Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhứt thiết Phật nhiếp tương ưng Đại giáo vương kinh, Thánh Quán Tự Tại Bồ-tát niệm tụng nghi quỹ

19 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 30899)
Nhứt thiết Phật nhiếp tương ưng Đại giáo vương kinh, Thánh Quán Tự Tại Bồ-tát niệm tụng nghi quỹ

NHỨT THIẾT PHẬT NHIẾP TƯƠNG ƯNG
Đại giáo vương kinh
Thánh Quán Tự Tại Bồ-tát niệm tụng nghi quỹ

Hán dịch: Đại sư Pháp Hiền
Việt dịch: Sa-môn Thích Viên Đức

Con nay quy mạng Phật, Bồ-tát
Diễn bày Tương Ưng Đại Giáo Vương
Lược thuật Quán Âm Bồ-tát nghi 
Nay làm công việc lợi quần sanh

 

Lúc bấy giờ đức Thế tôn vì muốn lợi ích các chúng sanh, diễn nói Đại Giáo Tương Ưng của chư Phật.

Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập. Nếu tu pháp này, trước cầu tịnh xứ, y nơi nghi quỹ chuyên tâm không giãi đãi, tu hành trước hết phải cho được tinh thục, nhiên hậu y pháp quán tưởng và tụng chữ “Hùm”. Chọn đất kiết giới làm pháp khiển ma xong, nơi ấy mới trải tòa cỏ mà ngồi. Lúc này người trì tụng phải đem hết sức vận tưởng, quán tưởng hiền thánh. Trước cần tịnh tam nghiệp, tức tụng Tịnh tam nghiệp chơn ngôn:

Úm Ca dã phạ cô tức đa Phạ nhật ra ta bà phạ đát ra cô ham.

Tụng chơn ngôn này rồi, lại nói thí dụ già-đà rằng:

Thí như sắc sen thơm trong sạch

Tuy sanh trong bùn không thể nhiễm

Như vậy chúng sanhphiền não

Thảy được trong sạch nơi tam giới.

Tụng già-đà rồi, tự mình tưởng nơi trên đảnh đội mão báu, trong đó có Phật Vô Lượng Thọ. Lại nữa, ở trong bổn tâm, tưởng ra một hoa sen trắng nở tròn, trên hoa sen kia có vành nguyệt luân, nơi trong nguyệt luân hiện ra chữ “Úm”, thể như hư không, chỉ cho Chơn thật đại trí, nhiên hậu tụng Khai huệ chơn ngôn:

Úm Tức đa Bát ra đê vi đặng Ca rô mi.

Tụng chơn ngôn này rồi, lại tưởng chúng bảo hóa thành hoa sen tám cánh, trên hoa sen quán tưởng vành nguyệt luân, trong nguyệt luân hiện ra chữ “Hột-lăng”, tức là bổn thân của Quán Tự Tại Bồ-tát ngồi kiết già phu. Thân ngài sắc đỏ, có hai tay. Bên tả của Bồ-tát, tưởng Bạch Y Bồ-tát tay cầm hoa sen. Lại tưởng tám phương hiền thánh: thứ nhất nơi cánh sen phía Đông, tưởng Vĩ-lộ-kiết-nễ Bồ-tát tay cầm hoa sen màu hồng. Bồ-tát chân ngôn rằng:

Úm Vĩ lô kiết nễ A phạ lô ca giả Ta phạ ha.

Nơi cánh sen phía Nam, tưởng Đa-la Bồ-tát, tay cầm hoa sen màu lục. Bồ-tát chân ngôn rằng:

Úm Đa rị Đốt đa rị Đốt rị Ta phạ ha.

Lại tưởng cánh sen phía Tây có Bộ-lị-ni Bồ-tát, tay cầm hoa Ưu-bát-la, trong hoa có tám vòng bức luân. Bồ-tát chân ngôn rằng:

Úm Bộ lị ni Ma hạ tát hật ra phạ lị để nể hồng.

Nơi cánh sen phía Bắc, tưởng hiện ra Tần-mi Bồ-tát, tay cầm hoa sen màu vàng. Bồ-tát chân ngôn rằng:

Úm Giáo lị cô trí đát trí mạt tra hùm.

Lại nơi cánh sen phía Đông-Bắc, tưởng hiện ra Bát-nạp-ma-phạ-tì-nể Bồ-tát, tay cầm hoa sen màu xanh lợt. Bồ-tát chân ngôn:

Úm Ma hạ Thất lị duệ Mani Bát nạp mi Hồng.

Lại nữa, nơi cánh sen phía Đông-Nam, tưởng hiện ra Phạ-nhật-ra Bát-nạp-ma-thuyết-lị Bồ-tát, tay cầm hoa sen trắng. Bồ-tát chân ngôn rằng:

Úm Phạ nhật ra Bát nạp mi Thấp phạ lị Đà ra Bát nạp mi Hồng.

Lại nữa, ở nơi cánh sen phía Tây-Nam, lại tưởng Vĩ-thuyết-Bát-nạp-ma Bồ-tát, tay cầm hoa sen đen. Bồ-tát chân ngôn rằng:

Úm Vĩ thấp phạ Bát nạp mi Hật lị.

Lại nữa ở cánh hoa sen phía Tây-Bắc, tưởng hiện ra Vĩ-thuyết-Phạ-nhựt-ra Bồ-tát, tay cầm chày yết-ma. Bồ-tát chân ngôn rằng:

Úm Vĩ thấp phạ Phạ nhựt lị Hồng.

Lại nữa, nơi giữa trung tâm của hoa sen, tưởng ngài Quán Tự Tại đại Bồ-tát, hiện đại diệu sắc thân. Chơn ngôn rằng:

Úm Hột lăng Bát nạp ma Na lị đế Thấp phạ ra Hồng.

Nếu người trì tụng bảy pháp quán tưởng các đại Bồ-tát và vi diệu chơn ngôn như vậy, và tụng chơn ngôn chuyên chú không thối chuyển, đấy là người đương lai mau chứng quả Phật. Mặc dù người ấy còn thọ ngũ dục lạc cũng có thể viên mãn thập Ba-la-mật và Tổng trì môn, cho đến Bích-chi Phật quả, Thập địa Bồ-tát và Phật, mau được thành tựu, chớ sanh nghi hoặc.

Lại nữa, người trì tụng cũng cần thường phục năm món Đại thừa dược, nghĩa là: Mạo địa tức đa yết lị bố ra ra hật đa tán nại na phạ nhật ra ô na ca… Nếu hay thường phục những thuốc như vậy và trì tụng không trễ nãi, sẽ chóng xa lìa già, bịnh, khổ, tăng trưởng thọ mạng, biến đổi sắc tướng, người thấy kính mến, hiện đời hoạch đắc thành tối thượng trí.

Lại nữa, đã có tức tai, tăng ích, kính ái, hàng phục, cho đến câu triệu, trừ diệt các ma, phát khiển oán ác, cấm pháp, đả ác pháp, cho đến phi không tự tại và các tam-ma-địa, nếu tu Quán Tự Tại pháp thì thảy đều thành tựu.

Quán Tự Tại Bồ-tát căn bản chơn ngôn rằng:

Úm Hột lăng Bát nạp ma Na lị đế Thấp phạ ra Hồng.

Lại nữa, nếu người trì tụng thường niệm Quán Tự Tại Bồ-tát căn bản chơn ngôn này, ngày đêm tụng 108 biến, những tội mà người ấy đã tạo ra thảy đều được tiêu diệt.

Tụng 500 biến hay trừ tất cả bịnh.

Nếu mỗi ngày tụng 1000 biến được thọ mạngtăng trưởng.

Nếu tụng 2000 biến được mọi người cung kính.

Nếu tụng 3000 biến, mọi người kính mến, tăng trưởng giàu có.

Nếu tụng 4000 biến xa lìa bần khổ.

Tụng 5000 biến hay khiến các oan gia thân tâm mờ mịt.

Tụng 6000 biến hay hàng các oan gia.

Tụng 7000 biến hay hàng Tứ ma.

Tụng 8000 biến hay hàng chư ThiênThiên nữ.

Tụng 9000 biến hay hàng Dạ-xoa, Dạ-xoa nữ.

Tụng một vạn biến hay hàng thiên long và nhơn.

Tụng hai vạn biến hiền thánh làm cho thành tựu các pháp ẩn thân.

Tụng ba vạn biến hay mãn tất cả nguyện.

Tụng bốn vạn biến sẽ được đằng không tự tại.

Tụng năm vạn biến sẽ được thánh kiếm thành tựu.

Tụng sáu vạn biến sẽ được Trì Minh Thiên.

Tụng bảy vạn biến được làm chúa trong thế gian.

Tụng tám vạn biến được địa vị Thiết Luân Vương.

Tụng chín vạn biến sẽ được địa vị Kim Luân Vương.

Tụng một lạc-xoa số sẽ được địa vị Bồ-tát.

Nếu tụng 10 lạc-xoa sẽ được tự tại, mãn thập địa vị.

Tụng 50 lạc-xoa số, chứng Phật vị.

Tụng một câu-chi số sẽ được cụ túc Cực Lạc thế giới Vô Lượng Thọ Phật thân khẩu ý, lợi lạc chúng sanh.

Lúc bấy giờ đức Thế tôn lại nói Bạch Y Bồ-tát chơn ngôn:

Úm Bán nõa ra Phạ tỉ nể Pha ra nễ Hồng.

Nếu người thường hay trì tụng Bạch Y Bồ-tát vi diệu chơn ngôn, tất cả tội nghiệp đã phạm thảy đều được tiêu diệt. Nếu hay y pháp chuyên chú trì tụng mãn bảy ngày, hết thảy nhân dân trong quốc thành đều phụng trọng hành giả. Tụng một tháng, thu hoạch đại giàu có. Trì tụng như vậy cho đến một lạc-xoa số, sẽ được cùng Bồ-tát oai lực không khác.

Lại nữa (đức Thế tôn) nói Vĩ-lộ-kiết-nễ Bồ-tát chơn ngôn rằng:

Úm Vĩ lộ kiết nễ A phạ lộ ca giả Ta phạ ha.

Nếu người y pháp, trì tụng vi diệu chân ngôn của Bồ-tát này một vạn biến sẽ được thành tựu thánh kiếm. Nếu trì tụng có sở cầu việc gì, nên lấy cây tăm chùi răng gia trì 21 biền chùi răng mà nằm cầu việc gì, trong mộng đều ứng nói. Phàm việc đã nói ra, thảy đều chân thật.

Lại nữa (đức Thế tôn) nói Đa-la Bồ-tát chơn ngôn rằng:

Úm Đa lị Đốt đa lị Đốt lị Ta phạ ha.

Nếu người y pháp trì tụng vi diệu chân ngôn Bồ-tát này một lạc-xoa số, thì có thể hàng phục tam giới. Các thiên, long, A-tu-la, Trì Minh Thiên và những kẻ nữ kia đến làm kẻ tôi bộc, tùy tâm mình sai khiến. Người trì tụng nếu muốn làm pháp câu triệu thiên long và những vị nữ ấy đến, nên tưởng thân các vị ấy sắc đỏ, giữa tâm có kim cang câu, hào quang rực rỡ, câu nơi tâm của vị ấy. Lại tưởng quyến tác buộc nơi cổ chân làm tướng sợ hãi. Phàm chế câu triệu ấy tùy lúc trì tụng quyết định mau đến, có sở cầu việc gì, thảy đều tùy tâm.

Lại nữa (đức Thế tôn) nói Bộ-lị-ni Bồ-tát chơn ngôn:

Úm Bộ lị ni Ma ha tát hật ra phạ lị để nể hồng.

Nếu người trì tụng vi diệu chân ngôn Bồ-tát, muốn cầu thành tựu, trước nên dùng những thuốc Vĩ nạ phạ phạ nhật rô na ca thoa nơi đạo tràng, tưởng như mặt trăng tròn, nhiên hậu tùy sức trang bị hương hoa cúng dường ở trong đàn. Người trì tụng nhiên hậu kiết già phu tọa, nhất tâm chuyên chú trì tụng không biếng trễ, có việc sở cầu gì quyết được thành tựu, sau khi mạng chung được sanh Cực Lạc thế giới.

Lại nữa (đức Thế tôn) nói Tần-mi Bồ-tát chơn ngôn rằng:

Úm Giáo lị cô trí đát trí mạt tra hồng.

Nếu người trì tụng vi diệu chân ngôn Bồ-tát này muốn làm phép điều phục, phải lấy đất dưới chân của kẻ oan gia và đất hai bên bờ sông, lại dùng thuốc độc, giới tử, muối, máu và cốc-vĩ-nã-phạ, phạ-nhật-rô-na-ca… đồng hòa làm bùn dẻo nắn hình tượng kẻ oan gia, dùng xương người làm đinh nọc, đóng nơi thân phần chi tiết của tượng oan gia đặt trong cái đầu lâu, dụng độc lâu ấy đem nơi thi đà lâm, dùng lửa thiêu tử thi thiêu cháy ra tro. Tụng chơn ngôn gia trì trải qua 21 ngày đêm quyết định điều phục.

Lại nói Bát-nạp-ma-phạ-tì-nể Bồ-tát chơn ngôn rằng:

Úm Ma hạ Thất lị duệ Mani Bát nạp mi Hồng.

Nếu trì tụng vi diệu chân ngôn Bồ-tát này, trước phải lấy năm món hương hoacúng dường, rồi mới có thể trì tụng. Có thể làm tất cả việc ủng hộ.Nơi luận nghị, quyết định đắc thắng, được đại tự tại cũng như đức Quán Tự Tại Bồ-tát. Nếu lấy một vạn cái hoa sen làm pháp hộ-ma, được làm địa chủ. Nếu dùng hoa sen 10 vạn để làm phép hộ-ma, được làm Chuyển Luân Vương vị.

Đức Thế tôn lại nói Phạ-nhật-ra Bát-nạp-ma-thuyết-lị Bồ-tát chơn ngôn:

Úm Phạ nhật ra Bát nạp mi Thuyết lị Phạ ra Bát nạp mi Hồng.

Nếu người trì tụng,lúc khởi tâm niệm vi diệu chơn ngôn của Bồ-tát này, liền hay câu triệu, hàng phục. Nếu tụng bảy biến hay ủng hộ tự thân. Nếu tụng 1000 biến hay trừ độc dược, đao kiếm, sư tử, rắn, lửa, giặc, cấm phược, các nạn hải quỷ…, và trừ những bịnh sai-kha-lị-cô, na-ca-nạp, nhai-lị-mi, đa-nạp-lị-lãng, nghĩ-da các bịnh… và toái trừ tất cả ác độc chúng sanh. Nếu tụng 10 vạn biến, tăng trưởng thọ mạng, già trở lại thành trẻ, thân tướng viên mãn, Chúng nhân ái kính. Nếu gặp cảnh hạn hán, thì phải lựa chỗ đất họa vẽ một ao rồng. Liền nơi trước ao, tâm niệm tên con rồng, đoạn lấy hạt cải trắng và muối làm phép hộ-ma, liền giáng một trận mưa lớn.

Đức Thế tôn lại nói Vĩ-thuyết-Bát-nạp-ma Bồ-tát chơn ngôn:

Úm Vĩ thấp phạ Bát nạp mi Hật lị.

Nếu người chuyên chú trì tụng vi diệu chơn ngôn Bồ-tát này, sẽ được cụ túc thân khẩu ý nghiệp, có công năng thành tựu các việc, nghĩa là cấm phục pháp, vọng lượng pháp, quỷ mị pháp, đinh quyết pháp, câu tha tâm pháp, huyển hóa pháp, cho đến khai mở hang A-tu-la và ẩn thân phi không tự tại, thảy đều thành tựu.

 Lại nữa (đức Thế tôn) nói Vĩ-thuyết-Phạ-nhựt-ra Bồ-tát chơn ngôn:

Úm Vĩ thuyết phạ Phạ nhựt lị Hồng.

Nếu người trì tụng chuyên chú vi diệu chơn ngôn Bồ-tát này, không biếng nhác y pháp trì tụng, thường hay ủng hộ tự tha và được tất cả kính ái, cho đến thu hoạch đại biện tài, hay thắng tha biện. Vị Bồ-tát này hay ở nơi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cứu độ chúng sanh phát đại tinh tấn như Quán Tự Tại Bồ-tát. Nếu có người tin trọng Phật pháp thì Bồ-tát như người mẹ hiềnthường theo ủng hộ.

Phật dạy: “Nếu có người đối với Nhứt thiết Như Lai Nhiếp Tương ưng Đại giáo vương kinh, Thánh Quán Tự Tại Bồ-tát niệm tụng nghi quỹ này tâm không còn nghi hoặc, kiên cố tu hành, sẽ được thành tựu pháp rốt ráo. Lại nữa, nếu có người không vào mạn-đà-la, cho đến bị đủ phiền não, gồm cả bạc phước…, nếu người ấy tùy ý ưa muốn, đi đứng nằm ngồi, hoặc nói hoặc cười không hở các việc, thường phát Bồ-đề tâm, tưởng chơn thật lý, thường nên trì tụng, thì phép đã làm đều được thành tựu.

Lại nữa, người trì tụng phát Bồ-đề tâm, phục năm món thánh dược, nghĩa là Ma hạ ra mật dương yết lị bố rô ra mật đa tán nại na…, y Quán Tự Tại Bồ-tát nghi quỹ trì tụng và cúng dường hiền thánh, người ấy tuy không làm Phật tượng cũng có thể thu hoạch được tối thượng tương ưng hoặc Kim Cang Tát-đỏa Bồ-tát vị, mau chứng Bồ-đề.

Như vậy thành tựu phải có tướng gì? Pháp Bồ-đề phần, Ba-la-mật tổng trì, Thập địa môn… tự nhiên thành tựu. Nếu người có thể hay y nơi Nhứt thiết Phật Tương ưng pháp trì tụng, tức cùng tất cả Phật không khác.

Lại nữa, nếu người trì tụng tâm chưa vắng lặng, không thấu rõ pháp tương ưng, ta nay vì người kia nói phương pháp họa tượng. Nếu người trì tụng muốn họa dung nhan bức tượng, trước phải tìm một thợ vẽ rất khéo đẹp, thân tâm thanh khiết, dự tu trai giới. Dùng lụa thượng hảo, mềm mỏng, hai đầu thật bằng, dài hai thước. Đoạn dùng những thứ màu sắc tuyệt đẹp, nơi trên tấm lụa vẽ một vành trăng tròn. Trong vành trăng lại vẽ hoa sen tám cánh nhiều sắc, giữa trung tâm hoa sen vẽ ngài Quán Tự Tại Bồ-tát thân sắc đỏ, ba mặt sáu tay, đầu đội mão báu, trong mão có đức A-sơ Phật, mặt phía hữu sắc đen hiện tướng phẫn nộ, mặt tả sắc trắng, sáu tay y theo pháp nắm cầm hoa sen.

Nơi cánh hoa phương Đông vẽ Vĩ-lộ-kiết-nễ Bồ-tát thân sắc trắng, tay tả cầm hoa sen đỏ, tay hữu cầm chày kim cang.

Vị ở cánh sen phía Nam: vẽ Đa-la Bồ-tát thân sắc lục, tay tả cầm hoa sen màu lục, tay hữu cầm bảo trì.

Vị ở cánh sen phía Tây: vẽ Bộ-lị-ni Bồ-tát thân sắc màu vàng ròng, tay cầm hoa sen Ưu-bát-la, trong có Pháp luân.

Vị ở cánh sen phía Bắc: vẽ ngài Tần-mi Bồ-tát thân màu hồng bạch, tay cầm hoa sen màu vàng và cầm cây gươm bén.

Vị ở cánh sen phía Đông-Bắc: vẽ ngài Bát-nạp-ma-tỉ-nể Bồ-tát thân sắc vàng kim, tay cầm hoa sen màu xanh dương.

Vị ở cánh sen phía Đông-Nam: vẽ Phạ-nhựt-ra-bát-nạp-mi-thuyết-lị Bồ-tát thân sắc như hư không, tay cầm hoa sen trắng và xâu chuỗi ngọc pha lê.

Vị ở cánh sen phía Tây-Nam: vẽ Vĩ-thuyết-bát-nạp-ma Bồ-tát, thân ngài như ánh trăng thu, tay cầm hoa sen màu đen và cầm Kinh Pháp.

Vị ở cánh sen phía Tây-Bắc: vẽ ngài Vĩ-thuyết-Phạ-nhựt-ra Bồ-tát thân ngài có đủ các sắc, tay cầm hoa sen.

Lại ở bên ngoài cánh sen, bốn phía vẽ Tứ thân cận Bồ-tát Múa, Cười, Tràng hoa, Ca. Thứ lại nơi bốn cửa, tưởng Nịch ( ), Hồng ( ), Vãm ( ), Hô ( ), bốn chữ vi diệu biến thành bốn vị Bồ-tát móc câu, dây quyến sách, xích, chuông, bốn vị hộ nơi bốn cửa.

Lại nữa, nói về tượng pháp. Như trước đã nói, nên tuyển lựa vị họa sư rất tinh xảo. Lấy lụa trắng tốt như trên mà họa tượng Quán Tự Tại Bồ-tát thân sắc như ánh trăng thu, đầy đủ tướng tốt, đầu đội mão báu, trong mão có đức Vô Lượng Thọ Phật, thân có tám tay. Tay mặt thứ nhất cầm xâu chuỗi, tay thứ hai cầm cây gậy báu, tay thứ ba cầm chỉa ba, tay thứ tư bắt Thí nguyện ấn. Tay thứ nhất bên tả cầm hoa sen, tay thứ hai cầm bình Quân-trì, tay thứ ba cầm dây quyến sách, tay thứ tư cầm quyển Kinh Bát-nhã. Bồ-tát mặc áo da cọp, với dây nịt hình con rồng, hoặc đứng hoặc ngồi kiêt-già phu trên hoa sen. Phía hữu Bồ-tát, vẽ người trì tụng tay cầm bát Ứ-già và lư hương, hình tướng tác lễ cung kính.

Lại nữa nói họa tượng pháp. Như Bổ-đà-lạc-ca sơn tướng nghi, vẽ Quán Tự Tại Bồ-tát thân sắc trắng, đầy đủ tướng viên mãn, mặc y trắng trang nghiêm. Tay hữu cầm xâu chuỗi, tay tả chống má tác tướng suy nghĩ lợi ích tất cả chúng sanh, ngồi trên tòa sư tử liên hoa, chân tả thòng xuống để nơi hoa sen, chân hữu để trên tòa liên hoa.

Lại nói họa tượng pháp nữa. Như trước đã trình bày, trên lụa tốt vẽ Quán Tự Tại Bồ-tát thân màu hồng bạch có 10 tay. Tay thứ nhất bên hữu cầm tràng chuỗi, còn bốn tay kia làm tướng Thí vô úy cứu chúng sanh khổ nạn. Tay thứ nhất bên tả cầm hai nhánh sen đỏ, trên có Kinh Bát-nhã, còn bốn tay kia cũng làm tướng Thí vô úy cứu chúng sanh khổ nạn. Bồ-tát ngồi trên sư tử liên hoa tòa, thòng chân tả xuống, gác trên hoa sen. Nơi mặt phía hữu của Bồ-tát vẽ sư tử, voi, hỏa xà. Bên mặt tả vẽ tặc cấm phược hải quỷ. Chúng sanh gặp tám nạn như vậy, làm tướng Bồ-tát cứu độ.

Lại nói họa tượng pháp như trước nữa. Dùng lụa tốt vẽ Quán Tự Tại Bồ-tát trong nguyệt luân, hiện các sắc, có 13 đầu đều đội mão báu, trong có đức Vô Lượng Thọ Phật. Mặt chính viên mãn, mặt thứ 13 màu xanh lục hiện tướng mã đầu, có 100 tay, tay cầm các loại khí trượng Yết-ma. Hoặc họa 100 đầu 1000 tay, tay cũng lại cầm các thứ khí trượng Yết-ma.

Bên hữu các họa tượng đã nói, đều vẽ người trì tụng làm tướng hồ quỳ cung kính, tay cầm bát Ứ-già và lư hương.

Trong các dung nhan ảnh tượng như đã nói trên, người trì tụng tùy tâm họa lấy một tướng, mỗi mỗi đều cần phải phát tâm tối thượng thù thắng. Họa được dung nhan rồi, liền bày biện các món thù diệu, hương hoa, ẩm thực, các thứ cúng dường. Nơi trước tôn tượng nên thỉnh vị a-xà-lê y pháp làm lễ khánh tán xong rồi, người trì tụng nhiên hậu tự mình phải tinh khiết thanh tịnh, nơi trước tượng, an tọa định tâm, tụng Quán Tự Tại Bồ-tát Vi diệu căn bản chân ngôn. Nếu xa lìa được các nghi hoặc, chuyên chú không thôi nghỉ, tất cả việc làm quyết định thành tựu.

Lại nữa, vị a-xà-lê làm lễ khánh tán và truyền giao Căn bổn Vi diệu chân ngôn này rồi, người trì tụng kia làm đệ tử lễ bái cung kính, nên đem tất cả các món trân bảo, vàng bạc, tài vật cho đến quốc thành, và cả thân mạng đều có thể phụng thượng vị a-xà-lê để làm lễ đáp tạ. Vì sao thế? Vì Pháp như trên rất là khó được gặp gỡ, huống chi lại được truyền thọ. Vậy cho nên hết sức thành tâm cầu vị a-xà-lê, nguyện thí hoan hỉ.

Lại nữa Pháp này không được truyền cho những kẻ dung dị, vì kẻ ấy tâm không cung kính chí thành, sở chiêu ác báo.

 

PHẬT NÓI NHẤT THIẾT PHẬT NHIẾP TƯƠNG ƯNG ĐẠI GIÁO VƯƠNG KINH,
THÁNH QUÁN TỰ TẠI BỒ-TÁT NIỆM TỤNG NGHI QUỸ

Sa-môn Thích Viên Đức dịch ra Việt văn năm 1975, bản thô, chưa chỉnh sửa.
Nhập liệu: Chúc Huy Nguyễn Minh Hoàng

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31795)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10567)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11289)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12816)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10865)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16769)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10861)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 23034)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12118)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11546)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10746)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12394)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11242)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10071)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10363)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11967)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10747)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12412)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9863)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11316)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13876)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9619)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12680)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9730)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10496)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10616)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10370)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9950)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11096)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12042)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10185)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10818)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9586)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9942)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8837)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9534)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14575)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8817)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12612)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10470)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9129)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10612)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9371)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8830)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10566)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9248)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8394)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12084)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9746)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10252)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10267)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19217)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9456)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 9028)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9611)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9034)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14811)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10127)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8404)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8984)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 9023)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8773)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9409)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14657)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9064)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8818)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9073)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10579)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8675)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 10039)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24375)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10220)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11082)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9052)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9517)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8035)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9317)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15418)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10380)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9609)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17496)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21517)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12207)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10267)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19336)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26124)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 8009)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14875)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10676)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11396)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9560)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18767)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12414)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11940)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10799)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13385)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10044)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9300)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9425)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15952)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant