Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

IV. Kết Thúc

26 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 12867)
IV. Kết Thúc

KIẾN TÁNH THÀNH PHẬT
Biên Soạn: Thiền Sư Chân Nguyên
Dịch Giải: Hòa Thượng Thích Thanh Từ

 B. GIẢNG GIẢI
IV- KẾT THÚC

Sau đây tôi tóm kết vài điểm then chốt. Quyển Kiến tánh thành Phật không giống những quyển sách khác, có chia ra từng mục riêng mà từ đầu đến cuối chỉ luận có một mục Kiến tánh thành Phật. Học qua quyển luận này chúng ta thấy ngài Chân Nguyên trình bày hết sức rõ ràng để chúng ta nhận ra, chớ không nói úp mở như các Thiền sư Trung Hoa. Ðọc hành trạng hay Ngữ lục của các Thiền sư Trung Hoa chúng ta thấy các Ngài nói những câu úp mở khiến chúng ta khó lãnh hội. Còn ở đây Thiền sư Chân Nguyên thấy thế nào nói thế ấy, nên toàn bộ quyển luận lặp tới lặp lui, chỉ ngang chỉ dọc chủ yếu nhắc người học đạo nhớ mình có tâm thể không sanh không diệt, gọi là nguồn linh, là Phật tánh, là Pháp thân là tánh giác... Cái đó ai cũng có, nếu người nào nhận ra tánh giác gọi là kiến tánh, vì tánh giác là Phật nên nói kiến tánh thành Phật. Thành Phật không phải thành đức Phật Ca-diếp, Phật Thích Ca, Phật Di Lặc, đó là những vị Phật bên ngoài, mà kiến tánhnhận ra tánh giác, tánh giác đó là Phật của chính mình. Tuy nhiên kiến tánh chỉ mới nhận ra Phật nhân, còn Phật Ca-diếp, Phật Thích Ca... là Phật quả, vì các Ngài đã dẹp hết phiền não vô minh nơi các Ngài. Các Ngài còn chỉ dạy cho mọi người giác ngộ, nên nói tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn mới được thành Phật. Chúng ta mới nhận ra Phật nhân, tự giác chưa xong, giác tha chưa có thì giác hạnh chưa viên mãn, nên chưa thành tựu quả Phật. Ðây nói Kiến tánh thành Phật là mới nhận ra Phật nhân mà thôi. Từ khi kiến tánh cho đến lúc thành Phật phải có thời gian bảo nhậm. Như vậy, kiến tánh là mới nhận ra tánh giác nơi mình chớ chưa thành Phật, nên chúng ta phải khéo bảo nhậm mới thành Phật quả. Như chúng ta có hạt bắp giống chưa chắc là có bắp ăn, có hạt bắp giống chúng ta phải trồng, phải bón phân tưới nước, xịt thuốc sâu... thì mới có bắp ăn. Cũng thế, đức Phật nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, người nhận ra thì gọi là kiến tánh, là nhận ra Phật nhân. Phật nhânhạt giống sẵn có, nhưng chúng ta phải khéo léo bảo nhậm, như người có hạt bắp giống phải biết trồng và săn sóc mới có quả bắp ăn. Nhưng chúng ta thường có bệnh lười biếng không nỗ lực làm việc nên dù có hạt bắp giống mà cam chịu thèm khát, hoặc chờ người làm sẵn rồi đến xin ăn. Cũng thế, chúng ta nghe nói mình có sẵn Phật nhân, khao khát muốn thành Phật quả, nhưng không khôn ngoan sáng suốt thực hành mà cứ ao ước suông hoặc đến lạy Phật cầu xin thì không bao giờ được. Lại càng đáng thương là lạy hoài mà Phật ngồi trên bàn chẳng gật đầu thuận cho. Chúng ta cứ làm những chuyện không đâu mà chuyện thực tế làm được lại không chịu làm. 

Bây giờ quí vị thử xét lại ngay nơi mình có tánh giác mà cũng có phiền não phải không ? Nhưng tánh giác thật hay phiền não thật ? Dĩ nhiên ai cũng biết là tánh giác thật, vì tánh giác là sẵn có, là chân thật, phiền não do duyên bên ngoài mới dấy khởi, là giả dối. Thế mà chúng ta lại sợ phiền não, than rằng: Sao phiền não có sức lôi cuốn dữ dội, làm cho tôi bất an, tu thành Phật khó quá ! Chúng ta thử xét coi, tu thành Phật dễ hay khó ? Chỉ cần buông cái giả thì cái thật hiện ra dễ như trở bàn tay. Chúng ta tu không nên sợ cái giả mà chỉ sợ mê chạy theo cái giả không chịu buông. Khi dụng tâm tu có hai điều chúng ta phải lưu ý: Biết cái giả không theo, nhận cái thật và hằng sống với nó. Ví dụ mặt biển thênh thang bỗng dậy sóng ầm ầm dữ dội, nhưng chúng ta biết biển dậy sóng là do gió thổi, đó là giả dối không thật nên không sợ, vì gió dừng thì sóng lặng. Mặt biển dù có sóng hay không sóng lúc nào cũng hiện hữu không bao giờ thiếu vắng. Hơn nữa sóng chỉ làm dao động mặt biển mà không làm mất mặt biển. Cũng thế tâm chúng ta xao xuyến bất an là do gió ngoại trần thổi. Như chúng ta đang ngồi an nhiên, bỗng có người kêu tên chửi mắng, âm thanh của người ấy khiến cho chúng taphản ứng, vì phản ứng nên tâm chúng ta bị xao xuyến, dao động, giống như mặt biển đang lặng, gió thổi làm cho dậy sóng. Do đó chúng ta tu phải ngăn ngừa gió ngoại trần, nhưng ngăn ngừa bằng cách nào ? Không cho mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị phải không ? - Năm căn vẫn tiếp xúc với năm trần nhưng chúng ta biết nó là duyên hợp tạm có, có rồi mất không thật, cho nên dù có ai kêu tên mắng chửi vẫn không giận không buồn, dù cho thấy sắc tốt, sắc xấu vẫn không ưa không chán v.v... Ðó là chặng thứ nhất thấy ngoại trần không thật. Chặng thứ hai là chúng ta biết pháp trần hay vọng tưởngkhông thật, vì vọng tưởng là do ngoại trần mà có, giống như có gió thổi mặt biển mới dậy sóng. Như vậy gió không thật thì sóng có thật đâu ? Cũng thế ngoại trần không thật nên vọng tưởng cũng không thật. Thế mà có nhiều người tu than: sao mà vọng tưởng dấy khởi liên miên, buông không được ! Tại sao vậy ? Tại chúng ta cứ mãi nhớ ngoại trần. Ví dụ như hôm qua có ai chửi chúng ta một câu, hôm nay âm thanh câu chửi không còn nữa, nhưng bóng dáng hư ảo của câu chửi khởi lên hoài làm cho tâm chúng ta dao động bất an. Khi tiếp xúc với âm thanh chửi mắng chúng ta đã biết nó là không thật, bây giờ ý căn tiếp xúc với bóng dáng của thanh trần thì đâu có thật mà quan trọng ! Sở dĩ tâm chúng ta bất an là vì khi xúc cảnh thấy cảnh thật, cả ngày chúng ta cứ dính với cảnh nên nội tâm dấy động bất an. Chúng ta phải học theo gương của đức Phật. Trong kinh có kể lại câu chuyện: Ðức Phật đang đi có người theo sau mắng chửi, Ngài thản nhiên đi không trả lời. Người kia hỏi Ngài có nghe không ? Sao tôi chửi Ngài mà Ngài không trả lời ? Phật không đáp thẳng mà nêu lên câu hỏi: Giả sử ông đem lễ vật cho người, người không nhận thì lễ vật về ai ? Người kia đáp: Về tôi chớ về ai ! Người ta mắng chửi Phật, Phật không nhận nên tâm bình thản không dao động, còn chúng ta thì ai cho gì nhận nấy không từ chối một món nào, nên chứa đầy cả kho, do đó phải nhọc công loại bỏ

Tóm lại khi dụng tâm tu trước hết dùng trí Bát-nhã thấy rõ ngoại trần không thật, biết nó không thật thì tâm không dính mắc. Kế đến nội tâm dấy niệm cũng biết rõ vọng niệm hư dối không thật không theo. Ban đầu nó dấy lên rất nhiều nhưng lâu ngày nó thưa dần và lặng hết, chỉ còn lại thể tánh sáng suốt thanh tịnh. Cũng như sóng dấy lên từ nước, khi lặng thì sóng trở về nước. Cũng thế, vọng niệm khởi lên từ cái biết, khi vọng niệm lặng thì trở về cái biết, cái biết vẫn liễu liễu thường tri, lúc đó không cần dẹp trừ gì nữa mà hằng sống với cái biết thênh thang thanh tịnh sáng suốt của chính mình. Ðó là Phật là Tổ. Chỗ này Tổ Lâm Tế dạy:

- Ðoạt nhân chẳng đoạt cảnh: dấy niệm không theo, tức là dẹp vọng niệm bên trong.

- Ðoạt cảnh chẳng đoạt nhân: quán tất cả ngoại cảnh đều không thật, tức là dẹp cảnh bên ngoài.

- Nhân cảnh đều đoạt: trong không dấy niệm, ngoài không theo cảnh.

- Nhân cảnh đều chẳng đoạt: trở về với tâm như như thanh tịnh, như sóng dừng, biển lặng yên.

Ðó là theo Tứ liệu giản của Tổ Lâm Tế. Còn ở đây chúng ta tu đầu tiên là dùng trí Bát-nhã quán chiếu thấy sáu trần không thật, kế đến là biết rõ những vọng niệm dấy lên từ nội tâm không thật nên không theo. Trong ngoài không giao thiệp nữa thì tâm an nhiên tự tại.

Như vậy, nơi chúng ta đã có sẵn tánh Phật nhưng vì chúng ta để cho tam bành lục tặc dấy khởi nhiễu loạn nên không bao giờ yên, đó là do chúng ta thấy sáu trần là thật, nếu thấy sáu trầngiả dối thì lục tặc biến thành lục thông, thành lục thông thì trở về thể như như đâu có khó. Cho nên tu mà khéo nhận thì dễ đạt kết quả, nếu không khéo nhận thì dù cho trải qua thời gian dài cố gắng tối đa mà vẫn không kết quả. Do đó có nhiều người ham tu ngồi thiền rất giỏi mà nghe một câu nói hơi nặng thì nhớ hoài không quên, đó là còn thấy thanh trần thật, do đó nên tu không tiến.

Tóm lại, đối với người tu kiến tánh rất là quan trọng, kiến tánh khởi tu thì không còn sợ lầm lạc. Mong rằng sau khi đọc xong quyển luận này quí vị đủ lòng tintiến tu, không bao giờ thối chuyển.

III- KỆ KIẾN TÁNH (Ðoạn3)

VI-

Ðạt-ma Tây đến một chữ không,
Toàn y tâm địa để dụng công.

Chín năm ngó vách không lời nói,

Một sớm truyền tâm Huệ Khả thông.

Âm :

Ðạt-ma Tây lai nhất tự vô, 
Toàn bằng tâm địa dụng công phu.
Cửu niên diện bích vô ngôn thuyết,
Nhất đán truyền tâm Huệ Khả sư.
Ðạt-ma Tây đến một chữ không, toàn y tâm địa để dụng công.Chín năm ngó vách không lời nói, mộtsớm truyền tâm Huệ Khả thông. Tổ Ðạt-ma từ Ấn Ðộ sang Trung Hoa không truyền dạy một chữ, nên nói một chữ không, Ngài chỉ nương nơi pháp môn tâm địa để chỉ dạy người dụng công tu. Trong nhà Phật thường nói tâm địa, tâm là tâm con người, địa là đất. Tâm địa chỉ cho tâm chân thật của chúng ta giống như mặt đất, tất cả người vật trên thế gian đều nương nơi đất mà đứng vững sanh tồn. Cũng thế tất cả những điều thấy nghe, hiểu biết cũng đều lưu xuất từ tâm, tâm tạo thành tất cả cho nên nói là tâm điạ. Suốt chín năm ở chùa Thiếu Lâm Tổ ngồi ngó vách không nói một lời, một hôm ngài Thần Quang tìm tới cầu chỉ dạy, Tổ truyền cho pháp an tâm, Ngài ngộ cho nên được đổi tên là Huệ Khả, nên nói Huệ Khả thông. Thần Quang trước khi gặp Tổ đã dụng công tu hành đáng kể, nhưng chưa ngộ. Nghe Tổ Bồ-đề-đạt-ma từ Ấn Ðộ sang ở tại chùa Thiếu Lâm, bèn đến yết kiến. Thần Quang đã đủ lễ nghi mà Tổ vẫn ngồi lặng yên ngó mặt vào vách không màng đến. Ngài tự nghĩ: "Người xưa cầu đạo chẳng tiếc thân mạng, nay ta chưa được một trong muôn phần của các Ngài". Hôm ấy nhằm tiết Ðông nên tuyết rơi nhiều, Thần Quang vẫn đứng yên ngoài tuyết chấp tay hướng về Tổ ? Ðến sáng tuyết ngập đến đầu gối mà gương mặt Ngài vẫn thản nhiên. Tổ thấy thế thương tình, xoay ra hỏi: - Ngươi đứng suốt đêm trong tuyết ý muốn cầu việc gì ?

Ngài Thần Quang thưa:

- Cúi xin Tổ từ bi mở cửa cam lồ rộng độ chúng con.

Tổ quở:

 - Diệu đạo vô thượng của chưPhật, dù nhiều kiếp tinh tấn, hay làm việc khó làm, hay nhẫn điều khó nhẫn, còn không thể được, huống là dùng một chút khó nhọc này mà cầu được sao ?

Thần Quang nghe dạy lén lấy con dao chặt cánh tay để trước Tổ tỏ lòng thiết tha cầu đạo của mình. Tổ khen:

- Chư Phật xưa vì pháp quên thân mạng, nay ngươi chặt cánh tay để cầu pháp, tâm cầu đạo như thế cũng khá đó. Tổ nhận làm đệ tử và đặt tên là Huệ Khả.

Câu chuyện Thần Quang chặt tay cầu đạo thực hư chúng ta chưa kiểm chứng được. Nhưng hình ảnh đứng trong tuyết lạnh thấu xương, quên thân cầu đạo của Ngài là tấm gương sáng cho kẻ hậu sanh như chúng ta noi theo. Ngài quên thân cầu đạo mới ngộ, do đó mà Tổ Bồ-đề-đạt-ma truyền tâm ấn cho Ngài làm Tổ thứ hai của Thiền tông Trung Hoa. Câu cuối bài kệ là muốn nhắc lại lịch sử truyền thừa Tổ vị này.

VII-

Một điểm đèn tâm đuốc tuệ sanh,
Truyền nhau bốn mắt đã phân rành.
Nối hương tiếp lửa luôn sáng mãi,
Soi khắp đất trời độ hữu tình.
Âm :
Nhất điểm tâm đăng tuệ cự sanh,
Tương truyền tứ mục thái phân minh.
Liên phương tục diệm quang vô tận,
Phổ chiếu càn khôn độ hữu tình.
Một điểm đèn tâm đuốc tuệ sanh, truyền nhau bốn mắt đã phân rành.một điểm đèn tâm đuốc tuệ sanh.Nối hương tiếp lửa luôn sáng mãi, soi khắp đất trời độ hữu tình.VIII- Ở trên nói Tổ Bồ-đề-đạt-ma truyền tâm ấn cho ngài Huệ Khả làm vị Tổ đầu tiên ở Trung Hoa, cho nên khi được truyền tâm ấn ngài Huệ Khả suy tôn Tổ Ðạt-ma là Sơ Tổ Thiền tông Trung Hoa. Sự truyền tâm đó tượng trưng bằng ngọn đèn hay cây đuốc. Ðèn tâm, đuốc trí tuệ cho nên câu đầu nói Tuy nhiên người nào ngộ cũng được thắp sáng đèn tâm, đuốc tuệ chớ không riêng gì ngài Huệ Khả. Ðèn tâm đuốc tuệ được truyền bằng bốn mắt nhìn nhau. Khi xưa, ở hội Linh Sơn Phật đưa cành hoa sen lên nhìn khắp đại chúng, nhìn tới Ma-ha-ca-diếp, Ma-ha-ca-diếp nhìn Phật mỉm cười, liền được truyền tâm, sau này Thiền sư Chân Nguyên hỏi "Bao năm dồn chứa ngọc trong đãy, hôm nay tận mặt thấy thế nào, là sao ?". Thiền sư Minh Lương đưa mắt nhìn thẳng vào Ngài, Ngài nhìn lại, liền cảm ngộ, được truyền tâm. Còn bây giờ thầy trò nhìn nhau hoài sao chẳng được truyền tâm ? Lỗi đó tại đâu ? Tại cây đuốc của chúng ta chưa cháy, tại tâm nghĩ suy của chúng ta chưa dừng. Người ngộ được bản tâm rồi đem cái thấy cái ngộ của mình tiếp nối chỉ dạy cho người sau, cho nên gọi là nối hương tiếp lửa. Bởi vì đạo đức ví như mùi hương, mùi hươngđạođức không bị gió thổi cuốn theo chiều gió. Cho nên trong kinh nói mùi hương của thế gian thì theo gió thổi đi, còn mùi hương của đạo đức thì gió hướng nào cũng không ngại hết, mùi hương đức hạnh dù ngược gió mà vẫn bay khắp cả muôn phương. Như vậy chỉ có hương đạo đức là không ngại gió, nối hương là nối mùi hương đạo đức. Tiếp lửa là mồi đèn tiếp đuốc để cho nó sáng mãi ở cõi nhân gian. Vì đạo Phật lấy sự giác ngộ làm chủ yếu, và ví ánh sáng giác ngộ như ánh sáng của ngọn đuốc, của mặt trời mặt trăng. Cho nên thế gian này có người giác ngộ thì thế gian có ánh sáng, nếu không người giác ngộ thì thế gian sẽ tối tăm. Do đó bổn phận của người tu là phải tu cho sáng đạo, rồi chỉ dạy mọi người để đèn trí tuệ luôn luôn được thắp sáng ở cõi thế gian nhiều tăm tối này. Nên nói ánh sáng trí tuệ soi khắp để độ chúng hữu tình.
Chân Phật, chân kinh thảy ở tâm,
Kho báu nhà mình chớ chạy tầm.

Có ai thử hỏi đâu là Phật ?
Ngay khi hỏi đáp tại mắt, âm (lời).
Âm :
Chân Phật chân kinh tổng tại tâm,
Tự gia bảo tạng mạc tha tầm.

Hữu nhân thí vấn Phật hà tại,
Ứng đối đương thời tại nhãn âm.
Chân Phật, chân kinh thảy ở tâm, kho báu nhà mình chớ chạy tầm.Có ai thử hỏi đâu là Phật ? Ngay khi hỏi đáp tại mắt, âm (lời). Phật thật kinh thật đều ở trong tâm, đó là kho báu của mình đừng chạy ra ngoài để tìm kiếm. Chúng tathói quen hễ nói đến Phật thì nghĩ rằng Phật thờ ở chùa, nói đến kinh thì chỉ thấy kinh là những pho sách ghi chép lời Phật dạy để trong tủ. Nhưng Phật ngồi trên bàn, kinh để trong tủ có phải là chân Phật chân kinh mà ngài Chân Nguyên nói ở đây không ? Phật ngồi trên bàn là Phật tượng, nhìn Phật tượng chúng ta phải nhớ lại ông Phật thật của mình, ông Phật của mình thì giác và linh động nói năng đi lại là Phật thật. Còn Phật tượng thì ngồi im lìm không nói năng hoạt động, sao gọi là Phật thật được ? Kinh nằm trong tủ thì ghi chép những lời Phật dạy, nương lời dạy ấy chúng ta tu ngộ được bản tâm, mở sáng mắt tuệ. Bản tâm và mắt tuệ không phải là giấy mực chữ nghĩa. Kinh Viên Giác nói rằng: Kinh là ngón tay chỉ mặt trăng, nương theo ngón tay để nhìn thấy mặt trăng, chớ ngón tay không phải là mặt trăng. Cũng thế kinh ghi lại những lời Phật dạy để chúng ta đọc ngộ được bản tâm, nhưng nếu chúng ta chỉ đọc lời Phật mà không ngộ bản tâm thì chưa phải là chân kinh. Chân kinh chân Phật đều là tự tâm. Vì Phật là giác, mà giác là tâm mình giác, Phật tượng vô tri không giác. Tâm bất sanh bất diệt hằng tri hằng giác, mà kinh bằng giấy mực văn tự không tri giác, nên không phải là chân kinh. Chân Phật chân kinh, kho báu gốc từ tâm mình mà ra chớ không phải ở ngoài. Như vậy muốn thấy Phật thật thấy kinh thật, thì ngay nơi tâm mình là kho báu vô tận ai ai cũng sẵn đủ. Quay lại kho báu nhà mình thì có đầy đủ tất cả chớ chạy tìm ở đâu cho nhọc. Nếu hỏi đâu là Phật thì đáp: Lời hỏi mắt nhìn, ngay khi hỏi đáp là Phật. Thiền sư Huệ Hải khi đến chỗ Mã Tổ Ðạo Nhất, Mã Tổ hỏi:

- Ông đi đâu ?

Sư thưa:

- Con đến cầu Phật pháp.

Tổ bảo:

- Kho báu nhà mình không đoái hoài, bỏ nhà chạy đi tìm cái gì ?

Sư thưa:

- Thế nào là kho báu nhà mình ?

Tổ bảo:

- Chính khi ngươi hỏi ta đó là kho báu của ngươi, đầy đủ tất cả, tự do sử dụng đâu nhờ tìm cầu bên ngoài.

Cái thưa hỏi là kho báu, vì lời nói phát xuất từ tâm, nên mới phát ra âm thanh, phát ra cái nhìn đều từ tâm Phật, nhưng tại sao chúng ta không chịu nhận ? Bởi vì từ thuở bé cho đến lớn chúng tathói quen hễ mắt thấy sắc, tai nghe tiếng thì phân biệt đẹp xấu hay dở. Mũi lưỡi thân ý cũng lại như vậy. Chúng ta luôn luôn chạy theo phân biệt, phân biệt rành rẽ thì gọi là người khôn. Ví dụ hôm nay Phật tử cúng dường cho chư Tăng một bữa ăn. Ăn xong Phật tử đó hỏi: Thưa Thầy thức ăn hôm nay ngon không ? Phải trả lời như thế nào ? Nếu nói ngon thì họ vui, còn nói tôi ăn chỉ biết ăn thì họ buồn. Bởi vì họ cố tình nấu cho ngon để cúng dường cho quí thầy, thế mà nói ăn chỉ biết ăn thì họ buồn, nếu nói ngon thì họ rất là hoan hỷ. Cho nên khi ăn phải biết ngon hay dở, lại ngon nhiều ngon ít nữa. Như vậy tất cả sinh hoạtthế gian đều huân tập cho chúng ta thói quen phân biệt rành rẽ, mà phân biệt thì đã rơi vào tình thức chúng sanh, chớ không phải là tâm Phật giác ngộ.Nếu tâm giác ngộ thì thấy nghe hay biết rất rành rẽ mà không có tình thức phân biệt xen vào, điều này nói nghe thì dễ nhưng rất khó làm. Vì, môi trường gia đình xã hội luôn luôn tạo cơ hội thuận tiện lôi cuốn chúng ta chạy theo thức tình phân biệt. Do đó, ông Phật của chính mình ẩn khuất mất tiêu. Như vậy Phật cũng rất gần ta mà cũng rất xa ta. Nếu tỉnh Phật ở ngay lời hỏi câu đáp, ngay nơi bốn mắt nhìn..., nếu mê chạy theo tình thức phân biệt hay dở, khen chê tốt xấu thì không bao giờ nhận ra kho báu của chính mình. Chủ yếu bốn câu kệ này Ngài chỉ cho chúng ta nhận ra Phật thật kinh thật ngay nơi tâm mình, đó là kho báu sẵn có của chính mỗi người. Kho báu đó không có xa lạ mà ngay nơi lời hỏi câu đáp, ngay nơi mắt thấy tai nghe của chính mình, đừng nên chạy đi đâu tìm kiếm nhọc nhằn.

IX-

Chân kinh chẳng đổi vốn như thường,
Chưa từng mở miệng hiện tỏ tường.
Nghĩ toan nắm bắt lầm qua mất,
Một chữ vô sanh thẳng thừa đương.
Âm :
Chân kinh bất dịch bổn như thường,
Vị tằng khai khẩu hiển đường đường.
Bất khả nghĩ trì sai thác quá,
Vô sanh nhất cú trực thừa đương.
Chân kinh chẳng đổi vốn như thường, chưa từng mở miệng hiện tỏ tường.Nghĩ toan nắm bắt lầm qua mất, một chữ vô sanh thẳng thừa đương.X- Chân kinh là chỉ cho tâm Phật xưa nay nó vốn như vậy không hề thay đổi. Nó đã có sẵn không đợi nói, không đợi đọc tụng mới có kinh, mà kinh đã hiện đầy đủ không có ẩn giấu chút nào cả. Cho nên nói "chưa từng mở miệng hiện tỏ tường". Vừa khởi nghĩ tìm chân kinh, thì lầm qua mất. Chỉ ngay tâm phẳng lặng hiện tiền hằng giác hằng tri không khởi diệt là tâm vô sanh luôn luôn bảo nhậm ngay nơi đó mà sống đừng quên, thế nhưng chúng ta quen sống với tâm sanh diệt, cho nên thấy cái đồng hồ liền hỏi hiệu gì, sản xuất ở đâu tốt hay xấu, bền hay không bền... Thấy không nhớ mình có cái hay thấy, mà khởi lên nhiều niệm là sanh chớ không còn vô sanh. Ví dụ có người đi từ trên chùa xuống tới cổng nội viện, bất thần có người kêu tên chửi, lúc đó vị ấy có tỉnh giác vô sanh được không ? Có ngoại duyên chạm đến là sanh liền. Có khi sanh những cái tốt đẹp hiền lành, cũng có khi sanh những thứ dữ dằn xấu xa. Cho nên sống với cái vô sanh không phải chuyện đơn giản dễ làm. Ngồi một mìnhmột mình khả dĩ giữ được, còn khi đối duyên xúc cảnh rất khó giữ. Bởi vì gặp cảnh thì niệm sanh diệt dấy khởi khó dừng được, cho nên chủ yếu của sự tu hành là đừng để cái sanh diệt chi phối, luôn luôn sống với cái tâm vô sanh đó là cái gốc của sự tu.
Không văn không chữ đấy chân kinh,
Một quyển trường không quá phân minh.
Miệng nói còn xa ba ngàn dặm,
Tai nghe thêm tiến chục vạn trình.
Âm :
Vô văntự thị chân kinh,
Trường không nhất quyển thái phân minh.
Khẩu tuyên thượng cách tam thiên lý,
Nhĩ thính tăng dao thập vạn trình.
Không văn không chữ đấy chân kinh, một quyển trường không quá phân minh.Miệng nói còn xa ba ngàn dặm, tai nghe thêm tiến chục vạn trình.XI- Chân kinh thì không có văn tự chữ nghĩa, tuy không văn tự chữ nghĩa, nhưng quyển kinh này rất là rành rẽ, trùm khắp cả hư không. Kinh này vì không văn tự chữ nghĩa, nên mở miệng nói thì xa ba ngàn dặm, nếu dùng tai nghe thì càng xa hơn đến mười vạn trình, tức là mười vạn cây số. Như vậy không dùng ngôn ngữ để diễn đạt chân kinh, không dùng tai nghe để nghe chân kinh mà chỉ có tâm vô sanhhiển bày chân kinh rồi. Tóm lại, ý bốn câu kệ nói chân kinh vốn không ngôn ngữ không văn tự, nó trùm cả hư không. Dùng ngôn ngữ không diễn đạt được, dùng tai nghe lại càng xa hơn. Chỉ sống với tâm vô sanh là đầy đủ chân kinh.
Chân Phật chân kinh vốn một đồng,
Tịch quang tròn lặng suốt hư không.
Thật tế nhất như gồm mọi lý,
Tạm bày muôn pháp độ quần mông.
Âm :
Chân Phật chân kinh bổn nhất đồng,
Tịch quang viên trạm đẳng hư không.

Thật tế nhất như bao chúng lý,
Quyền khai vạn pháp độ quần mông.
Chân Phật chân kinh vốn một đồng, tịch quang tròn lặng suốt hư không.Thật tế nhất như gồm mọi lý, tạm bày muôn pháp độ quần mông.

XII-
Phật thật kinh thật vốn đồng một thể, ánh sáng lặng lẽ của nó xuyên suốt hư không. Như vậy nói chân Phật chân kinh tuy hai tên mà chỉ là một pháp thân thanh tịnh trong sáng trùm khắp cả hư không chớ không có gì lạ. Bờ mé chân thật thì nhất như không lý lẽ, nhưng bao trùm mọi lý lẽ, nên tạm bày ra muôn pháp để hóa độ người mê muội. Thế nên Tổ Qui Sơn nói: "Thật tế lý địa bất thọ nhất trần, vạn hạnh môn trung bất xả nhất pháp". Nghĩa là chỗ chân thật thì không dính một mảy bụi, mà trong cửa vạn hạnh (cửa phương tiện) thì không xả bỏ một pháp nào. Ðể thấy rằng mọi phương tiện đều y cứ nơi thể chân thật mà lập, lập phương tiện là vì kẻ mê muội giáo hóa cho họ thức tỉnh.
Lý mầu Phật pháp không văn tự,
huyền đạo Tổ chẳng ngữ ngôn.
Rộng tiếp người sau thông một tuyến,
Thượng căn mắt thấy đạo tâm còn.
Âm :
Phật pháp diệu lý vô văn tự,
Tổ đạo huyền cơ mạc ngữ ngôn.
Hoằng tiếp hậu lai thông nhất tuyến,
Thượng căn mục kích đạo tâm tồn.
Lý mầu Phật pháp không văn tự, cơ huyền đạo Tổ chẳng ngữ ngôn. Lý nhiệm mầu của Phật pháp thì không dùng văn tự, cơ huyền của chư Tổ thì chẳng dùng ngôn ngữ. Nghĩa là lý nhiệm mầu của Phật pháp chỉ dùng tâm ấn tâm, chớ không dùng văn tự giải thích, và cơ huyền đạo của chư Tổ thì không dùng ngôn ngữ, vì ngôn ngữ là đầu mối của sự phân biệt. Thế nên các Ngài thường dùng hành động để chỉ thẳng cho người học đạo nhận ra cái chân thật. Nếu có tạm mượn ngôn ngữ để chỉ thì ngôn ngữ ấy không làm cho người học đạo mắc kẹt vào phân biệt đối đãi. Sau đây là những câu chuyện không dùng ngôn ngữ của các Thiền sư. Có người tới hỏi Thiền sư Ðả Ðịa: Thế nào là Phật ? Ngài cầm cây gậy đập xuống ba cái. Ðó là ngôn ngữ gì ? Ngài Lâm Tế đến hỏi Tổ Hoàng Bá: Thế nào là đại ý Phật pháp ? Ba lần hỏi ba lần bị đánh. Ðó là ngôn ngữ gì ? Những cơ huyền như thế không có ngôn ngữ, nhưng người hỏi khéo nhận thì nhận được cái chỗ không ngôn ngữ. Không khéo nhận thì khóc lóc khổ sở hoặc ra về tay không.

Rộng tiếp người sau thông một tuyến, thượng căn mắt thấy đạo tâm còn. Vì rộng độ người sau nên lập bày phương tiện, người thượng căn nếu nhận được cái chân thật thì tâm đạo của họ còn mãi không bao giờ mất. Tóm lại bài kệ này ý nói, lý mầu của Phật pháp không dùng văn tự, phương tiện chỉ bày chỗ huyền diệu của chư Tổ không dùngngữ ngôn, nhưng vì độ người sau cho nên tạm lập bày phương tiện, người thượng căn nhân phương tiện đó nhận ra cái chân thật thì đạo tâm không bao giờ mất.

XIII-

Tâm tông Bát-nhã ai lãnh ngộ,
Rõ ràng tự tánh tức Như Lai.
Kẻ kẻ viên thành đồng chứng Phật,
Người người đầy đủ chẳng cầu ai.
Âm :
Bát-nhã tâm tông thùy lãnh ngộ,
Liễu minh tự tánh tức Như Lai.
Cá cá viên thành đồng chứng Phật,
Nhân nhân cụ túc bất cầu ai (tha).
Tâm tông Bát-nhã ai lãnh ngộ, rõ ràng tự tánh tức Như Lai.Kẻ kẻ viên thành đồngchứngPhật, người người đầy đủ chẳng cầu ai.

XIV-
Tâm tông là tông chủ đích chỉ thẳng về tâm, chỉ thẳng lý Bát-nhã tột cùng, hỏi ai lãnh ngộ chỗ không có người không có pháp. Thì rõ ràng tự tánh mình tức là Phật, tức là Như Lai, tức là Bát-nhã. Nếu nhận được tự tánh của mình là Phật thì ai ai cũng thành Phật quả hết, và mọi người sẵn đủ tánh Phật thì không còn cầu xin, không còn trông cậy vào người khác. Ý bốn câu kệ này nói người ngộ được tâm tông Bát-nhã thì biết rõ tự tánh mình là Phật và tất cả mọi người đều sẽ thành Phật, mọi người đều sẵn đủ tánh Phật nên không cầu xin ai cả.
Kinh, Lục trùng trùng phương tiện biển,
Cơ duyên Phật Tổ lưới giáo bao.
Một tông vô trụ tâm ấn Phật,
Muôn pháp hữu vi bọt nước xao.
Âm :
Kinh,Lục trùng trùng phương tiện hải,
Phật Tổ cơ duyên giáo võng bao.
Vô trụ nhất tông Phật tâm ấn,
Hữu vi vạn pháp thủy phù bào.
Kinh, Lục trùng trùng phương tiện biển, cơ duyên Phật Tổ lưới giáo bao.Một tâm vô trụ tâm ấn Phật, muôn pháp hữu vi bọt nước xao.XV- Câu này phá chấp niệm muốn đọc hết Kinh hết Lục. Ngài nói, Kinh lời dạy của Phật, Lục là lời dạy của Tổ. Kinh Lục chỉ là phương tiện, nhiều như biển cả. Còn cơ duyên của Phật Tổ giáo hóa chúng sanh là lưới giáo bao trùm tất cả. Nói về Kinh Lục của Phật Tổ chúng ta thấy Ðại Tạng Kinh chữ Hán trên năm ngàn quyển, nhưng chúng ta giỏi lắm đọc được vài trăm quyển là cùng. Còn Lục của chư Tổ thì Thiền tạng gom lại có một trăm lẻ một quyển. Phương tiện thì nhiều. Nhưng: Chỉ một tâm vô trụ đó là tâm ấn của chư Phật, còn các pháp hữu vi sanh diệt ví như bọt nước ngoài biển cả bị sóng vỗ là tan ngay. Tóm lại ý bài kệ nói Kinh Lục là phương tiện truyền bá của Phật Tổ nhiều như biển, cơ duyên giáo hóa của Phật Tổ là lưới giáo bao trùm tất cả mọi người. Phương tiện tuy nhiều nhưng người học đạo ngộ được tâm vô trụ, tâm vô trụtâm ấn của chư Phật. Người ngộ được tâm ấn của chư Phật thì thấy các pháp hữu vi chỉ là vô thường tạm bợ như hòn bọt ngoài biển cả.
Ba thuở Như Lai truyền diệu chỉ,
Hai người bốn mắt đối nhìn nhau.
Nguồn linh nước pháp sa giới chảy,
Ðuốc tuệ sáng thông cõi cõi nào.
Âm :
Tam thế Như Lai truyền diệu chỉ,
Nhị nhân tứ mục nhãn tương giao.
Linh nguyên pháp thủy lưu sa giới,
Tuệ chúc quang thông sát hải dao.
Ba thuở Như Lai truyền diệu chỉ, hai người bốn mắt đối nhìn nhau.Nguồn linh nước pháp sa giới chảy, đuốc tuệ sáng thông cõi cõi nào.Cho nên Tổ sư Ðại Huệ nói: "Học đạo vốn không nhiều pháp, chỉ lấy tin ngộ tự tánh làm khuôn phép. Ðời nay nếu chẳng lãnh ngộ cũng gieo được trí Bát-nhã trên đất tánh, đời đời chẳng rơi vào đường ác, kiếp kiếp chẳng mất thân người, chẳng sanh vào nhà tà kiến, chẳng vào loài quân ma, mầm linh giống trí, đồng tử đi xuất gia, theo Phật tu hành, một nghe ngàn ngộ". Giả sử tham học như trên mà chưa triệt, vẫn kết chủng duyên Phật; tu mà chưa thành, còn hơn quả trời người. Chúng sanh phải gắng sức tự độ, Phật chẳng thể độ. Nếu chẳng thật tâm tu hành, bền giữ trai giới, mà ngưỡng trông Phật đến cứu độ, không có lẽ ấy. Nếu tự mình chẳng đoạn trừ nghiệp ác, cứ đợi Phật khác đến cứu độ, thì chư Phật quá khứ đã thành đạo, ứng hiện nơi đời số như vi trần, sao chẳng độ hết tất cả chúng sanh ? Vì sao chúng ta còn trôi nổi nơi biển khổ sanh tử đến nay, chẳng thể thành Phật ? Phải biết tự tu, tự độ, Phật chẳng thể độ. Nên biết, phân nửa ở Phật, phân nửa ở ta, xét cho tường tận lý này. Hãy gắng sức tự tu chớ ỷ lại vào tha lực. Ba đời chư Phật truyền yếu chỉ qua bốn mắt nhìn nhau. Nếu bốn mắt nhìn nhau mà nhận ra yếu chỉ nhiệm mầu của đạo thì: Nguồn sáng suốt nhiệm mầu chảy khắp hết hằng sa cõi nước và ánh sáng của ngọn đuốc trí tuệ thông hết tất cả chỗ. Ý bài kệ nói rằng: ba đời chư Phật truyền diệu chỉ nếu người nào qua bốn mắt nhìn nhau mà ngộ được thì nguồn sáng suốt chảy khắp sa giới và ánh sáng trí tuệ chiếu soi tất cả cõi. Chúng ta thấy ngài Chân Nguyên ngộ ở chỗ bốn mắt nhìn nhau nên kết thúc mười lăm bài kệ, ở bài kệ thứ mười lăm Ngài chỉ thẳng: Bốn mắt nhìn nhau là cái gốc nhận ra tâm mình là Phật. Sau đó truyền bá mãi không cùng tận.

Sau đây là dẫn lời ngài Ðại Huệ, một Thiền sư nổi tiếng ở Trung Hoa đời Tống. Ngài nói rằng: Học đạo vốn không nhiều pháp, chỉ lấy tin ngộ tự tánh làm khuôn phép,Ðời nay nếu chẳng lãnh ngộ cũng gieo được trí Bát-nhã trên đất tánh, đời đời chẳng rơi vào đường ác, kiếp kiếp chẳng mất thân người.Chẳng sanh vào nhà tà kiến, chẳng vào loài quân ma.Mầm linh giống trí, đồng tử xuất gia theo Phật tu hành, một nghe ngàn ngộ. nghĩa là người học đạo lấy cái ngộ tự tánh làm căn bản. Bởi vì chúng ta tu mà không nhận ra tự tánh sẵn có của mình thì chưa giác ngộ, cho nên nói lấy tin ngộ làm khuôn phép. Người chỉ tin ngộ tự tánh, tuy ngay trong đời này chưa lãnh ngộ như những người căn cơ nhạy bén, cũng gieo được trí Bát-nhã trên đất tánh của mình. Người nhận được bản tánh thì đời đời không rơi vào đường ác, kiếp kiếp tái sanh vẫn được làm người. Người tin mình có tự tánh thì đời sau không sanh vào nhà ngoại đạo tà kiến, cũng chẳng kẹt vào quân ma. Người tin mình có tự tánh đã sẵn có mầm linh, sẵn hạt giống trí nên còn bé (đồng tử) đã theo Phật xuất gia tu hành, một nghe ngàn ngộ tức là nghe một câu mà ngộ cả ngàn câu. Nghe một câu mà ngộ cả ngàn câu nghĩa là sao ? Như chúng ta tu Thiền khi nghe một câu nói của một vị Tổ mà ngộ, thì một ngàn câu của chư Tổ ta đều thông suốt. Như vậy chỉ cần ngộ một câu là mọi câu đều thông suốt, cho nên nói một nghe ngàn ngộ. Cũng như các vị tham công án mà ngộ thì giải được tất cả các công án.

Giả sử tham học như trên mà chưa triệt, vẫn kết chủng duyên Phật, tu mà chưa thành, còn hơn quả trời người.Chúngsanh phải gắng sức tự độ, Phật chẳng thể độ.Nếu chẳng thật tâm tu hành, bền giữ trai giới, mà ngưỡng trông Phật đến cứu độ, không có lẽ ấy.Nếu tự mình chẳng đoạn nghiệp ác, cứ đợi Phật khác đến cứu độ, thì chư Phật quá khứ đã thành đạo, ứng hiện nơi đời số như vi trần, sao chẳng độ hết tất cả chúng sanh ? Vì sao chúng ta còn trôi nổi nơi biển khổ sanh tử đến nay chẳng thể thành Phật ?phải biết tự tu tự độ, Phật chẳng thể độ. Nên biết, phân nửa ở Phật, phân nửa ở ta, xét cho tường tận lý này, hãy gắng sức tự tu chớ ỷ lại vào tha lực. NgàiChân Nguyên nói: Giả sử ngườitham học như trên mà chưa thấu triệt vẫn có chủng duyên với Phật, tuy tu chưa thành chánh quả nhưng vẫn hơn quả vịcõi trời cõi người. Chúng ta tu là phải tự độ mình, chớ Phật không thể độ được. Ở đây nói như thế cũng hơi cực đoan, đoạn sau sẽ bù lại. Nếu mình chẳng thật tâm tu, trai giới không giữ, mà cứ trông cầu Phật đến cứu độ thì không bao giờ có Phật đến cứu. Nếu tu mà cứ mong Phật tới cứu độ thì ở đây Ngài nói, Phật ra đời ứng thân vô số sao Phật không độ cho mọi người hết mê ? Thực tế thì chúng sanh còn nhiều mê lầm, vậy thì trông cậy Phật độ bằng cách cầu xin khấn nguyện có được như ý không ? Chắc chắn là không. Cho nên Ngài nhắc chúng ta phải tự tu tự độ chớ Phật không thể độ mình được. Tuy nhiên phân nửa ở Phật phân nửa ở ta. Câu này có an ủi chúng ta một chút. Phân nửa nào ở Phật, phân nửa nào ở ta ? Ví dụ đứa học trò đến trường học, nó học được là nhờ thầy dạy, nếu nó không học thì không thuộc bài. Như vậy thầy giáo dạy là phân nửa của thầy, nó học thuộc bài là phân nửa của nó. Nhờ phân nửa của thầy và phân nửa của nó mà làm thành cho đứa học trò. Cũng vậy đức Phật đem chánh pháp truyền bá chỉ dạy, chúng ta hiểu rồi phải nỗ lực thực hành, phân nửa của Phật cộng với phân nửa của chúng ta thì mới viên mãn sự tu hành, chớ không phải cực đoan một bên. Như vậy khi tu chúng ta tha thiết lạy Phật cầu gia bị, mà cũng phải học hiểu lời dạy của Ngài, ứng dụng tu thì mới được thành tựu viên mãn. Ngài khuyên chúng ta phải xét cho kỹ lý này để nỗ lực tu hành, không nên ỷ lại vào kẻ khác. Một người học trò ỷ lại vào ông thầy thì người học trò đó sẽ hư. Cũng vậy, người tu mà cứ ỷ lại nơi Phật không chịu tu thì sẽ không đạt kết quả.

Xưa đức Phật Bổn Sư Thích Ca Thế Tôn đinh ninh dặn dò: Phật còn tại thế, lấy Phật làm thầy, Phật vào Niết-bàn lấy Giới làm thầy. Phật tức là tâm, tâm tức là Phật. Tự tánh xưa nay rỗng lặng tròn sáng, trong lặng nhiệm mầu, như như đó là chân Phật của ta, dẫu Phật ở đời cũng không có lý khác. Nên biết người có trí phải lập chí, phước huệ song tu, chân như riêng chứng. Niệm niệm từ bi, cửa cửa lợi ích, thường nói diệu pháp Bát-nhã, phương tiện tiếp dẫn người sau. Người chưa ngộ thì chỉ bày cho tỏ ngộ, nếu chưa thành mong khiến cho chóng thành. Kinh nói: tài thí như ngọn đèn chỉ soi sáng một căn phòng, pháp thí như mặt trời sáng đầy khắp mười phương. Tự tánh nếu mê, phước làm sao cứu? Thân người khó được, Phật pháp khó gặp, Thánh tăng khó thấy, chánh pháp khó nghe, lòng tin khó sanh, bạn lành khó hội ngộ. Phước duyên kim cải, mừng đã hợp nhau. May thay như rùa mù gặp được bộng cây. Chúng ta bỏ sự nghiệp đi xuất gia nên cầu việc gì ? Chớ tham đắm danh lợi, phải chọn bạn tìm thầy, vì pháp quên mình, lô�i nước trèo non, kính lễ thưa hỏi.

Xưa đức Phật Bổn sư Thích Ca Thế Tôn đinh ninh dặn dò: Phật còn tại thế lấy Phật làm thầy, Phật vào Niết-bàn lấy Giới làm thầy.Phật tức là tâm, tâm tức là Phật, tự tánh xưa nay rỗng lặng tròn sáng, trong lặng nhiệm mầu, như như đó là chân Phật của ta, dẫu Phật ở đời cũng không có lý khác.Nên biết người có trí phải lậpchí, phước huệ song tu, chân như riêng chứng, niệm niệm từ bi, cửa cửa lợi ích.Thường nói diệu pháp Bát-nhã, phương tiện tiếp dẫn người sau, người chưa ngộ thì chỉ bày cho tỏ ngộ, nếu chưa thành thì mong khiến cho chóng thành. Ðây là dẫn lời Phật dạy trong kinh Di Giáo. Ngài nói Phật tức là tâm, tâm tức là Phật. Vậy Phật mà Ngài nói đây không phải Phật ở Ấn Ðộ, mà là Phật tâm của mỗi người chúng ta. Phật tâm của chúng ta xưa nay vốn rỗng lặng, nhiệm mầu, tròn sáng, như như không động, ấy mới là chân Phật. Dẫu cho Phật Thích Ca còn tại thế cũng như vậy chớ không có lý nào khác. Ngài dạy rằng người có trí tuệ thì khi tu hành phải lập chí cho vững, phải phước huệ song tu, phải chứng ngộ chân như của chính mình. Mỗi niệm mỗi niệm phải phát khởi tâm từ bi, phải khéo vận dụng phương tiện thiện xảo để làm lợi ích cho chúng sanh, không bao giờ quên và bỏ họ. Ngài dạy rằng muốn làm lợi ích cho người sau, thì phải nói pháp nhiệm mầu của kinh Bát-nhã cho họ hiểu. Người chưa ngộ thì giúp cho họ tỏ ngộ, người chưa thành tựu công phu làm cho họ thành tựu công phu. Nhưng muốn thực hiện được điều nói trên, trước hết chúng ta phải tỏ ngộ, phải thành tựu công phu tu hành. Nếu chúng ta chưa tỏ ngộ chưa thành tựu công phu tu hành mà giúp cho người tỏ ngộ, thì e rằng không có kết quả. Ðó là điều tối quan trọng trong việc lợi tha. Nếu không hiểu chỗ này, nhiều khi chúng ta nhiệt tình quá, muốn làm cho người ngộ mà chính mình chưa ngộ, dù có làm thế mấy cũng không tới đâu.

Kinh nói: tài thí như ngọn đèn chỉ soi sáng một căn phòng, pháp thí như mặt trời sáng đầy khắp mười phương.Tự tánh nếu mê phước làm sao cứu. Ngài dẫn lời trong kinh nói người bố thí tiền của, giống như ngọn đèn sáng để ở trong căn phòng, tuy có ánh sáng nhưng chỉ sáng trong phạm vi nhỏ hẹp. Còn pháp thí tức là đem Phật pháp giảng dạy cho mọi người nghe, thì lợi ích rất nhiều, như ánh sáng mặt trời soi khắp mười phương. Ví dụ như chúng ta có một trăm ngàn đồng đem ra bố thí, thì chỉ giúp được một vài gia đình qua cơn thiếu thốn, vậy chỉ cứu được cái khổ tạm thời. Còn nếu chúng ta thâm nhập Phật pháp thì một buổi giảng, một hai ngàn người nghe, hiểu, ứng dụng tu lợi ích rất nhiều. Hơn nữa họ nghe Phật pháp họ tu, để hết khổ an vui lâu dài thì chúng ta sẽ cứu được cái khổ vĩnh viễn. Như vậy bố thí pháp Phật không có giới hạn nên ví như mặt trời soi sáng mười phương. Bố thí tiền củagiới hạn nên ví như ngọn đèn có ánh sáng soi trong một phạm vi nhỏ hẹp. Hiểu rõ như thế nên người tu hành phải thâm nhập chánh pháp, đem ra giảng dạy để cứu khổ vô minh cho chúng sanh, đó mới là việc quan trọng. Còn chúng ta làm ra tiền để giúp đỡ người nghèo, đó chỉ là việc thiện nhỏ thôi. Bởi vì sức người có chừng mực, tiền củagiới hạn, biết bao nhiêu tiền của mà chia cho đủ, chỉ có bố thí pháp là khắp cùng không giới hạn. Ngài nói nếu người mê không nhận ra tự tánh, tức tánh Phật của mình thì dù có làm việc phước thiện bao nhiêu đi nữa, cũng không cứu được họ. Cho nên muốn cứu mình thì trước hết phảinhận ra tự tánh. Ví dụ như có người còn rất nhiều tham sân si, phiền não đủ thứ, nhưng họ có nhiều tiền đem ra bố thí giúp đỡ người này người kia. Tuy làm việc bố thí là có phước, nhưng vẫn không cứu được cái mê của họ, vì họ chưa nhận ra tánh giác của chính mình. Cho nên người tu mà mê tự tánh là điều đáng sợ, chúng ta không nên xem thường. Có nhiều người nói tôi tu sơ sơ, hoặc tôi tu phước là đủ rồi, cho nên suốt đời lo giúp người này, cứu khổ người kia, mà quên cứu mình, chuyện giác ngộ đối với họ rất là xa xôi.

Thân người khó được, Phật pháp khó gặp, Thánh tăng khó thấy, chánh pháp khó nghe, tín tâm khó phát sanh, bạn lành khó hội ngộ. Ngài nói được sanh thân làm người là cái khó thứ nhất. Cho nên Phật tử đã được thân người, sáu căn đầy đủ, mà gặp chuyện buồn khổ đòi tự tử là không hiểu đạo, chẳng những mang tiếng ngu, mà còn bị người ta chê cười, Phật tử mà không xứng đáng là con Phật. Phật tử gặp chuyện buồn tự tử còn bị người đời chê ngu, không xứng đáng là đệ tử Phật, huống nữa là người xuất gia. Người xuất gia gặp chuyện buồn đòi tự tử có thể tha thứ được không ? Người xuất gia hiểu đạo, biết thân này khó được, nương thân giả tạm để tu hành như người nương bè qua sông, qua chưa tới bờ mà đòi phá bè là chuyện làm của kẻ ngu. Người tu mà đòi tự tử là ý phạm giới sát, mình tự sát mình đáng ăn đòn không biết bao nhiêu gậy. Chúng ta tu nếu chưa được an lạc thì phải khéo léo chuyển hóa nội tâm cho được an lạc. Hơn nữa được thân người rất khó mà tự tử là hủy hoại thân, người hủy hoại thân là người đáng chêtráchnhất. Cho nên ở trong chùa mà nói tự tử thật là khó nghe.

Cái khó thứ hai là Phật pháp khó gặp. Song có người nói muốn gặp Phật pháp, thì đến các nhà phát hành kinh sách thỉnh bao nhiêu cũng có, sao nói khó gặp ? Kinh Phật để lại rất nhiều, nói Phật pháp khó gặp là khó chỗ nào ? Chúng ta đừng hiểu rằng gặp Phật pháp là thấy được quyển kinh Phật, mà gặp ở đây là nghe Phật pháp nhận hiểu để ứng dụng tu, đó mới là khó. Hiểu Phật pháp là khó, còn xem kinh bằng mắt là chuyện dễ. Thế mà có người cầm quyển kinh Phật lên xem thì buồn ngủ, ngồi trong giảng đường nghe giảng thì ngủ gục, còn xem truyện, xem tiểu thuyết thì quên ăn bỏ ngủ, xem truyền hình suốt ngày, nhất là xem phim chưởng đấm đá với nhau, suốt ngày không biết chán. Như vậy với người không biết tu gặp kinh Phật xem bằng mắt cũng là chuyện khó, huống là nhận hiểu Phật pháp bằng tâm để ứng dụng tu lại càng khó hơn.

Cái khó thứ ba là Thánh tăng khó gặp. Ðiều này dĩ nhiên, nhất là ở thời kỳ mạtpháp, phàm Tăng thì dễ kiếm, chớ Thánh tăng thì rất khó gặp.

Cái khó thứ tư là chánh pháp khó nghe. Người đời thường nói "Thuốc đắng đã tật lời thật trái tai". Chánh pháppháp chân chánh đúng đắn nói lên lẽ thật của con người và sự vật. Ví dụ có người thấy chúng ta liền khen thầy là người có phước tướng, thông minh... nói như vậy rất là dễ nghe và cảm thấy vui trong lòng. Nếu họ nói thầy là cái túi da hôi thúi, là cái bô đựng đồ dơ được đậy kín và sơn vẽ bên ngoài. Nói như vậy là nói sự thật mà người nghe cảm thấy khó chịu không vui. Chánh pháp khó nghe là khó ở chỗ đó. Vì chánh pháp luôn nói lên sự thậtmọi người muốn che đậy.

Cái khó thứ năm là tín tâm khó phát sanh. Tại sao khó ? Giả sử tôi nói tụng kinh chừng bảy biến thì được phước nhiều, đó là điều dễ tin, nếu tôi nói quí vị hãy tin tâm mình là Phật, đó là điều khó tin. Bởi vì có nhiều người khi nghe nói tâm mình là Phật thì lắc đầu từ chối con không dám tin đâu, con không có phần chỉ mong cầu phước báo ở cõi nhơn thiên thôi. Tin tâm mình là Phật ít người dám tin cho nên nói lòng tin khó phát sanh.

Cái khó thứ sáu là bạn lành khó hội ngộ, tức là bạn lành khó gặp. Trước hết chúng ta phải phân biệt thế nào là bạn lành, thế nào là bạn dữ. Giả sử ở trong Thiền Viện, nếu có một sư huynh thấy một sư đệ đang ngồi Thiền bỏ đi xuống, hôm sau hỏi lý do sư đệ đáp rằng đau bụng. Vài ba lần như thế và lần nào cũng trả lờilý do. Sư huynh biết sư đệ này đang mang bệnh lười biếng cho nên rầy rà: đệ tu hành gì mà lười biếng quá, cưng chiều cái thân này lắm, phải nỗ lực vượt qua chớ ! Nghenhưthếsư đệ nọ hết muốn gần sư huynh. Nhưng nếu có một sư huynh khác nghe sư đệ nói đau bụng, thì lấy dầu xoa, nghe than buồn ngủ thì bảo đi ngủ, nghe nói đau chân thì bảo thôi đừng rán, coi chừng bệnh à... Một người rầy quở, một người săn sóc an ủi, chúng ta thử xét ai là bạn lành ? Nếu trong Thiền Viện năm chục chúng mà có ba chục vị thương sư đệ giống như vị sư huynh thứ hai thì sư đệ tu có tiến không ? Chắc chắn là không tiến. Như vậy người khó khăn rầy rà để thúc đẩy mình tiến lên đó là bạn lành. Người dễ dãi chìu chuộng theo cái sở thích của mình, làm cho mình tu không tiến đó là bạn chẳng lành. Tổ Qui Sơn có dạy "Gần gũi bạn lành như đi trong sương móc, tuy thấy chẳng ướt áo, nhưng lần lần thấm nhuận. Lân la đứa dữ ắt nhiễm lấy hung hăng gây ra nhiều tội lỗi, quả báo ngay trước mắt". Song theo thường tình thì bạn dữ dễ gần hơn bạn lành. Ðó là chuyện trong chùa. Sau đây là chuyện ngoài đời. Ví dụ có một Phật tử nam đi ngang qua quán rượu, có người bạn đang ngồi uống rượu trong quán kêu vô nài ép bảouống, Phật tử ấy từ chối, bị người bạn chê cười cho rằng đàn ông mà không có chí khí của kẻ nam nhi, giống như đàn bà. Giả sử lúc đó Phật tử kia nhận lời mời của người bạn uống rượu say sưa. Nhưng có người bạn thứ hai can rằng: Bạn là Phật tử đã thọ qui giới uống rượu là phạm giới cấm của Phật. Quí vị xét coi người ép uống rượu và người la rầy khuyên can không cho uống rượu, người nào là bạn lành ? Quí vị thích người nào hơn ? Dĩ nhiên là thích người ép uống, nhưng người đó đem đến điều không tốt cho mình. Như vậy bạn chẳng lành dễ gần hơn là bạn lành, cho nên nói bạn lành khó hội ngộ. Chúng ta là người học đạo phải biết rõ ai là bạn lành, để gần gũi được thấm nhuần những điều tốt, ai là bạn chẳng lành phải khéo dùng phương tiện để chuyển hóa họ, nếu không đủ đạo lực thì không nên gần nhiều, gần nhiều sẽ có hại cho việc tiến tu. Xét qua sáu điều khó được Ngài nêu ở trên, đa số chúng ta đều có đủ. Như vậy là quá tốt, nếu người nào chưa đủ thì hãy rán tạo nhân duyên cho đủ.

Phước duyên kim cải, mừng đã hợp nhau. Người ta thường nói cây kim hạt cải, hai cái đó gặp thì hút vào nhau, ý muốn nói mừng cho mình đã có phước duyên tốt, hội đủ những điều kiện tốt, những điều khó thực hiện được mà mình thực hiện được như: Phật pháp khó gặp mà mình gặp, chánh pháp khó nghe mà mình được nghe v.v...

May thay như rùa mù gặp bô�ng cây.Chúng ta bỏ sự nghiệp đi xuất gia nên cầu việc gì ?Chớ tham đắm danh lợi, phải chọn bạn tìm thầy, vì pháp quên mình lội nước trèo non kính lễ thưa hỏi. thưa hỏi chỗ thâm áo của Phật pháp, có như thế mới không uổng một đời tu. Nếu đi tu vì mục đích an nhàn, sung sướng cho bản thân thì chưa phải là người thật tâm xuất gia cầu đạo giải thoát. Câu chuyện rùa mù gặp bộng cây, trong kinh A-hàm đức Phật có kể: Có một cái bộng cây trôi giạt ngoài biển cả, sóng gió đưa đẩy nay ở bên Ðông, mai qua bên Tây. Có con rùa mùdưới đáy biển, một trăm năm nó trồi đầu lên một lần, nó muốn tìm bộng cây để chui vào. Vậy rùa mù tìm được bộng cây dễ hay khó ? Rất khó. Ý đức Phật nói con người sau khi mất thân này, muốn được thân trở lại khó như rùa mù tìm gặp bộng cây vậy. Ngày nay chúng ta được thân này thật là có nhiều phúc duyên, nếu không chịu nỗ lực tu hành theo lời Phật dạy, khi mất thân này rồi sẽ ra sao ? Chúng ta bỏ nhà, bỏ cha mẹ thân bằng quyến thuộc vào chùa tu, mục đích cầu cái gì? Phải xét kỹ, cầu no ấm sung sướng, hay cầu giác ngộ, giải thoát khổ sanh tử cho chính mình và chúng sanh ? Ðây là câu hỏi mỗi người phải tự trả lời. Ngài răn những lời hết sức thực tế và tha thiết vô cùng. Chúng ta đi tu đừng tham đắm danh lợidanh lợi làm chướng ngại sự tu hành. Ði tu thì phải cầu thầy sáng, để hướng dẫn mình tu đúng chánh pháp Phật dạy. Chọn bạn lành để trợ những duyên tốt cho đường tu được tiến bộ hanh thông. Phải vì Phật pháp quên thân mạng, phải vượt suốibăng rừng để tìm những bậc đạo cao đức trọng mà

Hỏi: Thế gian không việc khó, thế gian có hai việc khó. Thế nào là hai việc khó ?

Dạy rằng : Sanh từ đâu đến ? Chết rồi đi đâu ? Ðây là hai việc thật rất khó. Song này các người, do hai việc này mà bỏ sự nghiệp đi xuất gia, lội suối trèo non, tham tìm minh sư, bạn tốt, cúi đầu lễ bái thưa hỏi: Kính mong Ðại đức từ bi, mở rộng phương tiện chỉ bày cho sáng tỏ lý này, sớm được ngộ đạo.

Hỏi: Trước khi trời đất và cha mẹ chưa sanh, cái thân người này sanh từ đâu đến ?

Ðáp: Vốn từ vô vi đến.

Lại hỏi: Người sanh ra ở đời, đến khi số hết, chết đi về đâu ?

Ðáp: Lại từ vô vi đi.

Hỏi: Thế gian không việc khó, thế gian có hai việc khó. Thế nào là hai việc khó ?sanh từ đâu đến ? Chết rồi đi đâu ?Song này các người do hai việc này mà bỏ sự nghiệp đi xuất gia, lội suối trèo non, tham tìm minh sư, bạn tốt, cuối đầu lễ bái thưa hỏi: Kính mong Ðại đức từ bi, mở rộng phương tiện cho sáng tỏ lý này, sớm được ngộ đạo. Câu hỏi này nghe hơi khó hiểu. Thế gian không việc khó, lại nói thế gian có hai việc khó, nếu không việc khóthì làm gì có hai việc khó ? Ý Ngài muốn nói rằng trên thế gian không có việc gì khó, nhưng xét kỹ có hai việc khó, đó là Ðây là hai việc rất khó, vì hai điều này là hai điều thắc mắc lớn lao của con người. Tất cả chúng ta đều thắc mắc mình từ đâu đến đây và sau khi chết mình sẽ về đâu ? Ðó là hai câu hỏi mà tất cả chúng ta không ai giải đáp được. Chính hai điều này khi xưa đức Phật Thích Ca lúc còn là Thái tử, Ngài cũng thắc mắc như chúng ta. Và, Ngài quyết phăng tìm cho ra manh mối, bằng cách từ bỏ hoàng cung vượt thành đi tu. Ngày nay chúng ta là người tu theo đức Phật cũng phải quyết tâm tìm cho ra manh mối. Muốn thực hiện điều đó Ngài dạy: Muốn giải quyết hai mối nghi trên, người học đạo phải lội suối trèo non, tìm thầy sáng bạn lành cầu chỉ dạy cho mình tu, khi ngộ đạo thì giải quyết được hai mối nghi trên. Khi xưa Thái tử Sĩ-đạt-ta ngồi tu dưới cội Bồ-đề trong suốt bốn mươi chín ngày đêm. Ðêm cuối cùng khoảng canh hai Ngài chứng được túc mạng minh, biết được đời sống vô số kiếp về trước nên giải quyết được câu hỏi "ta từ đâu đến đây". Khoảng canh ba Ngài chứng được thiên nhãn minh, thấy rõ con người sau khi chết theo nghiệp dẫn đi luân hồi trong lục đạo, kẻ đi lên, người đi xuống v.v... Như vậy muốn giải đáp câu hỏi thứ nhất người tu phải chứng túc mạng minh, giải đáp câu hỏi thứ hai phải chứng thiên nhãn minh. Ngày nay chúng ta tu còn mờ mịt thật là khó giải quyết được hai mối nghi "sanh từđâu đến, chết đi về đâu".

Hỏi: Trước khi trời đất và cha mẹ chưa sanh, cái thân người này sanh từ đâu đến ?

Ðáp: Vốn từ vô vi đến.

Lại hỏi: Người sanh ra ở đời, đến khi số hết chết đi về đâu ? 

Ðáp: Lại từ vô vi đi.

Ðến từ vô vi đến, đi cũng từ vô vi đi. Nhưng vô vi là cái gì ? "Vô vi" là từ ngữ của đạo Lão, khi Phật giáo du nhập vào Trung Quốc, nói đến lý bất sanh bất diệt, các Ngài mượn từ vô vi của đạo Lão để dùng. Nhà Phật dùng từ vô vi, là đối lại từ chữ hữu vi. Phàm tất cả sự vật có hình tướngthế gian có sanh có diệt là hữu vi, pháp không sanh diệt gọi là vô vi. Hỏi rằng: khi cha mẹ chưa sanh ta từ đâu đến ? Ðáp: từ vô vi đến tức là từ chỗ bất sanh bất diệt đến. Hỏi sau khi chết rồi đi về đâu ? Ðáp rằng: trở về chỗ bất sanh bất diệt. Câu đáp này hơi gượng một chút, không sát nghĩa lắm. Sauđây tôi giải thích kỹ hơn về câu đáp sanh từ vô vi đến. Kinh Lăng Nghiêm nói: Chân như không giữ tự tánh hốt nhiên một niệm vô minh dấy khởi, tất cả tướng sanh diệt dấy khởi theo nên đi vào sanh tử. Từ chân mà khởi vọng niệm đi vào sanh tử nghe khó hiểu quá. Song tôi ví dụ cho dễ hiểu: Hiện giờ chúng ta đang mở mắt tỉnh táo, nhưng một lúc sau nghe mỏi mệt, gió mát thổi qua chúng ta thiu thiu ngủ gục. Vậy thử hỏi ngủ gục đó từ đâu đến ? Có phải từ cái tỉnh táo hồi nãy đến không ? Nếu không có cái tỉnh làm gì có cái mê, cái mê ngủ gục từ cái tỉnh. Nếu ai đánh thức chúng ta tỉnh lại thì không còn mê nữa. Như vậy cái mê nó đến lúc nào chúng ta không dự biết trước được, có ai biết mình sửa soạn buồn ngủ không ? Chỉ quên cái tỉnh là bị cái mê xâm chiếm, mê xâm chiếm thì ngủ say mộng mị đủ thứ. Cũng vậy, nếu chúng ta quên tự tánh chân như thì sẽ dấy sanh vọng niệm, vì vọng niệm dấy khởi nên sanh ra đủ thứ khổ đau. Cho nên hỏi sanh từ đâu đến ? Ðáp từ vô vi, tức là quên cái không sanh diệt nên dấy niệm sanh diệt rồi đi vào trong sanh tử, chịu sanh tử khổ đau. Khi chết trở về vô vi tức là trở về chỗ không sanh diệt. Nghe như thế có người hiểu lầm cho rằng không tu chết cũng trở về chỗ không sanh diệt. Hiểu như thế là sai lầm, chúng ta phải tu dứt hết mầm sanh diệt mới được trở về chỗ không sanh diệt, nếu không tu thì vẫn tiếp tục đi trong sanh tử.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14433)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14155)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39722)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15321)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13885)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13933)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37346)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40073)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14644)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14315)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12660)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14845)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19226)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13798)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42633)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13844)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37270)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12690)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11775)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22552)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12515)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12576)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13068)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13116)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17269)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33266)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14840)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11048)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12465)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11967)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11938)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13143)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51274)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12391)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6619)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30427)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13131)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13336)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30695)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19377)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12481)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11853)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14768)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13203)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13204)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30704)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12044)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11837)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12730)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31914)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29423)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11790)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11754)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10437)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11566)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9645)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9670)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 10004)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35416)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10160)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10101)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10054)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9667)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27819)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15506)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9864)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13689)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9851)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9702)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18336)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12046)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9579)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9699)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8723)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8919)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8422)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11484)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31756)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12340)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13326)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8835)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9450)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11949)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9234)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9078)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9673)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29376)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9081)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9109)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33273)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8435)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30631)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31252)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37140)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32279)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9937)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27115)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8455)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19249)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 13019)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant