Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bài 14 - Tám Thức và Năm Nguyên tố chính

19 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 10302)
Bài 14 - Tám Thức và Năm Nguyên tố chính

Kalu Rinpoche

TÂM DIỆU MINH THƯỜNG TRỤ [Bài 14]
Tám Thức và Năm Nguyên tố chính
Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc
Bản Anh: The Eight Consciousnesses and the Five Principal Elements

Tính Phật có bảy thức đi chung, chúng ta nắm giữ bảy thức này tạo nên tính nhị nguyên đối đãi.
Khi điều này được nhận biết sáng tỏ, sự nắm giữ bảy thức sẽ ngừng trải rộng.
Kinh Lăng già

Để thông hiểu sáng tỏ sự liên kết giữa các giáo pháp về tâm và sự chuyển cư trong các trung hữu, và để thông hiểu tốt đẹp hơn các tiến trình trung hữu này, điều có thể hữu ích cho chúng ta là hãy xem xét các sự biến hoá tâm trải qua trong suốt những giai đoạn này.

Tính Phật hoặc tâm thanh tịnh, trí tuệ bản nguyên đó, là , rốt ráo, tính không, tính giác quang chiếu, và khả tính vô biên (Buddha nature or pure mind, that primordial wisdom, is, after all, emptiness, lucidity, and infinite possibility). Nó là quang minh giác chiếu (= quang sắc giác chiếu = clear light), đối diện với tất cả các hữu tình vào lúc cuối của sự hoà tan của tâm thức vào thời điểm chết, hoặc, trong trung hữu hấp hối (= cận tử), được tiếp theo bởi trung hữu của tính không (It is the clear light, encountered by all beings at the end of the dissolution of consciousness at the moment of death, or, in the bardo of agony, followed by the bardo of emptiness).

Quang minh giác chiếu này hoặc bản trí (=trí tuệ bản nguyên) có năm nguyên tố chính: hư không, khí, lửa, nước, và đất trong trạng thái căn bản của nó. Những nguyên tố chính này biến hóa khi tâm và những ứng hiện của nó được biến đổi, như chúng ta sẽ thấy.

Khi tính Phật bị che lấp bởi vô minh, nó trở thành nền tảng phổ quát của sinh tử lưu chuyển (phổ quát = mọi thời, mọi nơi). Trong trạng thái như vậy, nó được gọi là thức phổ quát hoặc thức căn bản, hoặc thức thứ tám (As such, it is called the universal or fundamental consciousness or the eighth consciousness). Nó ôm trọn và lan toả khắp sự-sự vật-vật, và từ nó tất cả những huyễn tượng của các thức cá biệt (all the illusion of individual consciousnesses) sinh khởi.

Sự phát triển của ngu si (delusion: si; ngu si; vô minh) bắt đầu với hiện tướng của tính nhị nguyên đối đãi. Trạng thái bất nhị của tính không, tính giác quang chiếu, và biện biệt vô ngại (= phân biệt rành rẽ không bị che lấp) chia chẻ thành tính nhị nguyên chủ thể - khách thể và hành tác khởi từ nhận thức đó.Từ tính không sinh khởi tôi-chủ thể, từ tính giác quang chiếu sinh khởi cảm thức về khách thể, và từ phân biệt rành rẽ không bị che lấp sinh khởi tất cả những quan liên trên căn bản tham luyến (= tham), chống đối (= sân), và vô minh (= si) (From emptiness arises the me-subject, from lucidity arises the sense of otherness, and from the unobstructedness arise all relationships based on attraction, repulsion, and ignorance). Với sự chia chẻ này, thức bị nhơ nhuốm hoặc thức nhị nguyên đối đãi duyên hội xảy ra-- thức thấy rằng một kẻ có một sự-sự vật-vật (With this split, contaminated consciousness or dualistic consciousness occurs – the consciousness that someone has something). Nó bị quy chiếu ở trong trạng thái bị nhơ nhuốm bởi vì nó bị ô nhiễm với chủ nghĩa nhị nguyên đối đãi, nó là thức thứ bảy (It is referred to as contaminated because it is polluted with dualism, which is the seventh consciousness).Thức bị nhơ nhuốm này có một đoàn tùy tùng gồm sáu thức khác biệt, tương ứng với các quan năng cảm thức khác biệt: mắt, tai, mũi, lưỡi, xúc chạm, và tâm ý (This contaminated consciousness has an entourage of six other consciousness, corresponding to the different sense faculties: visual, auditory, olfactory, gustatory, tactile, and mental).

TIẾN TRÌNH CHUYỂN ĐỔI CỦA CÁC NGUYÊN TỐ TRONG TÂM VÀ TRONG CÁC TRUNG HỮU

Rỗng thông, chiếu sáng, và vô hạn trong tiềm năng, tâm có thể được thông hiểu như có năm phẩm tính căn bản: tính chân không diệu viên, tính động chuyển, tính trong sáng, tính tương tục, và tính an định (Empty, luminous, and infinite in potential, mind can be understood as having five basic qualities: emptiness, mobility, clarity, continuity, and stability). Mỗi tính này tương ứng với năm nguyên tố chính (= năm đại) theo thứ tự, gồm hư không, khí, lửa, nước, và đất. Chúng ta đã miêu tả tâm chẳng ở trong trạng thái một sự-sự vật-vật có thể sờ mó được: nó thì chẳng quy định được (indeterminate; không bờ mé quy định), hiện diện mọi nơi, mọi thời (omnipresent), và phi chất liệu (immaterial); tâm là chân không diệu viên, với bản chất của hư không. Những tâm niệm và những trạng thái tâm ý khởi sinh một cách liên tục trong tâm; sự động chuyểngiao động này là bản chất của nguyên tố khí. Hơn thế nữa, tâm thì trong suốt sáng tỏ, nó có thể nhận biết, và tính giác chiếu quang chiếu trong sáng đó là bản chất của nguyên tố lửa. Và tâm thì tương tục; những trải nghiệm của nó là một dòng không gián đoạn của những tâm niệm và những nhận thức. Tính tương tục này là bản chất của nguyên tố nước. Nói đến sau cùng, tâm là nền tảng hoặc cơ sở từ nó sinh khởi sự-sự vật-vật khả tri trong sinh tử tương tục cũng như trong niết bàn, và phẩm tính này là bản chất của nguyên tố đất.

Năm phẩm tính của tâm thanh tịnh (pure mind) cũng có bản chất của năm nguyên tố. Nhập vào những huyễn tượng và tính nhị nguyên đối đãi, tâm thì bị chuyển đổi, nhưng những sản phẩm của tâm bảo tồn bản chất của năm nguyên tố trong những phương diện khác biệt. Tất cả những ứng hiện là sự trình diễn của tâm trong những sự biến hoá của năm nguyên tố chính. Nhiều hơn thế nữa, có những năng lượng vi tế cung cấp bảo dưỡng tâm và những đột biến của tâm, được gọi một cách theo truyền thống là những gió hay những khí (winds or airs). Tâm, thức, hằng hà sa số những trải nghiệm khác biệt được sinh ra bởi những năng lượng khí này; những năng lượng khí này không thể phân biệt được với tâm và là năng lượng làm sinh độngảnh hưởng chúng.

Năm phẩm chất căn bản của tâm vừa mới được miêu tả tương ứng với năm khí rất vi tế, năng lượng của chúng ứng hiện trong tâm trong trạng thái năm quang sắc cảnh chiếu căn bản mà chúng được quy chiếu trong trạng thái cực vi tế. Chúng là, theo thứ tự, lam, lục, đỏ, trắng, và vàng. Những quang sắc cảnh chiếu này bắt đầu ứng hiện ở thời điểm khi tâm thức được tái an lập ở vào lúc cuối của trung hữu của tính không. Chúng tạo thành tiến trình “sinh”, sự ngoi lên của thức nhị nguyên đối đãi. Những trải nghiệm và những phóng chiếu của tâm thức sinh khởi một cách sau đó từ năm quang sắc cảnh chiếu; chúng (năm quang sắc cảnh chiếu) tạo ra những hiện tướng của năm nguyên tố và những hiện tướng này được nhận thức xuyên qua huyễn tượng trong trạng thái thân ý sinhthế giới bên ngoài.

Tất cả những hiện tướng hư huyễn mà tâm thức trải nghiệm, một cách căn bản, chúng là những hoá hiện (emanations) của tâm, sự ứng hiện (manifestation) của năm nguyên tố chính, một cách khởi đầu, duyên hội xảy ra trong trạng thái những phẩm chất căn bản của tâm, sau đến trong những khí và những quang sắc cảnh chiếu (winds and luminosities) và cuối cùng trong trạng thái những hiện tướng (appearance). Mỗi một trong những mức độ này có bản chất của các nguyên tố khác biệt: hư không, khí, lửa, nước, và đất.

Tiến trình của sự cấu trúc tâm thức duyên hội xảy ra vào mỗi thời điểm (=sát na), trong tất cả những trạng thái của tâm thức của chúng ta, nhưng một cách đặc biệt ở vào lúc khởi đầu của trung hữu của hữu tái sinh. Lúc đó, trong suốt trung hữu đó, do sự trình diễn tương tác (interplay) của năm nguyên tố, tâm thức phóng chiếu hiện tướng của một thân ý sinh, một hình dáng vi tế mà thân ý sinh đồng nhất hoá nó trong trạng thái một chủ thể, trong khi đó vào cùng một lúc, nó phóng chiếu những đối tượng này, được nhận thức theo lối hư huyễn trong trạng thái thế giới bên ngoài (perceived in an illusory way as the outer world)

Thế nên chủ thể tâm thức này (consciousness subject), được đồng nhất hoá với thân ý sinh của nó, phát triển những quan liên với những phóng chiếu - hình dáng này mà chúng một cách theo thứ bậc được cấu trúc trong trạng thái những uẩn khác biệt: những thọ, những tưởng và những hành. Năm uẩn chúng cùng nhau hình thành một cá thể (sắc, thọ, tưởng, hành, và thức) thì được tạo lập như vậy. Nhưng ở vào giai đoạn này của trung hữu của hữu tái sinh, ý thức sống trọn vẹn tất cả những trải nghiệm của nó chỉ trong chính nó, và cá thể như vậy chỉ gồm có bốn và nửa uẩn. Trong cách thức này, những trải nghiệm của trung hữu của hữu tái sinh sẽ kéo dài cho tới lúc thụ thai. Vào thời điểm thụ thai, thức tái sinh (migrating consciousness) cấu tạo bởi bốn và nửa uẩn, kết hợp với những nguyên tố bên ngoài, hiện diện trong tinh dịch của người cha và trứng của người mẹ. Thế nên, phôi thai gồm tất cả năm nguyên tố trong những phương diện bên trong của chúng -- thức – và trong những phương diện bên ngoài của chúng, đến từ những giao tử của cha mẹ (gametes: giao tử; tế bào sinh dục). (So, the conceived embryo includes all five elements in their inner aspect – consciousness – and in their outer aspects, which come from the parent’s gametes).

Năm nguyên tố của hư không, khí, lửa, nước, và đất hiện hữu trong phôi thai, và sau đó trong thân vật lí, trong trạng thái những xoang trống, khí, ấm nóng, những chất lỏng, và những chất đặc, xét về một mặt, và về mặt khác, trong trạng thái những nguyên lí của sự giàn trải, tính động chuyển, năng lượng, tính ướt và sự kết chặt. Hình dáng sờ mó được mà thân thâu nhận được đó là phương diện thô của sắc uẩn; một cá thể tạo lập bởi năm uẩn thì được kiến tạo như vậy, và một cách từ từ sáu quan năng cảm thức phát triển -- mắt, tai, mũi, lưỡi, xúc chạm, và tâm ý.

Trong cõi của những quan năng cảm thức khác biệt này của ý thức, hai phương diện, thanh tịnh và không thanh tịnh nổi lên.  Phương diện thứ nhất (=thanh tịnh) tiến hành từ bản giác (=tính giác bản nguyên= primordial awareness) và phương diện thứ nhì (= không thanh tịnh) từ tâm thức nhị nguyên đối đãi. Ý thức bị nhơ nhuốm và bị phiền não tiến hành từ tính nhận biết nhị nguyên đối đãi đi cùng với tất cả những thứ tiêu cực, tỉ dụ giận dữ, tham lam, vô minh, tham luyến, ghen tị, và kiêu. Về mặt khác, một ý thức tích cực sinh khởi từ bản trí (primordial wisdom) với những phẩm chất của trí tuệ bát nhã, đại bi, từ bi, và tín. Hai phương diện này của ý thức đều có khắp trong toàn thể sáu thức và những quan năng cảm thức. Điều này hình thành kết quả trong những trải nghiệm khác biệt của sáu loại đối tượng: những hình dáng, những âm thanh, những mùi, những vị, những đối tượng xúc chạm, và những tâm niệm.

Để phác họa một tương tự, thức căn bản (= thức thứ tám) thì giống như người chủ hoặc vị vua; ý thức giống như con trai của ông, hoàng tử; và các thức cảm quan giống như các đặc phái viên. Đây là cách chúng ta phân biệt tám thức như thế nào. Khi hoàng tử, hoặc ý thức bị nhơ nhuốm của chúng ta, cai trị trên sáu thức cảm quan, chúng đảm nhiệm chức năng quan liên với các đối tượng của chúng bằng đường lối của sáu quan năng cảm thức.

Sự tương tác của nhiều nguyên tố trong duyên khởi phát sinh ra vô số quan niệm kiểm soát thân, ngữ và tâm. Nhiều nghiệp khác nhau được tăng hoạt bởi những huyễn tượng này để lại những tập khí trong thức căn bản, rất giống như những hạt giống được gieo trồng trong đất. Và, giống như các thành tố tương liên khác nhau, chẳng hạn như phân bón, ánh sáng, và độ ẩm ướt chúng làm cho những hạt giống sản sinh ra một mùa gặt hái, những tập khí do nghiệp duyên lưu lại thức căn bản sản sinh ra một mùa gặt hái gồm đa số những cuộc đời hạnh phúc hoặc khốn khổ, tùy thuộc vào những tập khí này là tích cực hoặc tiêu cực.

__________________________________

Chú thích

1. Tâm thức = thức = ý thức = thức ý = Skt. vijnana = consciousness = mental consciousness = thức thứ sáu (= the sixth consciousness) = thức mạt na (Skt. manovijnana)

Thức thứ bảy = ý = mạt na = deluded consciousness

Thức thứ tám (the eighth consciousness) = thức căn bản (fundamental consciousness)= thức alaya = thức a lại da (Skt.alayavijnana)= tạng thức = tàng thức

Thức tái sinh = rebirth consciousness = migratory consciousness = migrating consciousness

Thân ý sinh = thân tâm ý = ý sinh thân = mental body

Thế giới tâm ý = mental world.

Trung hữu = trung ấm = the between = bardo (Tạng ngữ)

Trung hữu của Tính không = trung hữu của pháp tính = trung hữu của thật tại.

Reality (thật tại ) = Skt. dharmata (pháp tính)

Clear light = quang minh giác chiếu = basic primordial wisdom = bản trí=….

Lucidity: tính giác quang chiếu

Luminosity: tính giác cảnh chiếu

Năm quan năng cảm thức = Five sense faculties = Năm cơ quan cảm thức = five sense organs = mắt, tai, mũi, lưỡi, và thân

2. Sáu thức và Tám thức

(Jeffrey HOPKINS. Meditation on Emptiness. Wisdom, 1997)

Các nhà Duy thức của Kinh tạnghọc phái phật giáo duy nhất chấp thuận tám thức: năm thức cảm quan, ý thức, một tâm bị nhơ nhuốm phiền não với chủ trương hữu ngã (Skt. klishtamanas = ý = mạt na) và một tạng thức (Skt. alayavijnana = thức alaya = thức a lại da). Những nhà Duy lí và các học phái phật giáo khác chủ trương chỉ có sáu thức với vài chức năng của thức thứ bảy và thức thứ tám do ý thức (=thức thứ sáu) đảm nhiệm. 

Định nghĩa của một nhà Duy thức là:

một người kính trình học giới thẩm định các kết luận cuối cùng của họ trong nghiên cứu giáo pháp phật giáo mà họ sử dụng suy lí để biện giải các đối tượng bên ngoài và chủ thể, đề xướng rằng những hiện tượng duyên khởi đó, chẳng hạn tâm thức, thực sự hiện hữu (=tồn tại).

The Chittamatra Followers of Scripture are the only Buddhist school to accept eight consciousness: the five sense consciousnesses, a mental consciousness, a mind afflicted with egoism (Skt. klishtamanas) and a mind-basis-of-all (alayavijnana). The Followers of Reasoning and all other Buddhist schools assert only six consciousnesses with some of the functions of the seventh and eighth being performed by the mental consciousness.

The definition of a Chittamatrin is:

A person propounding Buddhist tenets who uses reasoning to refute external objects and who asserts that dependent phenomena, such as consciousness, truly exist.

(Jeffrey Hopkins. Meditation on Emptiness.Wisdom,1996)

3. Phật Quang Đại Từ Điển, Thích Quảng Độ dịch, in 2000, Đài Bắc

(6 quyển 7374 trang + quyển Mục lục).

Chân như : Sanskrit: bhuta-tathata; tathata.

Chỉ cho bản thể chân thực tràn khắp vũ trụ ; là nguồn gốc của hết thảy muôn vật.
Còn gọi Như như, Như thực, Pháp giới, Pháp tính, Thực tế, Thực tướng, Như lai tạng, Pháp thân, Phật tính, Tự tính thanh tịnh thân, Nhất tâm, Bất tư nghị giới….
Trong sách Phật Hán thời kì đầu dịch là:
Bản Vô. Chân, chân thật không hư dối; Như, tính của sự chân thật ấy không thay đổi….

Hư không. Skt. akasa

(Phật quang đại từ điển. Thích Quảng Độ dịch. 2000 )

(1). Hư không: Chỉ cho pháp vô vi thanh tịnh, không bị chướng ngại.

(2). Hư không: Khoảng không bao la gồm có năm nghĩa: Trùm khắp, thường hằng, không bị ngăn ngại, không phân biệt, dung nạp hết thảy muôn vật.

Còn theo Tông kính lục quyển 6 thì Hư không có 10 nghĩa:

Không chướng ngại, cùng khắp, bình đẳng, rộng lớn, vô tướng, thanh tịnh, bất động, hữu không, không không, vô đắc.

(3). Hư không: Tên khác của Không giới. Chỉ cho khoảng không gian, nơi tồn tại của tất cả các pháp, 1 trong 6 giới.

____________________________________

Kalu Rinpoche
The Eight Consciousnesses and the Five Principal Elements
Buddha nature is accompanied by seven consciousnesses, which we grasp at, resulting in duality. When that is recognized it will stop spreading.
Lankavatarasutra

____________________

In order understand clearly the connection between the teachings on mind and transmigration in the bardos, and to better understand these bardo processes, it might be helpful to consider the transformations that the mind undergoes throughout those phases.

Buddha nature or pure mind, that primordial wisdom, is, after all, emptiness, lucidity, and infinite possibility. It is the clear light, encountered by all beings at the end of the dissolution of consciousness at the moment of death, or, in the bardo of agony, followed by the bardo of emptiness.

This clear light or basic primordial wisdom has as its essence the five principal elements: space, air, fire, water, and earth. These transform when the mind and its manifestations are modified, as we will see.

When Buddha nature is obscured by ignorance, it becomes the universal ground of samsara. As such, it is called the universal or fundamental consciousness, or the eighth consciousness. It encompasses and pervades everything, and from it arise all the illusions of individual consciousnesses.

The development of delusion begins with the appearance of duality. The non-dual state of emptiness, lucidity, and unobstructedness splits up into subject-object duality and acts out of that perception. From emptiness arises the me-subject, from lucidity arises the sense of otherness, and from unobstructedness arise all relationships based on attraction, repulsion, and ignorance. With this split, contaminated consciousness or dualistic consciousness occurs – the consciousness that someone has something. It is referred to as contaminated because it is polluted with dualism, which is the seventh consciousness. This contaminated consciousness has an entourage of the six other consciousnesses, corresponding to the different sense faculties: visual, auditory, olfactory, gustatory, tactile, and mental.

Alteration of the elements in the mind and the bardos

Empty, luminous, and infinite in potential, mind can be understood as having five basic qualities: emptiness, mobilitiy, clarity, continuity, and stability. Each of these corresponds respectively to the five principal elements of space, air, fire, water, and earth. We have already described mind as not being a tangible thing; it is indeterminate, omnipresent, and immaterial; it is emptiness, with the nature of space. Thoughts and mental states constantly arise in the mind; this movement and fluctuation is the air element’s nature. Furthermore, mind is clear; it can know, and that clear lucidity is the fire element’s nature. And mind is continuous; its experiences are an uninterrupted flow of thoughts and perceptions. This continuity is the water element’s nature. Finally, mind is the ground or basis from which arise all knowable things in samsara as well as nirvana, and this quality is the earth element’s nature.

The five qualities of pure mind also have the nature of the five elements. Entering into illusions and duality, the mind is altered, but the productions of the mind preserve the nature of the five elements in different aspects. All manifestation is the play of mind in the transformations of the five principal elements. Moreover, there are subtle energies sustaining the mind and its mutations, traditionally called winds or airs. Mind, consciousness, and myriad diverse experiences are produced by these wind energies; they are indistinguishable from mind and are the energy that animates and influences them.

The five basic qualities of mind just described correspond to five very subtle winds, whose energy manifests in mind as the five essential luminosities which are referred to as extremely subtle. They are, respectively, blue, green, red, white, and yellow. These luminosities begin to manifest at the moment when the consciousness is reestablished at the end of the bardo of emptiness. They make up part of the process of “birth”, the emergence of dualistic consciousness. The experiences and projections of the consciousness subsequently arise from the five luminosities; they produce the appearances of the five elements which are perceived through illusion as the mental body and the outer world.

All illusory appearances that the consciousness experiences are basically emanations of mind, the manifestation of the five principal elements, initially occurring as essential qualities of mind, then in the winds and luminosities and finally as appearances. Each of these levels has the nature of the different elements: space, air, fire, water, and earth.

The process of structuring the consciousness occurs at every moment, in all our states of consciousness, but particularly at the beginning of the bardo of becoming. Then, during that bardo, by the interplay of the five elements, the consciousness projects the appearance of a mental body, a subtle form with which it identifies as a subject, while at the same time it projects these objects, perceived in an illusory way as the outer world.

So this consciousness subject, identified with its mental body, develops relationships with these form-projections that are gradually structured as the other aggregates: sensations, representations, and factors. The five aggregates that together form an individual (forms, sensations, representations, factors, and consciousness) are thus created. But at this stage of the bardo of becoming, the mental consciousness lives out all of its experiences only within itself, and the individual thus composed has only four and a half aggregates. In this way, the experiences of the bardo of becoming will last up until conception. At the moment of conception, the migrating consciousness , made up of four and a half aggregates or heaps, combines with outer elements, present in the father ‘s semen and the mother’s ovum. So, the conceived embryo includes all five elements in their inner aspect – consciousness – and in their outer aspects, which come from the parent’s gametes.

The five elements of space, air, fire, water, and earth exist in the embryo, and then in the physical body, as cavities, wind, heat, liquids, and solids on the one hand, and on the other, as the principles of stretching, mobility, energy, fluidity, and cohesion. The tangible form that the body acquires is the gross aspect of the form heap; an individual made up of five heaps is thus created, and slowly the six sense faculties develop – visual, auditory, olfactory, gustatory, tactile, and mental.

In the realm of these different sense faculties of the mental consciousness, two aspects, pure and impure, emerge. The first aspect proceeds from primordial awareness and the second from dualistic consciousness. The contaminated and afflicted mental consciousness proceeds from dualistic awareness along with everything negative, such as anger, greed, ignorance, attachment, jealousy, and pride.. On the other hand, a positive mental consciousness arises from primordial wisdom with the qualities of wisdom, compassion, love, and faith. These two aspects of the mental consciousness extend throughout the six consciousnesses and sense faculties. This results in a variety of experiences of the six kinds of objects: forms, sounds, smells, flavors, tactile objects, and thoughts.

To draw an analogy, the fundamental consciousness is like the master or king; the mental consciousness is like his son, the prince; and the sense consciousnesses are like their emissaries. This is how we distinguish the eight consciousnesses. When the prince, or our contaminated mental consciousness, reigns over six sense consciousnesses, they function in relation to their objects by way of the six sense faculties.

The interaction of the many elements within dependent arising or tendrel gives rise to innumerable conceptions that control body, speech, and mind. The various karmas activated by these illusions leave imprints in the fundamental consciousness, much like seeds planted in the ground. And, like the various interdependent factors such as fertilizer, light, and moisture that cause the seeds to yield a harvest, karmic imprints left in fundamental consciousness yield the harvest of a mass of happy or miserable lives, depending upon whether those imprints are positive or negative.

_______________________________________

Source: Kalu Rinpoche. Luminous Mind. The Way of the Buddha. Wisdom, 1997.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14433)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14153)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39719)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15320)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13885)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13933)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37342)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40071)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14642)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14314)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12658)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14839)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19226)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13798)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42629)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13842)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37270)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12684)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11772)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22551)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12515)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12575)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13068)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13115)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17269)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33261)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14839)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11048)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12462)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11965)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11937)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13142)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51271)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12391)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6618)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30425)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13130)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13336)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30688)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19373)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12481)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11852)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14767)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13198)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13202)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30702)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12044)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11837)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12729)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31911)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29420)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11790)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11754)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10435)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11566)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9645)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9670)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9994)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35412)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10160)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10101)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10053)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9664)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27814)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15504)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9864)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13687)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9849)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9698)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18331)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12046)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9575)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9695)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8723)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8919)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8421)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11484)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31750)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12337)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13323)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8832)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9446)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11946)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9233)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9077)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9673)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29373)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9080)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9109)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33272)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8435)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30630)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31244)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37136)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32276)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9936)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27108)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8454)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19247)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 13018)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant