Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bài 12 - Trung hữu của Hữu tái sinh

19 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 10332)
Bài 12 - Trung hữu của Hữu tái sinh

Kalu Rinpoche 

TÂM DIỆU MINH THƯỜNG TRỤ [Bài 12]
Trung hữu của Hữu tái sinh
Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc
Bản Anh: The Bardo of Becoming

Những hữu tình của trung hữu không thể đảo ngược lang thang trong một thân ý sinh không vững bền, chúng thì giống như thân vật lí trước đây,
Chúng có tất cả các quan năng và cảm thức và những năng lực phóng chiếu của nghiệp.
Những thân của chúng thì không bị ngăn chặn bởi bất cứ chướng ngại nào .
Jamgon Kongtrul Lodro Thaye, The Text of Surcho


Trong suốt thời kì của trung hữu của hữu tái sinh, tâm tái kiến tạo trải nghiệm của những phóng chiếu khác biệt sinh ra bởi nghiệp của nó; vào lúc cuối của trung hữu này, phan duyên bởi nghiệp đó, nó tái sinh một trong sáu cõi của sinh tử tương tục. Hoàn toàn như giấc ngủ sâu sinh ra đủ loại những trải nghiệm của thế giới chiêm bao, sau giai đoạn bất thức (unconsciousness) và những linh ảnh thoáng qua của trung hữu của tính không được miêu tả ở bài giảng trước, thì xuất hiện những trải nghiệm của trung hữu của hữu tái sinh. Đây là một trạng thái trong đó những trải nghiệm có một thật tại tương tự với những cái mà chúng ta đã quen thuộc một cách thật sự, nhưng những điều kiện của hiện hữu thì sai biệt.

Thân và Thế giới tâm ý

Trong trung hữu này, không có thân vật lí mức thô; thay vào đó, có một thân ý sinh tạo nên bởi bốn uẩn và nửa uẩn, đó là: thức, hành, tưởng, thọ và phân nửa của sắc uẩn. Những hữu tình trong trung hữu của hữu tái sinh có một sắc thân vi tế, một thân ý sinh không thể nhận biết đối với người bình thường. Những hữu tình sinh ra với một thân như thế nhận định nó như là của thân của họ và cũng có thể nhận thức những kẻ khác trong cùng một trạng thái (trung hữu của hữu tái sinh).

Nói tổng quát, chúng ta có ba loại thân.Thứ nhất có thân bình thường, được gọi là thân nghiệp duyên (karmic body), bởi vì nó là kết quả của nghiệp đã hoàn toàn thuần thục; đó là thân chúng ta đương có. Thân thứ nhì là thân tập khí (habitual body). Đây là thân của thế giới chiêm bao, nó kết quả từ khuynh hướng của tâm đồng nhất chính nó với một hình dáng vật lí. Nó đến từ những tập khí và những thói quen tích lũy trong trạng thái thức tỉnh. Thân thứ ba, hoặc thân ý sinh (mental body), là thân thuộc về hữu tình trong trung hữu của hữu tái sinh. Trong suốt phần thứ nhất của trung hữu của hữu tái sinh, thân ý sinh giống như phương diện vật lí của đời sống vừa mới chấm dứt. Hữu tình trong trung hữu có thể, nếu bị đe doạ, lo sợ cho đời sống của nó. Nó cũng có thể có cảm tưởng bị giết trong khi đối đầu với những kẻ thù hoặc trong những hoàn cảnh khác. Nhưng tất cả những sự biến này và những kẻ thù đều chỉ là những phóng chiếu hư huyễn sinh ra bởi những ấn tượng tiềm ẩn trong tâm; thân ý sinh không thể bị giết bởi những phóng chiếu khác mà chính chúng cũng đều là tâm ý. Mặc dù nó thì không thể bị tiêu diệt, thân ý sinh trải nghiệm tất cả các loại sợ hãi, khủng bố, và thèm khát bởi vì sự ảnh hưởng của những thói quen và những tập khí từ quá khứ. Trong tất cả chuyện này, những trải nghiệm của thân ý sinh và những hiện tướng của trung hữu của hữu tái sinh đều có thể so sánh với những trải nghiệm và những hiện tướng của những chiêm bao, nhưng chúng mạnh mẽ hơn nhiều.

Hữu tình trung hữu có năm quan năng tương ứng với năm cảm thức bình thường, thêm vào có những năng lực nhất định, tỉ dụ thần thông, cho phépnhận thức thế giới của chúng sinh. Nó cũng có năng lực di chuyển khắp nơi không bị ngăn trở bởi ngững đối tượng vật lí. Thật ra , không một cái gì có thể chướng ngại thân ý sinh. Nó chỉ phải nghĩ, tỉ dụ, về Ấn Độ, và nó ngay tức thời tìm thấy nó ở đó; nếu nó nghĩ về nước Mĩ, nó sẽ ở đó ngay lập tức; nếu nó nghĩ về nhà của nó trước khi chết, nó sẽ ở đó ngay tức thời. Hoàn toàn bằng cách nghĩ đến một nơi chốn, nó sẽ ở đó. Cũng như thế, nó chỉ phải nghĩ về hoặc mong ước đối với một cái gì đó cho trải nghiệm sinh khởi một cách tức thời.

Một cách thật sự, tâm của chúng ta nghĩ rất nhiều. Khi chúng ta ở trong trung hữu của hữu tái sinh, những tâm niệm khác nhau này kết tinh hoá và xuất hiện trong trạng thái những thật thể (realities), sinh ra một thế giới trong dòng đại biến dịch (a world in great flux). Sự đa thù vạn biệt của những tâm niệm (the huge multitude of thoughts), quay hướng và đổi tốc độ như một cơn gió lốc xoáy, làm cho tình trạng này không thể vững bền và khó khăn một cách cực kì.

Khi tới giai đoạn này của trung hữu, một kẻ có, tỉ dụ, một gia đình, sẽ nhớ đến căn nhà của kẻ đó. Ông sẽ thấy những người thân mến đối với ông, vợ ông, các con ông, và các thứ. Ông khao khát nói chuyện với họ, thông đạt với họ, nhưng họ không thể thấy ông và chẳng còn quan tâm đến ông; ông nói với họ, nhưng không có hồi đáp, và điều này làm cho ông đau khổ rất nhiều. Bởi vì ông không thể tạo ra cuộc tiếp xúc, ông nhận định ra ông không còn thuộc thế giới của những sự sống. Cái không có khả năng truyền đạt gây nên sự đau buồn, đau thương, và gây gổ.

Ở điểm này, ông nhận định rằng, thực tế, ông đã rời khỏi thân và có thể thấy xác chết được chôn hoặc hoả táng một cách thực sự. Những trải nghiệm khủng khiếp và đau đớn này làm ông tin rằng ông đã chết. Ông nhận thức những người thân cận và thân mến với ông đang khóc và đang đau khổ. Những cảm xúc của họ có thể làm sống lại tham luyến của chính ông. Chuyện sẽ lớn hơn nữa, nếu những kẻ được ông yêu mến không buồn rầu, hoặc, tệ hơn nữa, nếu họ sung sướng về cái chết của ông, ông cảm thấy giận dữ, và điều này làm ông đau khổ thêm nữa. Nó có thể là những người thừa kế của ông đang đấu tranh với nhau về những gì ông để lại, đó cũng là một cái nguồn khác của thất vọng và tức giận.

Một kẻ đặc biệt gắn bó với căn nhà của mình hoặc những sở hữu sẽ thấy chúng một lần nữa. Ông thấy người ta chiếm lấy các thứ ông đã từng tích lũy, sự đó làm khuấy động lên lòng tham và luyến tiếc của ông. Ông cố gắng nắm giữ chúng, nhưng không ai nhìn thấy ông, và ông vẫn hoàn toàn vô năng lực. Giận dữ thắng ông và có thể làm ông tái sinh trong một cõi địa ngục.

Vài loại trải nghiệm khác nhau của trung hữu của hữu tái sinh tùy thuộc vào hữu tình trong trạng thái đó: nghiệp tiêu cực tạo ra những hiện tướng khủng khiếp và đau đớn, trong khi nghiệp tích cực là một nguồn gốc của những trải nghiệm vui vẻ hạnh phúc.

Thời lượng của trung hữu của hữu tái sinh biến đổi; tái sinh có thể xảy ra bất cứ thời điểm nào, nhưng một cách tổng quát, ở vào mỗi cuối của bảy chu kì của bảy ngày.Tái sinh có thể xảy ra sau một, hai, hoặc ba tuần. Tối đa thì luôn luôn là (49) bốn mươi chín ngày, nhưng một trung hữu rất dài có thể kéo dài tới một năm.

Nếu tâm có nhiều trải nghiệm trong những khuynh hướng tiêu cực một cách cực kì, trung hữu này chỉ có một khoảng thời gian ngắn, bởi vì hữu tình sẽ đi ngay lập tức tới các cõi thấp hơn (súc sinh, ngạ qủy, địa ngục). Cũng như thế, nếu tâm thấm tràn đầy với những khuynh hướng tích cực, tái sinh sẽ xảy ra một cách nhanh chóng nơi một cõi cao hơn (người, a tu la, chư thiên).Về một phương diện khác, nếu tập khí nghiệp tích cực giảm bớt hoặc yếu, trung hữu của hữu tái sinh sẽ kém cố định và kéo dài hơn.

Bất cứ độ dài thời kì này, những trải nghiệm và những hiện tướng mà người chết nhận thức trong phần đầu của trung hữu của hữu tái sinh quan liên tức thời với đời sống trước. Thế rồi nghiệp dần dần làm những hiện tướng này mờ nhạt đi, trong lúc đó những hiện tướng của đời kế tiếp bắt đầu ứng hiện (manifest). Lúc đó những trải nghiệm tiến đến cho biết rằng đời kế tiếp sẽ ra sao. Một cách luôn luôn, trong suốt ba tuần đầu, thức tái sinh cư trú trong một thế giới nơi mà những trải nghiệm của nó giống nhiều với những trải nghiệm của đời trước. Rồi thì, ở lúc bắt đầu tuần lễ thứ tư, nó bắt đầu nhận thức thế giới trong những cái nó sẽ vào tái sinh.

Trong giai đoạn này của trung hữu, sáu dấu hiệu, trong hình dáng của những trải nghiệm khác biệt, ứng hiện trong những đường lối rất thoáng qua và không thể tiên đoán được, chúng gợi ý cho biết nghiệp và tái sinh sắp đến. Sáu dấu hiệu này là những môi trường tự nhiên khác nhau của cư trú (different habitats), tập hợp điều kiện ảnh hưởng sinh sống (environments), phong cách cư xử (behaviours), thực phẩm, nhóm hữu tình quan liên (company), và những trải nghiệm tâm ý hoặc những nhận thức chúng lưu chuyển từng sát na.

Cũng có bốn trải nghiệm chúng xảy ra giữa tất cả hữu tình trong trung hữu này: đây là những âm thanh khủng khiếp được gọi là bốn kinh sợ (four fearsomes): sự sụp đổ của một quả núi (the collapse of a mountain), một đại hải tràn nuốt (an engulfing ocean), một đại hỏa cháy rực (a blazing inferno), và một cuồng phong xoáy lốc (a gusting whirlwind). Những trải nghiệm này tương ứng với những cái chết nhỏ trong trung hữu đó (little deaths within that bardo), trong trạng thái những gió nhất định được chuyển hoàn lại. Sự chuyển hoàn của gió đất sinh ra cảm tưởng bị chôn vùi dưới một quả núi khổng lồ hoặc dưới một căn nhà. Vào lúc chuyển hoàn của gió nước, có một cảm giác mất chân đứng và đang chìm trong đại hải. Vào lúc chuyển hoàn của gió lửa, có một cảm giác của sự bị nướng trong một ngọn lửa mênh mông, và vào lúc chuyển hoàn của gió khí, có một cảm giác của sự bị cuốn bay, như là bị gió bão mang đi.

Cũng có trải nghiệm của ba sâu thẳm (abysses) trong trung hữu này. Hữu tình trung hữucảm tưởng của sự đang rơi vào trong một cái giếng hoặc đường hầm màu trắng hơi xám, màu hơi đỏ, hoặc tối đen; đây là cái được sinh ra do sự ứng hiện của những khuynh hướng tiến về căm ghét, dục tham, và vô minh, một cách thứ tự tương ứng.

Thời điểm của Tái sinh

Ở điểm này, thời điểm của tái sinh duyên hội xảy ra. Có bốn loại khả hữu của tái sinh: tái sinh thai tạng, tái sinh hoá hiện, tái sinh từ nhiệt và ẩm ướt, và tái sinh từ trứng ; đôi khi chúng được kết hợp. Những sinh vào địa ngục hoặc những cõi trời là những hoá hiện (apparitional).

Tái sinh thì được đi chung với những trải nghiệm khác biệt:

Hữu tình trung hữu -- thức tái sinh, hoặc bardoa trong Tạng ngữ -- trải nghiệm cái lạnh băng giá của miền địa cực thì bị hấp dẫn lôi cuốn đến một ngọn lửa đang cháy. Đây là cái cách như thế nào mà nó đi đến chỗ cuối là bị sinh trong một địa ngục nóng đỏ.

Hữu tình trung hữu cũng có thể bị sợ hãi một cách cực kì và, cảm thấy để được an toàn, đi trốn trong một cái lỗ. Đây là cái cách như thế nào mà nó được tái sinh trong cõi súc sinh.

Nếu hữu tình trung hữu có nghiệp tích cực, nó có thể nhận thức một xứ có chư thiên với một cung điện mĩ lệ. Tiến tới được xứ đó, nó được tái sinh trong những cõi trời của trường thọ, trong cõi đó nó thọ hưởng một thân quang minh suốt một thời gian rất dài.

Nếu hữu tình trung hữu được tái sinh qua thai tạng (=tử cung) trong trạng thái con người, cộng thêm vào đó các nghiệp cần thiết, ba thành tố phải đi chung với nhau : hữu tình trung hữu, tinh trùng của người cha, và trứng của người mẹ. Hữu tình trung hữu nhận thấy cha mẹ đang giao hợp. Nếu hữu tình trung hữu sẽ được tái sinh trong trạng thái nam, nó cảm thấy cảm thức hấp dẫn hướng về người mẹ và có cảm thức chống đối hướng về người cha. Nếu hữu tình trung hữu sắp được tái sinh trong trạng thái nữ, có sự ngược lại -- cảm thức hấp dẫn hướng về người cha và cảm thức chống đối hướng về người mẹ -- sẽ duyên hội xảy ra. Vào thời điểm của thụ thai, tinh dịch của người cha và trứng của người mẹ và hữu tình trung hữu hoặc thức tái sinh thành hợp nhất. Những giao tử (gametes) là những phương diện bên ngoài của tinh chất trắng nam và tinh chất đỏ nữ (The gametes are the outer aspects of the male white substance and female red substance). Chúng chứa tiềm năng cho những thành tố căn bản khác nhau – hư không, khí, lửa, nước và đất trong những phương diện bên ngoài của chúng. Hữu tình trung hữu, với thân ý sinh của nó, chứa những thành tố căn bản này trong những phương diện bên trong của nó. Vào thời điểm của thụ thai, có một sự đông đặc của năm thành tố căn bản bên ngoài và năm thành tố căn bản bên trong. Đây là cách như thế nào một cá nhân sinh khởi. Với sự dung hợp này của hai giao tử và hữu tình trung hữu (=thức tái sinh), đi đến một thời kì của bất thức (the unconsciousness). Một cách có thứ bậc, ở vào thời kì bắt đầu của phát triển phôi, thức sẽ được tìm thấy. Vào thời gian này, không có biệt lệ ngoại trừ, tất cả những kí ức hồi nhớ của hữu tình trung hữu thì bị mất đi.

Hoặc chúng taPhật tử hoặc không là, chúng ta được nối kết với một truyền thống hoặc một truyền thống khác, điều quan trọng nhất cho chúng ta vào lúc chết là nhận biết sáng tỏ tâm của chúng tabản chất của chúng ta và giờ đây tu tập để đạt đếnhội thông hiểu này.

__________________________________

Chú thích

Khi cha mẹ đang gia hợp, thức tái sinh đi vào, qua miệng người cha, rồi qua đầu cơ quan sinh dục người cha và qua cơ quan sinh dục người mẹ.

___________________________________

Kalu Rinpoche

The Bardo of Becoming

The beings of the irreversible bardo wander in an unstable mental body, which looks like their previous carnal body. They have all their faculties and senses and the projection powers of karma.Their bodies are not hindered by any obstacle.

Jamgon Kongtrul Lodro Thaye, TEXT OF THURCHO.

_________________________

During the bardo of becoming, the mind re-creates the experience of the various projections brought about by its karma; at the end of this bardo, conditioned by that karma, it takes rebirth in one of the six realms of samsara. Just as deep sleep gives rise to all kinds of dreamworld experiences, after the unconsciousness and the fleeting visions of the bardo of emptiness described in the last chapter, there appear the experiences of the bardo of becoming. This is a state in which experiences have a reality similar to those we are actually familiar with, but the conditions of existence are different.

THE BODY AND THE MENTAL WORLD

In this bardo, there is no gross physical body; instead, there is a mental body made up of four and a half aggregates which are: consciousness, compositional factors, perceptions, sensations , and a half of the form aggregate. Beings in the bardo of becoming have a subtle form body, a mental body imperceptible to ordinary beings. Beings endowed with such a body perceive it as theirs and can also perceives others in the same state.

In general, we have three kinds of bodies. First there is the ordinary body, called the karmic body, because it is the result of fully matured karma; this is the body we currently have. The second is the habitual body. This is the dreamworld body, which results from the mind‘s tendency to identify itself with a physical form. It comes from imprints and habits accumulated during the waking state. The third, or mental body, is the one belonging to the being in the bardo of becoming. During the first part of the bardo of becoming, the mental body looks like the physical aspect of the life it just finished. The being in the bardo may, if threatened, fear for its life. It could also have the impression of being killed in confrontations with enemies or in other circumstances. But all these events and enemies are only illusory projections produced by latent impressions in the mind ; the mental body cannot be killed by other projections,which are themselves mental. Even though it is indestructible, the mental body experiences all kinds of fears, terrors, and cravings because of the influence of habits and imprints from the past. In all of this, the experiences of the mental body and the appearances of the bardo of becoming are comparable to those of dreams, but much more intense.

The bardo being has five faculties corresponding to our ordinary five senses, as well as certain powers, such as clairvoyance, which allow it to perceive the world of the living. It also has the power to move around without being hindered by physical objects. In fact, nothing can impede the mental body. It only has to think, for example, about India, and it will immediately find itself there ; if it thinks about the United States, it will instantly be there ; if it thinks of its home prior to dying, it will be there right away. Just by thinking of a place, it will be there. Likewise, it has only to think about or wish for something for the experience to instantly arise.

Actually, our mind thinks a lot. When we are in the bardo of becoming, these different thoughts crystallize and appear as realities, producing a world in great flux. The huge multitude of thoughts, turning and shifting like a whirlwind, makes this situation extremely unstable and difficult.

Having arrived at this stage of the bardo, someone who has, for example, led a family life, will remember his home. He will see those who were dear to him, his wife, children, and so on. He yearns to talk to them, to communicate with them, but they cannot see him and are no longer interested in him; he addresses them, but there is no response, and this causes him tremendous suffering. Because he is unable to make contact, he realizes he is no longer in the world of the living. This inability to communicate provokes grief, suffering, and aggression.

At this point, he realizes that he has, in fact, left his body and can actually see the buried or incinerated corpse. These terrifying and distressing experiences lead him to believe that he is dead. He perceives those who were near and dear to him crying and grieving. Their emotions can revive his own attachment. Moreover, if his loved ones are not sad, or, worse, if they are happy about his death, he feels anger, and this causes him suffering. It might be that that his heirs are fighting among themselves over the division of the things he has left behind, which is still another source of frustration and anger.

Someone who was particularly attached to his home or possessions will see them again. He sees people seizing the things he has accumulated, which arouses his greed and attachment. He tries to hold on to them, but no one sees him, and he remains utterly powerless. Anger overcomes him and can cause him to take rebirth in a hell realm.

The various different experiences of the bardo of becoming depend upon the karma of the being in that state : negative karma produces terrifying and paiful appearances, while positive karma is a source of pleasant, happy experiences.

The duration of the bardo of becoming varies; rebirth can occur at any time, but generally at the end of seven cycles of seven days. Rebirth can also take place after one, two, or three weeks. The maximum usually is forty-nine days, but a very long bardo could last up to a year.

If the mind is steeped in extremely negative tendencies, this bardo will last only a short while, because the being will immediately go to the lower realms. Likewise, if the mind is saturated with positive tendencies, rebirth will occur just as quickly in a higher realm. On the other hand, if the karmic imprints are mitigated or weak, the bardo of becoming will be less certain and last longer.

Whatever its duration, the experiences and appearances that the deceased perceives in the first part of the bardo of becoming relate to the immediately preceding lifetime. Then, karma gradually causes those appearances to fade, while those of the next life begin to manifest. Then come the experiences that suggest what that next lifetime will be. Usually, during the first three weeks, the birth consciousness abides in a world where its experiences are much like those of its previous life. Then, at the beginning of the fourth week, it begins to perceive the world into which it will take birth.

In this phase of the bardo, six signs, in the form of various experiences, manifest in a very fleeting and unpredictable ways, which suggest the karma and the rebirth that will be taken. These six signs are different habitats, environments, behaviours, foods, company, and mental experiences or perceptions that shift from moment to moment.

There are also four experiences that occur among all the beings in this bardo : these are the terrifying sounds called the four fearsomes : The collapse of a mountain, an engulfing ocean, a blazing inferno, and a gusting whirlwind. These experiences correspond to little deaths within that bardo, as certain winds are reversed. The reversal of the earth wind produces the impression of being buried under a gigantic mountain or under a house. At the reversal of the water wind, there is the feeling of losing one’s footing and sinking in the ocean. At the reversal of the fire wind, there is a feeling of being grilled in an immense fire, and upon the reversal of the air wind, there is the feeling of being swept away, as if carried off by a tornado.

There is also the experience of the three abysses in this bardo. The bardo being has the impression of falling into a grayish white, reddish, or dark well or tunnel; this is produced by the manifestation of the tendencies toward hatred, desire, and ignorance, respectively.

THE MOMENT OF REBIRTH

 At this point, the moment of rebirth occurs. There are four possible kinds of rebirths : womb birth, apparitional birth, birth from heat and moisture, and birth from an egg; sometimes they are combined. Birth in hell or divine realms are apparitional.

Rebirth is accompanied by different experiences:

The bardo being – the rebirth consciousness, or bardoa in Tibetan – that experiences artic cold is attracted by a burning flame. This is how it ends up being born in a hot hell.

The bardoa may also be extremely terrified and, to feel secure, goes and hides in a hole. This is how it is reborn in an animal realm.

If the bardoa has positive karma, it can perceive a celestial place with a marvelous palace. Reaching that place, it is born in the divine realms of long life, in which it enjoys a radiant body for a very long time.

If the bardoa is to be born of a womb as a human, in addition to the necessary karma, three factors must come together: the bardo being, the father’s sperm, and the mother‘s egg. The bardo being perceives the parents having sex. If the bardoa will be born as a male, he feels attraction for the mother and revulsion toward the father. If the bardo being will be born as a female, the opposite – attraction for the father and revulsion toward the mother – will occur. At the moment of conception, the father’s semen, the mother’s ovum, and the bardoa or rebirth consciousness unite. The gametes are the outer aspects of the male white substance and female red substance. They contain the potential for the different elements – space, air, fire, water, and eartn in their outer aspects. At the moment of conception, there is a consolidation of the five outer elements and the five inner elements. This is how a new individual arises.With this fusion of the two gametes and the bardoa, there comes a period of unconsciousness. Little by little, at the beginning of embryogenesis, the consciousness will be found. At that time, without exception, all recollection of the bardo is lost.

Whether we are Buddhist or not, whether we are connected to one tradition or another, the most important thing for us at death is to know our mind and our nature well and to practice now to gain this understanding.

Source: Kalu Rinpoche. Luminous Mind. The Way of the Buddha. Wisdom, 1997.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31686)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10538)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11237)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12771)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10818)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16680)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10828)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22981)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12036)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11504)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10695)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12348)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11203)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10032)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10334)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11933)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10704)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12383)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9823)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11283)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13850)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9585)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12642)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9713)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10472)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10574)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10338)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9914)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11065)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12026)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10150)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10794)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9545)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9906)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8776)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9507)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14535)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8784)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12565)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10431)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9092)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10568)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9344)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8814)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10527)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9202)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8371)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12036)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9703)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10221)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10232)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19155)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9421)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8995)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9593)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9025)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14766)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10104)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8357)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8959)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8980)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8750)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9375)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14610)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9046)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8787)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9055)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10540)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8650)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 10003)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24295)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10183)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11034)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9008)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9482)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8012)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9280)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15357)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10345)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9593)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17456)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21413)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12174)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10238)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19261)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26057)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7984)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14816)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10639)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11359)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9541)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18690)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12372)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11897)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10765)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13352)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10008)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9279)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9399)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15912)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant