha nghĩa mẹ sinh thành dưỡng dục; ngoài ra, còn cho chúng ta biết cần phải tri ânbáo ân các ân nghĩa khác như: ân quốc gia xã hội, ân sư trưởng huấn dục, ân Tam bảo,v.v…

  1. i. Về ân nghĩa sinh thành:

Ở đời, ai lại không có cha, người nào lại không có mẹ. Nhưng nên biết, để cho bản thân ta nên vóc nên hình, cha mẹ đã phải trải qua bao đắng cay cơ cực. Điều này đã được đức Phật minh chứng tận tường Kinh báo đáp công ơn cha mẹ:

1. Chín tháng cưu mang khổ nhọc

2. Khi sinh đau đớn, nguy hiểm

3. Nuôi con không màng cực khổ

4. Nuốt đắng, mớm ngọt

5. Nhường khô, nằm ướt

6. Sú nước, nhai cơm

7. Giặt đồ dơ, tắm rửa cho con

8. Lo lắng khi con đi xa

9. Có thể tạo tội vì con

10. Không ham trao chuốt.

Thật vậy, với ân cha nghĩa mẹ, văn thơ nào có thể kể cho xiết, bút mực nào có thể viết cho xuể, núi biển nào có thể sánh cho bằng ân nghĩa sinh thành của cha mẹ. Cuộc đời vất vả của cha và nhọc nhằn của mẹ được đánh dấu bằng những vết hằn năm tháng in đậm trên gương mặt của cha già và mẹ yêu. Tất cả đều “để” và “cho” cháu con. Ân nghĩa ấy được phát xuất từ tấm lòng thương yêuđiều kiện, vô bờ bến của cha mẹ đối với cháu con.

“Ân cha hơn núi lớn,
Nghĩa mẹ hơn đất dày;
Hy sinh lòng chẳng quản,
Mà vẫn không nguôi ngoai.
Mẹ già hơn trăm tuổi,
Vẫn thương con tám mươi,
Tình thương nào ngơi nghỉ,
Đến hơi thở cuối đời!” [5]

Kinh điển trong Phật pháp cũng như thi ca ngoài xã hội, không ngớt lời ca ngợi công ơn cao cả như trời biển này. Tất cả đều muốn nói lên đạo lý uống nước nhớ nguồn, gieo ý thức cho tất cả mọi người khắc ghi đạo lý thâm trầm này. Hãy ý thức và hành động sao cho phù hợp với lẽ chân thường.

a. Gương hiếu hạnh đối với song thân xưa nay trong Phật giáo:

Trong Phật pháp xưa cũng như nay có biết bao nhiêu gương hiếu hạnh đối với đấng sinh thành, tiêu biểu như: Tôn giả Mục-kiền-liên sau khi chứng quả A-la-hán liền nghĩ đến việc cứu độ mẫu thân Thanh Đề thoát khỏi chốn u đồ (kinh Vu-lan-bồn). Nàng Mục Nữ cứu mẹ Diệt-đế-lợi thoát khỏi cảnh địa ngục (kinh Địa tạng). Tịnh TạngTịnh Nhãn, sau khi tu tập hạnh Bồ-tát, thành tựu sáu Ba-la-mật, phát triển bốn tâm Vô thượng, có thể vận dụng thần thông trong các trường hợp cần thiết, nhị vị Thái tử này nghĩ ngay đến việc giáo hóa Phụ vương là Diệu Trang Nghiêm đang lầm lạc vào con đường tà kiến hướng về Phật pháp, chứng đắc Thánh quả (kinh Pháp Hoa, Phẩm thứ 27),v.v…

Vậy, bất luận là đời hay đạo, bần cùng hay vương giả,… đều có cách thể hiện khác nhau, nhưng tuyệt nhiên đều bắt đầu bằng việc tri ân và nhớ ân qua tấm lòng thương yêu và kính mến thật sự của mình đối với đấng sinh thành.

b. Phương pháp hiếu hạnh theo Phật pháp:

Kinh Phân Biệt (Bắc tạng) ghi: "Ta trải qua nhiều kiếp tinh tấn nay mới thành Phật, toàn là công ơn của cha mẹ ta. Vậy nên, người muốn học đạo không thể không tinh tấn hiếu thảo với mẹ cha.”

Kinh Nhẫn Nhục ghi: "Điều thiện tối caochí hiếu, điều ác tối cao là bất hiếu".

Kinh Tăng nhất A-hàm, Đ.ii, 601, đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, nếu có kẻ vai trái cõng cha, vai phải cõng mẹ, đi xa nghìn dậm, cung phụng mọi thức ăn, đồ mặc, chăn nệm và thuốc thang, thậm chí cha mẹtiểu tiện trên vai mình đi chăng nữa, cũng chưa trả được ân sâu. Các thầy phải hiểu rằng, ân cha mẹ nặng lắm, bồng bế nuôi nấng, dưỡng dục đúng lúc, làm cho ta trưởng thành. Vì thế mà biết ân đó khó trả. Này các Tỳ kheo, có hai việc làm cho phàm phucông đức lớn, được quả báo lớn, đó là phụng sự cha và mẹ.”

Kinh Hạnh Phúc (Nam tạng) ghi: "Phụng dưỡng mẹ và cha là vận may tối thượng".

Ngoài việc thực hiện trọn vẹn những tiêu chí hiếu nghĩa mà đạo nhân luân qui định, Phật pháp còn dạy chúng ta về những nguyên lý ưu việt trong việc thực hiện hiếu đạo cao cả, trọn vẹnbền vững hơn: giúp mẹ cha hướng đến chánh pháp, để vượt qua mọi ưu não khổ đau.

Tăng Chi I, tr.75, Phật dạy: "Những ai đền ơn cha mẹ bằng cách nuôi dưỡng dâng cúng với của cải vật chất tiền bạc thì không bao giờ đủ để đáp đền ơn cha mẹ. Nhưng này các Tỳ kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin Tam Bảo thì khuyến khích cho có lòng tin Tam Bảo, đối với cha mẹ sống tà giới, thì khuyến khích vào chánh giới, đối với cha mẹ sinh khởi tham, thì khuyến khích bố thí, đối với cha mẹ tà kiến thì khuyến khích vào chánh kiến, cho đến như vậy, này các Tỳ kheo, là làm đủ và đáp ơn đủ cho mẹ và cha".

Như vậy, chúng ta nhận thấy, Phật giáo không những dạy về hiếu đạo bằng hiếu kính và hiếu dưỡng đối với mẹ cha, mà còn dạy bổn phận làm con phải biết chăm lo đời sống tinh thần của cha mẹ, phải có trách nhiệm đạo đức đối với các đấng sanh thành ra mình, nuôi nấng mình trưởng thành và trở nên hữu dụng cho bản thânxã hội. Sự hiếu thảo của người con như vậy được trình bày qua 5 trách nhiệm đạo đức thiết thựcđức Phật đã dạy trong kinh Thiện sinh:

 Vâng lời cha mẹ, giúp đỡ cha mẹ khi cần:

Kinh nghiệm sống là một trong những tri thức văn hóa đặc trưng của con người; thế nên, lời khuyên của các bậc cha mẹ được phát xuất từ kho tàng tri thức văn hóa xuyên qua kinh nghiệm sống của chính bản thân. Hơn nữa, lời khuyên ấy còn được phát xuất từ tấm lòng chân tình thương yêu bảo bọc. Làm con, chúng ta không thể không nghe lời cha mẹ. Do đó, yếu tố vâng lời cha mẹ được đặt thành vấn đề đầu tiên trong nguyên tắc hiếu đạo.

Trên thực tế ngày nay, chúng ta nhận thấy đạo lý này thật sự bị lung lây khi văn hóa vật chất trên đà phát triển như vũ bão, nhưng ngược lại văn hóa tinh thần lại không sao đuổi kịp. Thế hệ càng về sau tri thức học vấn càng cao hơn, nhưng ý thức đạo đức càng sa sút; trên đà trược dài theo lối hưởng thụ vật chất, ít khi nào quan tâm đến lời khuyên bảo của mẹ cha. Không những đạo lý về nhân tâm đầy tình người này không được quan tâm, mà còn bị cho là những ý tưởng cổ hữu, không hợp với thị hiếu đổi mới và cơ chế thị trường đấu tranh phát triển. Những ý tưởng thác loạn này đã nhận chìm bao kẻ cuồng si trong vũng bùn tệ đoan tệ nạn xã hội. Những ý tưởng trả treo như vậy thường đi đôi với thái độtrách nhiệm đối với mẹ cha. Cho dù cha mẹ có nuôi con bằng cả tâm huyết, vắt cả hơi tàn cuộc sống chính mình cũng không ai nghĩ đến một mai này con mình nuôi lại mình, nhưng phận làm con phải nghĩ đến cha mẹ. Đây chính là đạo lý làm người có từ ngàn xưa. Nên biết, tình cảm phụ tử và mẫu tử là một thứ tình cảm thiêng liêng, là mảnh đất mầu mở nuôi lớn tình người, tình đồng loại và tình chúng sinh. Nếu thiếu vắng thứ tình cảm này, thì không thể có một thứ tình cảm cao cả nào khác có thể tồn tại. Có viễn cảnh nào đau buồn hơn, cha mẹ sống cả đời vất vả lao đao phục vụ con cái, khi già yếu phải sống cảnh neo đơn cơ quạnh, con cái bỏ rơi, không nơi nương tựa. Không một luân thường đạo lý nào ở đời có thể chấp nhận.

Như vậy, với yếu tố tiên quyết này, Phật dạy, là một người con hiếu thảo phải thỏa đáng 2 tiêu chí: ngoan ngoãn vâng lời và chăm lo giúp đỡ cho cha mẹ bằng việc phụng dưỡng những nhu cầu cần thiết khi cha mẹ cần đến trong lúc đau ốm già yếu như tiền bạc, ăn mặc, thuốc men,…

Làm tròn bổn phận đối với cha mẹ:

blankĐạo Phật không phải là một tôn giáo xa rời hiện thực. Đức Phật dạy, cuộc sống lành mạnh trong sáng phải là một cuộc sống “trung đạo”, thăng bằng ổn định giữa đời sống vật chấttinh thần. Sự hiếu thảo của người con được thể hiện bằng tấm lòng chân tình cả hình thức lẫn thực chất trong việc thể hiện của mình đối với đấng sinh thành. Đó là tâm thành của “hiếu kính”, phụng sự của “hiếu dưỡng”, và ý thức của “hiếu nghĩa”, chứ không vọng lý hư đàm. Đây chính là bổn phận tất yếu mà mọi người con phải khắc ghi tận tâm cang.

Bổn phận tiên quyết của người con được xác lập trên nền tảng của “hiếu kính”: Cho dù cha mẹ già yếu, vẫn không bao giờ có tâm niệm xem như một gánh nặnghết lòng kính trọng thương yêu, nhận thức cha mẹ còn sống là nguồn hạnh phúc vô biên đối với cháu con; luôn ý thức, cha mẹ không thể mãi sống đời với ta. Hình ảnh đẹp của người con chí hiếu luôn khát khao được ở bên cạnh mẹ cha, tâm nguyện mong muốn mẹ cha luôn mãi sống bên mình.

“Đêm đêm ra thắp đèn trời,
 Cầu cho cha mẹ sống đời với con.” (Ca dao)

Không có nỗi bất hạnh nào hơn khi mồ côi cha mẹ. Cha mẹ ta biến ta từ không thành có, từ có nên thành người. Làm sao có thể quên ân nghĩa thâm trầm này. Luôn nghĩ về cha mẹ quá vãngđạo lý uống nước nhờ nguồn. Cha mẹ mất đi nhưng vẫn còn tồn tại trong hơi thở và dòng máu trong mỗi cháu con.

 “Cha già là Phật Thích Ca
Mẹ già như thể Phật bà Quan Âm;
Nhớ ngày xá tội vong nhân,
Lên chùa lạy Phật đền ân sinh thành.”
(Ca dao)

Bổn phận “hiếu dưỡng” được thể hiện bằng cả tấm lòng, chăm lo đời sống tinh thần bằng sớm hôm thăm viếng, vấn an vỗ về cha mẹ trong lúc bệnh đau cũng như khi già yếu; chăm lo đời sống vật chất cho cha mẹ bằng tiền bạc, ăn mặc, thuốc men,… khi cha mẹ già cả đau yếu. Và trong bất cứ hoàn cảnh nào, cho dù nghèo cùng bi đát nhất, người ta cũng vẫn có thể thể hiện hiếu tình của mình một cách trọn vẹn.

 “Mẹ già ở túp lều tranh,
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con”
 “Đói lòng ăn đọt chà là,
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng”.
(Ca dao)

Ở mặt “hiếu nghĩa”, người con hiếu thảo phải là người con biết ăn ở ứng xử cho phải đạo, không vì nuôi cha mẹphương hại đến đạo đức luân thường, làm nhiều điều tội ác để chu cấp tài sản cho cha mẹ. Đạo Phật không chấp nhận sự hiếu thảo phi pháp này. Một trong những điều hiếu đạo cao cả nhất cần phải lưu tâm, giúp cho cha mẹ tránh xa con đường ác nghiệp, là giúp cho cha mẹ có cuộc sống hiền lươngthánh thiện bằng qui hướng Tam bảo và tác phước hành thiện, để rồi gặt hái hạnh phúcan lạc trong hiện tạimãi mãi về sau.

"Nếu chỉ việc trả hiếu cho cha mẹ bằng cách phụng dưỡng của cải vật chất tiền bạc thì không bao giờ đủ để đáp đền ơn cha mẹ. Mà nếu cha mẹ không có lòng tin Tam Bảo thì khuyến khích cho có lòng tin Tam Bảo, đối với cha mẹ sống tà giới, thì khuyến khích vào chánh giới, đối với cha mẹ sinh khởi tham, thì khuyến khích bố thí, đối với cha mẹ tà kiến thì khuyến khích vào chánh kiến. Được như vậy là làm đủ và đáp ơn đủ cho mẹ và cha."[6]

Mặt khác, bổn phận người con hiếu thảo còn được thể hiện trên bình diện rộng hơn như: xây dựng sự nghiệp tri thứcđạo đức cho bản thân, chăm lo gầy dựng gia thất, v.v… Nhìn chung, thực hiện tất cả những gì mà cha mẹ kỳ vọng nơi ta, muốn ta trưởng thành trên mọi phương diện, và chúng ta muốn thực hiện những hoài bảo này của cha mẹ một cách hoàn thiện thì phải dựa vào tiêu chí đúng chánh phápphù hợp đạo lý xã hội.

ƒ Giữ gìn danh dựtruyền thống của gia đình:

blankTruyền thống gia đình được xem như hạt nhân xây dựng tính giá trịvững bền cho quốc gia xã hội, và nói rộng hơn là yếu tố tác thành văn minh nhân loại. Vì vậy, việc bảo vệ truyền thống mà các bậc tiền bốitổ tiên đã dầy công tạo dựng được đặt ra trong vấn đề hiếu đạo.

Truyền thống ấy là những gì mà các bậc ông bà tổ tiên, các bậc tiền nhân đã dầy công vun đắp, cho gia phong được hưng vượng, cho dân tộc được vẻ vang, cho đất nước được phú cường. Truyền thống ấy được xây dựng bằng chính mỗi gia tộc khép kín trong dòng huyết thống, là những nguyên tắc đạo lý gia phong được thỏa thuận, hình thành và chuyển giao qua nhiều thế hệ, như đoàn kết hòa mục, tương thân tương trợ, tác nghiệp gia truyền, tri thức gia tộc, luật tắc gia phong,v.v… Nói chung là nếp sống truyền thống tốt đẹp với tinh thần ý thức cộng đồng.

Phật dạy: “Hội họp trong niệm đoàn kết, chia tay trong niệm đoàn kết, làm việc trong niệm đoàn kết;… biết tôn trọng, bảo vệ và làm vẻ vang tôn miếu của dòng tộc mình.”[7]

Bảo vệ truyền thống ở đây chính là bảo lưu những gì tốt đẹp được truyền thừa qua nhiều thế hệ, quá trình phát triển tốt đẹp của gia tộc, làng xóm, cộng đồng, sắc tộc, quốc gia,v.v… Cần phải hiểu một cách thấu đáo rằng, đạo Phật là một tôn giáo đề cao trí tuệ, tư duythẩm định; mọi ý thức và hành động đều được xác quyết xuyên qua tiêu chí của trạch pháp, của gạn đục khơi trong. Đạo Phật không khuyến khích và phục tùng các truyền thống lạc hậuphản đạo đức, đi ngược lại con đường phát triển đời sống tâm linh, không tin một cách mù quáng vào những truyền thống hủ bại như chế độ thế tập "cha truyền con nối", "con vua thì lại làm vua, con sải ở chùa thì quét lá đa". Điều này đã được minh chứng rõ trong dòng sử Việt: Lý Công Uẩn, con Sải lại ra làm vua; Trần Nhân Tông,… con Vua lại đến chùa mà quét lá đa. Các bậc Minh vương này cởi cẩm bào ra làm Sải hay cởi Ca-sa ra làm Vua đều mang sứ mạng an dân tế thế, hoàn toàn không phải vì “thất thế” hay “quyền thế” mà phải thay đổi thân phận.

Niềm tin chân chánh phải là niềm tinchánh kiến “chớ vội tin vào điều gì cho dù điều đó thuộc về tập quán hay truyền thống,… mà hãy tin vào điều gì mang lại lợi lạc lâu dài cho chính mình và tha nhân."[8] Với thế giới nhị nguyên lợi bất cập hại này, mọi vấn đề đều có thể tồn tại 2 mặt tích cựctiêu cực, tiến hóalạc hậu; cũng vậy, truyền thống nào cũng có cái tốt và cái xấu kèm theo. Qua nhãn quan trí tuệ, Đạo Phật dạy việc bảo lưu truyền thống tốt đẹp của tổ tiên là một hình thức vinh danh gia tộc dòng họ theo chiều hướng có chọn lọc và đặt chúng trong tiêu chí của các giá trị phát triển đạo đứcđạo lý con người hơn là chỉ đơn thuần về phương diện vật chất.

Bảo vệ tài sản thừa tự từ cha mẹ & tổ tiên:

Bảo vệ gia sản kế thừa từ ông bà cha mẹ, những thành quả cơ nghiệp mà tổ tiên đã dầy công vun đắp cũng được xem là một hình thức báo hiếu. Vì thành quả này được hình thành bằng bao nhiêu tâm huyết của các tiền nhân. Không thể một chốc lát mà bao nhiêu cơ đồ ấy tiêu tan thành mây khói trong bàn tay của “tán gia chi tử” của chúng ta.

Mặc dù với nhãn quan trí tuệ siêu xuất thế gian, nhưng đức Phật cũng quan tâm đến đời sống luân lý xã hội. Ngài quan tâm đến vấn đề giáo dục con người toàn diện: con người cá nhâncon người xã hội. con người xã hộicon người được truyền thừa, được chuyển giao giữa các thế hệ. Ngài dạy, "bảo vệ tài sản thừa tự” là nguyên tắc duy trì tính vững bền của truyền thống gia tộc. Tài sản thừa tự này phải được hiểu là những gì mà con cái kế thừa nơi tổ tiên dòng họ về những di sản từ vật chất cho đến phi vật chất, như gia tài tiền của phải được kế thừa, gìn giữ và phát triển hợp pháp; như tri thứcđạo đức gia phong phải được gìn giữ và phát huy. Nghĩa là sinh thời cha mẹ chí thú làm ăn, thì con cái không được ăn chơi lêu lổng; cha mẹ là tầng lớp tri thức, thì con cái phải siêng năng học hành; cha mẹ tác phước hành thiện và qui kính Tam bảo, thì con cái không nên làm việc ác và phỉ báng Tam bảo. Không những kế thừa những di sản cao quí ấy, mà còn phát huy một cách tốt hơn. Vì kế thừa thường đi đôi với phát triển, nên càng về sau càng hoàn thiện, trên tiêu chí “con hơn cha là nhà có phước”.

Chu toàn tang lễ của cha mẹ đúng pháp:

Quan niệm chết ra ma ra cỏ, chết ra cát bụi là một quan niệm đầy sai lầm trên phương diện đạo đức nhân bản, là động cơ đưa đến băng hoại và thất tán nhân tâm; hơn nữa cũng thiếu sự soi sáng của nhãn quan khoa học. Chết chẳng qua cũng chỉ là sự vận động của thế giới vật chất, là sự chuyển tiếp từ sự sống này qua sự sống khác, một chặng đường đổi thay của dòng sống vô tận. Chính vì vậy mà khi cha mẹ qua đời, việc chu toàn tang lễ cho cha mẹ đúng pháp là một vấn đề tối yếu cần đặt ra trong bổn phận làm con.

Ở đây, việc chu toàn tang lễ trong tinh thần báo hiếu khi cha mẹ qua đời đơn giản nhưng chân thành và trang trọng; không cầu kỳ lễ nghi như cúng tế, ếm đối, ăn uống, ca hát, đốt vàng bạc,v.v… chỉ oán kết thêm ác nghiệp mà thôi. Con cái nên nén sự đau thương, khóc lóc, than vãn; nên niệm Phật, tụng niệm để siêu độ cho người quá cố, xả bỏ nghiệp duyênchấm dứt luyến ái mà nhẹ nhàng siêu thoát. Trong thời gian cư tang, con cháu nên tu tạo các phước điền như phóng sanh, bố thí, cúng dường,… làm hành trang thiện nghiệp để cha mẹ thác sinh vào các cảnh giới an lành.

  1. ii. Về ân nghĩa quốc gia, xã hội:

Nên biết, hồn thiêng đất Việt ngàn đời khắc ghi, với truyền thống Âu việt con cháu Lạc hồng, bốn ngàn năm văn hiến, bất khuất trước bao thế lực cừu địch, nhưng cũng rất hòa hiếu với các dân tộc quốc gia láng giềng. Điều ấy đã được minh chứng bằng lịch sử oai hùng trong suốt các thời kỳ kháng chiến chống ngoại xâm. Tinh thần bất khuất và hòa hiếu ấy chính được un đúc, nuôi dưỡng và khai phóng từ tinh thần vô ngãvị tha của đạo Phật ngay trong buổi đầu lập quốc. Mái chùa, cửa Phật luôn là nơi cưu mang và san sẻ với dân tộc trải qua các cuộc thăng trầm trong các cuộc chiến tranh bảo vệxây dựng đất nước từ các triều đại xưa cho đến thời hiện đại.

“Trang sử Phật cũng là trang sử Việt;
 Trải bao độ hưng suy, có nguy nhưng chẳng mất.” (Hồ Dzếnh)
"Mái chùa che chở hồn dân tộc,
Nếp sống muôn đời của Tổ tông”
(Huyền Không)

Ý thức và hành động này luôn khắc ghi vào tâm khảm của mọi Phật giáo đồ tại gia cũng như xuất gia. Điều này đã được minh chứng rõ trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam, mà tiêu biểu nhất là câu nói của HT. Thích Trí Thủ, một bậc danh Tăng Việt Nam trong thời hiện đại:

“Những gì tôi cống hiến cho Phật pháp cũng chính là cống hiến cho dân tộc, và những gì tôi đã cống hiến cho dân tộc cũng chính là cống hiến cho Phật pháp”.

Gia tài cuộc sống nhân thế với đời cũng như đạochúng ta đang thụ hưởng đây, chính là xương máu của biết bao thánh tử đạo, anh hùng nghĩa sĩ,… đã nằm xuống, cho đời thêm hoa thơm của bình yên và trái ngọt của hạnh phúc. Có người nằm xuống, đời không ngớt lời tôn vinh; nhưng cũng có không biết bao nhiêu anh linh vô danh ngã xuống, không một điếu văn hay một lời truy điệu,… nhưng tất cả nằm xuống với một ý nghĩa cao cả, vì nâng cao ngọn đuốc thiêng chánh pháp, vì sự nghiệp trường tồn của dân tộc, vì sự tồn vong của tổ quốc. Và ngay trong giờ phút bình anchúng ta yên tâm sinh sống cũng như tu tập đây, biết bao chiến sĩ phải vật lộn với bao hiểm nguy ngoài biên ải xa xăm của tổ quốc.

Còn nữa, về các mối quan hệ hỗ tương xã hội trong cuộc sống duyên sinh trùng trùng này, ta ăn cơm nhờ có nông dân cày cấy, ta bệnh đau nhờ thầy thuốc điều trị, ta đi đây đó nhờ tài xế đưa đón,v.v… Tất cả đều là ân nghĩa quan hệ chằng chịt xã hội. Với nhãn quan trí tuệ, Đạo Phật còn nhìn xa hơnân nghĩa chúng sinh: con trâu kéo cày, con ngựa kéo xe, con chim ca hót,… Tất cả đều là sự đóng góp để hình thành nên cuộc sống đầy sinh động này. Nói cách khác, ta phải biết nhớ ơn và trân trọng đời, vì đời cho ta một cuộc sống. Nếu mọi người trong xã hội đều biết đạo lý này, thì không những biết trân trọng giữ gìn mà còn xây dựng xã hội, tạo dựng cuộc đời tươi đẹp hơn bằng khả năng những gì mà trong tầm tay có thể. Thái độ vô ý thức với cuộc sống đáng yêu này chính là động cơ đưa đến lũng đoạn xã hội, huỷ diệt môi trường và tiêu vong cuộc sống; điều đó cũng có nghĩa, con người tự huỷ diệt chính mình trong từng phút từng giây.

iii. Về ân nghĩa sư trưởng:

Ít nhiều gì trong đời, ai trong chúng ta cũng có một lần thọ giáo nơi các bậc thầy: học văn hóa, học nghề nghiệp, v.v… Cho dù là người ở ngoài đời hay người trong đạo, ân Sư trưởng là một đạo lý không thể thiếu. Vai trò của vị Thầy quan trọng đến đổi người đời ví von: “Không Thầy đố mày làm nên”. Hơn nữa, với Phật pháp vai trò của vị Thầy quan trọng biết dường nào trong sự nghiệp tác thành giới thân và tuệ mạng cũng như cứu vớt tâm linh cho chúng ta trong bước khởi đầu cũng như điểm đến đích trên đạo lộ giác ngộ giải thoát. Ân nghĩa thâm trầm ấy quả thật như bể cả và trời cao.

"Thân ta, cha mẹ sinh thành
Tuệ căn, Thầy bạn tác thành nên ta."
(Sanh ngã giả phụ mẫu,
Thành ngã giả Sư trưởng.)

Bởi vì, cha mẹ cưu mangnuôi dưỡng ta, nhưng nếu không có các bậc Sư trưởng, thiện hữu trí thức thì chúng ta không thể thành nhân: “Cha mẹ tuy có thể sanh dưỡng ta, nhưng nếu khôngSư trưởng thế gian thì không biết lễ nghĩa; nếu khôngSư trưởng xuất thế gian thì không hiểu Phật pháp. Không biết lễ nghĩa thì khác chi cầm thú, không hiểu Phật pháp thì khác nào thế gian.”[9]

Vâng, trời cao khó với, bể sâu khó lường; cũng vậy, ân đức của Sư trưởng đối với chúng ta khó mà đền đáp. Mỗi mùa Hiếu hạnh trở về, là một dịp thiêng liêng để chúng ta nghĩ nhớ và tỏ lòng tôn kính đối với các bậc Thầy thế gian cũng như xuất thế gian, và cũng để khuyên nhắc chúng ta luôn hướng đến mục tiêu hoàn thiện đời sống của bản thân, mà tinh thần “tôn sư trọng đạo” luôn là kim chỉ nam soi đường ta đi.

iv.  Về thâm ân Tam bảo:

Cuộc đời là một dòng chảy xiết, bao sự sống đang dập dìu trôi nổi trên dòng cuồng lưu dục vọng ấy. Nói cách khác, đời là bể khổ; vì bản thân của cuộc đời được hình thành từ sanh - lão - bệnh - tử - sầu bi khổ ưu não. Thế nên, khi ngẫm về sự đời, cổ nhân đã phải than rằng:

“Bể khổ mênh mông sóng ngập trời,
Khách trần chèo một chiếc thuyền trôi
Thuyền ai ngược gió, ai xuôi gió, 
Xét lại cùng trong bể khổ thôi.”

Thật vậy, con người luôn muốn vùng vẫy khỏi các nỗi khổ hiện sinh này, nhưng kết cục đành bất lực. Trong khi đó Tam bảo xuất hiện như ngọn đuốc thiêng soi sáng cho đời, như chiếc thuyền từ đưa người qua bể khổ. Nhờ Tam bảochúng ta hiểu được chánh pháp, biết được đạo lý “thế” cũng như “xuất thế”, nhận chân được thực chất của cuộc đời là “khổ, nguyên nhân của khổ và con đường diệt khổ”. Nếu không hiểu giáo pháp này cũng có nghĩa là dòng luân hồi khổ đau vẫn sẽ tiếp diễnsinh tử vẫn sẽ trải dài bất tận trong vô ngôn.

“Đêm dài kẻ thức trọn canh,
Đường dài với khách bộ hành mỏi chân
Luân hồi dài với kẻ ngu nhân
Không thông diệu pháp muôn phần cách xa.” [10]

Ân chư Phật ra đời cứu khổ độ sinh, ân Giáo pháp đưa đến con đường giác ngộ giải thoát, ân chúng Tăng thay Phật hoằng dương chánh pháp. Chính vì vậy, là Phật tửtại gia hay xuất gia không thể quên thâm ân này. Vai trò Tam bảo quan trọng đối với cuộc đời như vậy, nên cổ nhân có lời cảm thán:

“Lênh đênh trường dạ đêm dài,
Này ngôi Tam bảo là đài quang minh;
Ngập trời bể khổ linh đinh,
Này ngôi Tam bảo sinh linh thuyền từ.”
  1. C. KẾT LUẬN:
  2.  i. Vu-lan báo hiếu xây dựng tiêu chí ý thức & hành động:
  3. 1. Giáo dục ý thức về ‘nhân quả thiện ác’:

Truyền thống giáo lý Nam truyền và Bắc truyền đều xếp tội ác giết cha, giết mẹ vào năm tội lớn, được gọi là “ngũ đại trọng tội” hay “ngũ nghịch tội”[11], hiện đời phải chịu pháp luật đại hình, một hậu phải chuốc lấy khổ đau vô tận dưới chốn u đồ. Ngược lại, phụng thờ cha mẹ được xem là “đại phước điền”, sống được đời tán dương, đời sau hưởng phúc lạc vô cùng trong thế giới nhân thiên. Thật vậy, hiếu thuận hoặc bất hiếu đều có kết cuộc tương xứng.

"Nếu mình hiếu với mẹ cha,
Mai sau con hiếu với ta khác gì.
Nếu mình ăn ở vô nghì,
Đừng mong con hiếu làm gì uổng công.
Kìa xem giọt nước xuôi dòng,
Giọt sau, giọt trước cũng đồng một nơi".
(Hiếu thuận hoàn sinh hiếu thuận tử,
Ngỗ nghịch hoàn sinh ngỗ nghịch nhi.
Bất tín đả khán thiềm đầu thủy,
Điểm điểm trích trích bất sai di.)

Có biết chăng hành động ứng xử xã hội chính là tập quán nghiệp, là khế ước dắt dây của nhân quả, gieo thiện nhân thì gặt thiện quả. Tốt với người, người tốt với mình. Nếu mình hiếu để với mẹ cha thì con cũng hiếu với ta khác gì; và ngược lại. Mỗi mùa Vu-lan trở về là mỗi lần gợi nhắc lại bổn phận của mọi người con phải nhớ lại và hướng đến đấng sinh thành đang còn hoặc đã mất của mình, phải sống sao cho phải lẽ hiếu đạo của phận làm con.

  1. 2. Giáo dục ý thức giá trị đạo đức, lòng nhân ái đối với kẻ còn, người mất và muôn loài trong mối tương giao cuộc sống:

Tinh thần Vu-lan báo hiếu là một giá trị đạo đức, giáo dục lòng nhân ái đối với kẻ còn lẫn người mất trong mối tương giao xã hội. Hiếu đạo không dành cho riêng ai, mà là của tất cả mọi người, mọi người con đối với công ơn sinh thành dưỡng dục của mẹ cha. Ở bình diện rộng hơn, Vu-lan còn mang ý nghĩa tri ânbáo ân với các mối quan hệ ân nghĩa khác trong “tứ đại trọng ân” như trên đã trình bày. Hơn nữa, Vu-lan còn là thông điệp hướng đến mọi chúng sanh đang bị khổ đau, do bị nghiệp bất thiện gây ra trong đời sống hiện tại cũng như trong kiếp sống quá khứ.

Với nhãn quan của bậc Đại giác, đức Phật quan sátphản ảnh khắp cả pháp giới chúng sinh, không riêng gì loài người; thế nên, đức Phật cũng được gọi là bậc “thầy của trời người” (thiên nhân chi đạo sư). Tuy nhiên, phạm vi giáo pháp ở đây đặc trưng dành riêng cho nhân loại. Điều đó có nghĩa, Vu-lan báo hiếuviệc làm phước lợi ân triêm cho cả kẻ còn lẫn người mất. Song song với việc thi hành pháp sự giải oanbạt độ nghiệp chướng cho người mất, giúp họ mau ra khỏi chốn u đồ khổ não, thì người sống cũng được nghe giáo pháptu tỉnh, dứt ác hành thiện. Đạo Phật quan tâm đến cuộc sống toàn diện, vì hạnh phúcan lạc cho nhân loại, với tinh thần “cứu tử độ sinh” thì không lý do cho rằng đạo Phậtphi nhân bản, ăn cơm nhân gian nói chuyện âm phủ.

Mùa Vu-lan hiếu đạo là mùa gợi chúng ta nhớ đến công ơn sanh thành dưỡng dục của mẹ cha. Với cha mẹ còn sinh tiền phải biết kính trọng, vâng lời, phụng dưỡng, sớm hôm chăm sóc khi cha mẹ đau yếu; nếu cha mẹ chưa trở về với Chánh pháp thì hướng dẫn cha mẹ qui kính Tam bảo, trở thành người Phật tử chân chánh. Nói chung, người Phật tử phải biết đền ơn cha mẹ hiện đời cũng như cha mẹ trong các đời quá khứ. Ở phương diện xã hội rộng hơn, lễ hội Vu-lan còn là dịp tốt để người Phật tử phát tâm cúng dường Tam bảo, làm việc nhân từ bố thí, phóng sanh giúp vật,v.v… Tinh thần Vu-lan dạy chúng ta ý thức độ lượng, bao dung, hướng đến và giúp đỡ người khác trong tinh thầncầu lợi. Ngoài ra, Vu-lan còn là cơ hội tốt cho chúng ta phát tâm Bồ-đề hướng đến các chúng sanh ngạ quỷ đang đau khổ, làm các việc công đức để hồi hướng cho họ. Một lễ hội có nhiều giá trị luân lý đạo đức cao đẹp như vậy cần được giữ gìn và phát huy trên phạm vi giáo dục xã hội vĩ mô.

  1. 3. Vu-lan báo hiếu, giá trị giáo dục đa phương diện:

blankPhương diện giá trị đạo đức: giáo dục tình yêu tiên giống nòi, tình yêu dân tộc đất nước, tinh thần tôn sư trọng đạo, tình yêu chân lý giáo pháp, tình yêu nhân loại và muôn loài chúng sinh. Hơn nữa, Vu-lan - hiếu đạo còn giáo dục tinh thần ý thức đạo lý nhân quả thiện ác, răn đe điều xấu và cổ vũ điều tốt, phát huy tinh thần luân lý đạo đức tình người.

Phương diện giá trị văn hóa: Lễ hội Vu-lan mặc nhiên trở thành ngày hội truyền thống mang đậm nét văn hóa tinh thần đặc thù của nhiều quốc gia trên thế giới. Mùa Vu-lan trở thành mùa hiếu hạnh của tất cả mọi người, không của riêng ai, cho dù là người khác tôn giáo hay không tôn giáo.

Phương diện giá trị kinh tế: Mùa lễ hội Vu-lan, trở thành mùa của hiếu hạnh, cũng là mùa cho mọi người tác phước hành thiện. Các hoạt động kinh tế như: cúng dường Tam bảo, bố thí ủy lạo, cũng như các hoạt động gây quỹ cứu trợ an sinh,… diễn ra trong bầu không khí hoan hỉ tưng bừng và hiệu quả; phản ảnh đầy đủ tinh thần từ mẫn và vị tha của đạo Phật.

Phương diện giá trị chính trị: Vu-lan hiếu đạo nêu cao tinh thần từ bi, vô ngãvị tha; vượt lên trên mọi ranh giới của mọi ý thức hệ, tư tưởng, chủ nghĩa, dân tộc và quốc gia,…; xem pháp giới chúng sinh đều là những mối quan hệ ân tình tương sinh không biên giới. Đây chính là tinh thần giáo dục ý thức chính trị an lạc cộng đồng pháp giới.

Nói tóm, Vu-lan là tiếng nói chung của tinh thần hiếu đạo Phật giáo, là tinh thần giáo dục nhân bản. Tinh thần giáo dục này đã vượt khỏi ranh giới tôn giáo, đi vào lòng người trong mọi tầng lớp xã hội, nêu cao tấm gương hiếu đạo của những người con hiếu hạnh; đồng thời, cũng khơi dậy nhân tâmmọi người con vì một lý do nào đó mà quên đi cội nguồn; ít ra hằng năm, khi mùa Vu-lan trở về mọi người con có dịp nghĩ nhớ về mẹ cha hiện đời cũng như bảy đời quá khứ trong nỗi niềm thương cảm chân thành, để tìm giải pháp thiết thực báo đáp công ơn. Có thứ tình cảm nào thiêng liêng bằng tình yêu cốt nhục, và thâm trầm bằng tình cảm mẹ cha. Thứ tình cảm mà đã làm nẩy sinh bao tình cảm yêu thương cao đẹp khác: tình yêu thương nhân quần đồng loại, tình yêu thương dân tộc quốc gia, tình yêu thương gia tộc giống nòi, tình yêu thương pháp giới chúng sinh. Vu-lan báo hiếu, tinh thần uống nước nhớ nguồn và tri ân báo ân; hơn nữa, đây còn là tinh thần nhân ái, hướng đến tha nhân và mọi loài trong tình yêu thương nâng đỡ, vô điều kiện và vô vụ lợi, đến với những ai trong nỗi niềm bí yếu, đến với muôn loại chúng sinh trong cơn hoạn nạn, với tinh thần ban vui cứu khổ. Tinh thần này cần được phát huy để cho sự sống của con người cũng như của pháp giới chúng sinh hôm nay và mãi mãi mai sau thật sự an lạchạnh phúc.

Chùa Phước Long Phật Tích, Diên Phước, Diên Khánh, Khánh Hoà


[1] Kính lễthuận thảo với các bậc cha mẹ, sư trưởng, vợ chồng, thân hữu, tôi tớ, đạo sĩ qua ý nghĩa lễ 6 phương; khi sống được an lạc, lúc chết được sinh thiên. (k. Thiện sinh)

[2] Vạn 35/151B

[3] Những duyên sự về thọ nghiệp ngạ quỷ được diễn tả trong rất nhiều kinh: Ngạ quỷ sự, Nam truyền đại tạng, tập 25, tr. 87 - 94; Phật thuyết ngạ quỷ vấn Mục-liên kinh, Đ.17, tr.535b - 536b; Phật thuyết tạp tạng kinh, Đ.17, tr. 557b-560b; Ngạ quỷ báo ứng kinh, Đ. 17, tr. 660b-562b;v.v…

[4] Tứ đại trọng ân: ân nghĩa Sinh thành, Quốc gia, Sư trưởngTam bảo

[5] Kinh Báo Ân Cha Mẹ, thi hóa của Nhật Từ

[6] Tăng Chi bộ Kinh I, Tr. 75

[7] Digha-nikāya I, No.16 Mahāmarinibbanasūtta

[8] Tăng chi I, Các vị ở Kesaputta, tr.337-347

[9] Văn khuyến phát bồ đề tâm

[10] Pháp cú

[11] Giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, làm thân Phật bị thương ra máu và phá hòa hợp Tăng.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25656)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37872)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19594)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18671)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14259)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20101)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9504)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14374)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35568)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10654)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19704)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23202)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13361)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10747)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20225)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10605)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9966)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14878)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17658)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17603)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13191)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31169)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25763)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13982)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17509)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10979)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12292)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10471)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12273)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11758)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9615)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12354)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9197)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8494)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9961)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9758)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12034)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14420)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9903)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11207)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8295)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10969)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14087)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9907)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15207)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13039)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23079)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23988)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12572)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15429)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17789)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15054)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16555)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16092)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17639)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11596)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11620)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17827)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10782)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10519)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11322)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12078)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11049)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36419)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8961)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9679)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34715)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17265)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10244)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10472)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12198)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13635)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14670)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9150)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24806)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11637)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10316)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15943)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15575)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14519)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13004)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12447)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14580)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18358)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9570)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18522)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18588)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19020)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18834)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11831)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13346)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47990)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11067)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13549)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13040)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11061)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12555)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11051)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31775)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11671)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant