Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bài 10 - Trung hữu của Thời điểm chết

19 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 10545)
Bài 10 - Trung hữu của Thời điểm chết

Kalu Rinpoche 
TÂM DIỆU MINH THƯỜNG TRỤ [Bài 10]
Trung hữu của Thời điểm chết

Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc


“Khi trung hữu của thời điểm chết xuất hiện
tôi nguyện buông bỏ những ái luyến và những chấp thủ tâm ý,
và nguyện tinh tấn không tán loạn trên đạo lộ mà những chỉ giáo làm sáng tỏ.
Tâm đã phóng chiếu vào vô vi hư-không-xứ, đã li biệt cách tuyệt với thân, với thịt và máu, tôi sẽ tuệ tri tâm thì vô thườngnhư huyễn.”
Liên Hoa Sinh, Tử thư Tây Tạng.

---------------------------------------- 

Những thành tố chính yếu khác nhau cung cấp năng lực cho đời sống, chúng thoái hoá và biến mất ở lúc chấm dứt một cuộc đời. Sự tắt ngúm của một đời sống được miêu tả như là sự hoà tan hoặc sự tái hấp thu bên ngoài của các nguyên tố chính -- đất, nước, lửa, và khí – và sự tái hấp thu bên trong của các thứ loại khác nhau của những tâm niệm và những nhận thức. Trong suốt trung hữu này, nhiều khí làm sinh động thân thể bị phá hủy.

Tổng quát, thân thể của chúng ta được kiểm soát bởi năm (5) khí chính, được gọi tên là khí sinh-sự-sống (the life-bearing wind), khí vận-động-hướng-thượng (the upward-moving wind), khí lan-toả-khắp-thân (the pervasive wind), khí an-trú-lửa (the fire- dwelling wind) và khí đi-xuống-xoang-trống (the downward-voiding wind). Những khí này làm sinh động thân thể vật lí, và khi tác dụng đúng cách bảo đảm chắc chắn một sức khoẻ tốt. Vào thời điểm chết, một khí khác hiển hiện, được gọi là khí nghiệp và tái sinh hữu (At the moment of death, another wind manifests, calledthe wind of karma and becoming). Nó thì luôn luôn phát tán khắp toàn thân. Khi nó hiển hiện, nó khuấy đảo và can thiệp với các khí khác (When it manifests, it upsets and interferes with the other winds) ; những triệu chứng bệnh lý khác nhau xuất hiện khi thân thể tiếp cận cái chết.

Sự hoà tan bên ngoài

Khí điều hoà sự hấp thụ thức ăn, hoặc khí an-trú-lửa, là khí thứ nhất bị rối loạn (to be disturbed). Nó rời vị trí của nó ở luân xa rốn và ngừng chức năng, nghĩa là chúng ta không còn được nuôi dưỡng bởi thực phẩm nữa, thực phẩm cũng chẳng còn được hấp thu hoặc tiêu hoá nữa; các dưỡng chất bị sa thải nhanh chóng.

Kế tiếp, khí sinh-sự-sống bị rối loạn và rời vị trí của nó ở tim, gây ra những cảm xúc khốn khổ và không còn tâm ý minh mẫn. Sự rối loạn này kế đến ảnh hưởng khí đi-xuống-xoang-trống của các chức năng bụng dưới thế nên sự giữ lại phân và nước tiểu bị phá vỡ, gây ra đại tiện, tiểu tiện mất chủ động hoặc tắc ruột.

Sau đó khí vận-động-hướng-thượng bị làm yếu đi, gây ra thở ngắn, vất vả và khó khăn trong sự nuốt. Cuối cùng, khí lan-toả-khắp-thân bị ảnh hưởng, đem đến những cảm thức khổ về thân thể cũng như khó cử động tay chân.

Những rối loạn của những khí này làm cho chúng rời khỏi những vị trí thông thường của chúng trong cơ thể. Sự di chuyển này gây ra sự phá hủy các kinh mạch vi tế mà qua đó các khí này vẫn lưu thông một cách bình thường, cũng như hai trung tâm chính hoặc những luân xa (tiếng Phạn: cakras) .

Sự phá hủy của những kinh mạch này và các trung tâm của chúng xảy ra đem đến sự thoái hoá của các nguyên tố chính của thân thể và những phương diện vật lí nối kết với chúng: thân thể vật lí, hô hấp, thân nhiệt, máu và thịt, tương ứng thứ tự với các nguyên tố hư không, khí, lửa, nước và đất (không, khí, hoả, thủy, và địa đại). Những khí thứ cấp, vị trí ở trong năm trung tâm lớn đã nói đến trước đây, di cư và biến mất cùng một thời gian với những khí chính yếu. Sự phá hủy của những khí thứ cấp gây ra sự biến mất từng cấp bậc của các nhận thức cảm quan (sense perceptions)

Sự phá hủy của năm khí này duyên hội xảy ra đồng thời với sự hoà tan hoặc tái hấp thu của các nguyên tố (=các đại), nó xảy ra từ cái thô nhất đi tới cái vi tế nhất. Thế nên, nguyên tố đất hấp thu vào trong nguyên tố nước, nước vào trong lửa, rồi thì lửa vào trong khí, và khí vào trong thức (consciousness=thức; tâm thức; ý thức).

Sự hoà tan bắt đầu với sự tái hấp thu của nguyên tố đất (chất thể cứng) vào nguyên tố nước (chất thể ướt). Những triệu chứng vật lí hoặc bên ngoài gồm sự biến mất sức mạnh vật lí, thế nên cái đầu có khuynh hướng ngả xuống và phần ngực bụng thụt hóp lại; sự gấp lại và duỗi ra của tứ chi trở thành khó khăn và không còn có thể tiếp tục ngồi nữa. Đàm và nước miếng chảy ra ngoài.

Nhiều dấu hiệu bên trong tương ứng với những cảm quan trải nghiệm bởi người sắp chết trong suốt giai đoạn này. Tâm thiếu sự viên minh giác chiếu trong sáng, dường như nó bị phóng vào cõi đại u minh (The mind lacks clarity, as though it were plunged in great darkness). Người sắp chết có một sự thôi thúc muốn cử động, đổi vị trí hoặc trải đặt lại những chăn, vải giường, nhưng thân thể không còn khả năng nữa. Thật ra, thân bất động trở thành rất chậm chạp; người sắp chết cảm thấy nặng nề, dường như bị đo ván nằm luôn và bị chôn vùi dưới một trái núi. Hai mắt không còn thể nhìn thẳng nữa, có khuynh hướng trợn ngược vào trong đầu.

Những triệu chứng vi tế nhất hoặc ẩn mật là những trải nghiệm nhìn thấy hoặc những linh ảnh, chúng bắt đầu phát triển suốt thời gian có các triệu chứng bên ngoài và bên trong. Trong thời tái hấp thu thứ nhất này, linh ảnh của người sắp chết thì không vững bền, có vẻ như nhìn vào một ảo ảnh sóng nắng (mirage), hoặc có một sai lệch thị giác (visual distortion), giống như sự hiện tướng của nước trong một sa mạc nắng cháy nung trời hoặc dưới một mặt trời đổ lửa (During this first reabsorption, the dying person‘s vision is unstable, as if looking at a mirage, or there is a visual distortion, like the appearance of water in a scorching desert or under a blazing sun).

Triệu chứng bên ngoài của giai đoạn thứ nhì, nó tương ứng với sự tái hấp thu của nguyên tố nước vào trong nguyên tố lửa (sức nóng), là sự khô mũi, miệng và hai lỗ mũi, cùng với sự mất mát cao nhất là mất sự kiểm soát cơ thắt, nó gây ra sự không kiềm chế được, mất chủ động trong đại tiện, tiểu tiện. Những triệu chứng bên trong là tâm ý cực kì kích động: những tâm niệm khổ đau quấy động tâm. Người sắp chết cảm thấy dường như người ấy bị một giòng nước lũ mang đi và có cảm giác trong trạng thái chẳng còn thấy gì cả, và nghe âm thanh của một thác nước cuồn cuộn. Ở mức ẩn mật, linh ảnh của người sắp chết thì đầy sương mù và nhận thức sự sự vật vật như là pha trộn vào trong những đám mây khói.

Giai đoạn thứ ba là sự hoà tan của nguyên tố lửa vào trong nguyên tố khí. Những triệu chứng bên ngoài là sự giá lạnh của miệng và hai lỗ mũi, sự thở bị thu ngắn lại (shortened breathing), và mất các cảm giác liên tưởng trong tâm với sinh lực nhiệt bị giảm xuống, nó rời khỏi tay chân, bắt đầu từ cực biên (đầu ngón tay, đầu ngón chân) và tái hấp thu từ mặt ngoài đi tới cốt lõi của thân thể. Những triệu chứng bên trong gồm có sự mất tạm thời tính viên minh giác chiếu của tâm ý (mental clarity) và tính giác quang chiếu (quang = chủ thể năng chiếu) (lucidity). Sự sự vật vật không còn được thấy sáng tỏ nữa. Những triệu chứng ẩn mật gồm có những linh ảnh của quang sắc rực rỡ chói lọi (blazing light), dường như vũ trụ trong lửa cháy. Cái này thì cùng phối hợp với những ánh sáng lấp lánh giống như những con đom đóm.

Kế đến là sự tái hấp thu của nguyên tố khí vào trong tâm thức. Những triệu chứng bên ngoài là gắng sức để thở, thở hổn hển với những lần thở ra dài và những lần hít vào thì ngắn, tốn sức (The outer symptoms are gasping for breath with long exhalations and short, labored inhalations). Hai mắt thì trợn vào trong; sự thở chậm dần và đi đến chấm dứt. Những triệu chứng bên trong là hiện tướng của những ảnh hiện tương ứng với tác nghiệp của người sắp chết.Vào thời điểm chết, thân thể thì cực kì yếu đuối; tuy nhiên tâm thì rất mạnh mẽ. Cái yếu đuối của thân thể kết hợp với sức mạnh của tâm tạo ra những hiện tướng hư huyễn kịch liệt. Nếu người sắp chết đã tạo tác nhiều hành động tiêu cực trong đời người ấy, những linh ảnh này sẽ phản chiếu chúng và gây nên sợ hãi cực kì. Tỉ dụ, một kẻ đã giết nhiều súc sinh có thể thấy những súc sinh này đang săn đuổi và đang nuốt gọn người ấy.Vào thời điểm đó, thân và ngữ của người ấy có thể biểu tỏ sự khủng khiếp bằng cách thốt ra những kêu khóc hoặc rên rỉ thê thiết. Trái lại, một hành giả Chính Pháp có nghiệp tích cực có thể trải nghiệm giai đoạn này rất hạnh phúc, gặp nhiều thánh giả quang minh sáng chói. Những dấu hiệu hoặc triệu chứng bên trong ở giai đoạn này là nghe âm thanh của gió cực kì vũ bão, vù vù đầy hồi hộp, hoặc ầm ầm lăn chuyển rất ầm ĩ. Những triệu chứngcảm giác rằng người ấy đang biến mất hoặc đang phai mờ và trải nghiệm của một hiện tướng tương tự với ánh sáng đỏ rực của một cây nến.

Sự hoà tan bên trong

Tâm thức lúc đó hòa tan vào tính không (=chân không diệu viên). Ở điểm này, thân thể có một chút màu sắc, sự thở ngừng hoàn toàn, và sức nóng tụ hợp lại ngay bên phiá trên trái tim. Đây là thời điểm kết thúc của chết. Sự hoà tan của tâm thức vào trong tính không thì được đặc hữu hoá bởi những trải nghiệm quang minh được gọi là tính giác cảnh chiếu trắng, tính giác cảnh chiếu đỏ, và tính giác cảnh chiếu đen (quang: chủ thể năng chiếu; cảnh: đối tượng sở chiếu). Chúng thì tương ứng với sự tái hấp thu của những nguyên lí nam và nữ chứa trong thân thể.

(Dissolution of the consciousness into emptiness is characterized by luminous experiences called white luminosity, red luminosity, and black luminosity. These correspond to the reabsorption of the masculine and feminine principles containedin the body)

Thân vi tế của chúng ta thì thực sự kiến lập bởi hai nguyên lí, nam và nữ, vị trí tương ứng nam ở đỉnh đầu và nữ ở mức ngang của rốn.Vào thời điểm chết, chúng tái hấp thu vào nhau ở mức ngang trái tim.

Khởi sự, nguyên lí nam đi xuống từ đỉnh đầu hướng về trái tim. Vào thời điểm này, trải nghiệm tính giác cảnh chiếu trắng xảy ra, nó thì tương tự như quang sắc của mặt trăng.

Sự tái hấp thu của tâm thức xảy ra với những tâm niệm (= niệm tưởng) của nó. Những tâm niệm này có thể giản lược xuống thành tám mươi (80) loại ý niệm, trong đó ba mươi ba (33) sinh khởi từ sân (đối nghịch), bốn mươi (40) từ tham (dục tham), và bảy (7) từ vô trí hoặc si (=ngu si). Ba mươi ba (33) loại tâm niệm nối kết với đối nghịch, ghét bỏ, và giận dữ tan biến trong giai đoạn thứ nhất. Ngay cả nếu kẻ thù dữ dội nhất của chúng ta hoặc kẻ ám sát cha mẹ của chúng ta có đứng trước mặt chúng ta, chúng ta sẽ không còn một chút nào sân hận với kẻ đó.

Kế đến, nguyên lí nữ đỏ tái hấp thu, từ rốn đi lên, hướng về trái tim ; đây là trải nghiệm của tính giác cảnh chiếu đỏ giống như quang sắc của mặt trời. Bốn mươi (40) loại tâm niệm nối kết với dục (desire: dục) và luyến (attachment ; luyến: hâm mộ, ưa thích,yêu mến, quấn quýt, không rời ra, không quên) chấm dứt ở giai đoạn này. Ngay cả nếu một vị trời nam hoặc nữ lộng lẫy, rực rỡ, duyên dáng, quyến rũ, nếu có xuất hiện, chúng ta cũng chẳng còn trải nghiệm bất cứ một dục nào.

Khi hai nguyên lí nam nữ tái hấp thu trong tim, tâm thức đánh mất tính năng nhận biết sáng tỏ của nó. (When the two principles reabsorb in the heart, the consciousness loses its faculty of knowing). Đây là trải nghiệm của tính giác cảnh chiếu đen, tương tự như một màu lam thẫm nửa đêm hoặc một đêm tối thẫm (This is the experience of black luminosity, similar to a midnight blue or a dark night). Trong một người bình thường, tâm chìm vào trong đen tối toàn thể. Ở thời điểm này bảy (7) loại tâm niệm nối kết với vô trí (mental dullness) hoặc ngu si (stupidity) chấm dứt. Bất cứ cảnh nào có thể sinh khởi trong tâm sẽ chẳng còn được xem là tốt hoặc xấu.

Toàn thể tiến trình hoà tan, từ lúc khởi đầu cho tới lúc trải nghiệm tính giác cảnh chiếu đen được gọi là trung hữu của thời điểm chết.

Vào lúc chấm dứt của sự hoà tan, quang sắc giác chiếu (clear light), hoặc bản chất thật của tâm, được khai hiển. Tất cả hữu tình có một trải nghiệm của quang sắc giác chiếu, nhưng hữu tình bình thường không nhận định được nó. Đối với người đó, sự nhận định đó thì bị thay thế bởi một thời kì vắng mặt của trải nghiệm, hoặc bất thức (unconsciousness). Đó là sự thiếu vắng của thật chứng, hoặc vô minh, nó che lấp hữu tình bình thường trong suốt giai đoạn của bất thức hoàn toànbất thức hoàn toàn thay thế trải nghiệm của quang sắc giác chiếu. Nhưng ngay cả nếu nó cực kì thoáng qua và đi mất không được nhận ra, trải nghiệm này của quang sắc giác chiếu xảy ra với mọi hữu tình.

Về một mặt khác, nếu một người đã nhận định được bản chất thật của tâm trong cuộc đời người ấy—đó là đã thật chứng đại thủ ấn mahamudra – tâm có thể nhận định được quang sắc giác chiếu căn bản (= bản giác) vào lúc thời-điểm-của-trung-hữu-chết kết thúc và, dù ở bất cứ mức độ nào sự nhận định này thì vững bền, có thể duy trì hấp thu vào nó.

Đối với một hành giả du già như thế, quang sắc giác chiếu con gái, nó được trải nghiệm trong đời sống người ấy và quang sắc giác chiếu bản mẫu hợp nhất. Đây là trạng thái phật (=phật quả).

(For such a yogi the daughter clear light, which is experienced during his or her lifetime, and the fundamental mother clear light unte. This is the state of buddhahood)

-------------------------------

Chú thích

1. Emptiness; Openness; Skt. sunyata; tính không; chân không; chân không diệu viên; chân không diệu hữu.

Clarity; lucidity: Skt. prabhasvara; viên minh; giác chiếu;viên minh giác chiếu; tính giác viên chiếu; tính giác quang chiếu

Clear light; clear light transparence; Skt. prabhasvara; quang sắc giác chiếu ;quang minh giác chiếu; quang minh tự chiếu, tính giác viên chiếu ; linh tâm tự chiếu; thường tịch quang;…

Nếu dịch Light (trong Clear Light) là ánh sáng, thì độc giả có thể hiểu nhầm, như là ánh sáng của một đường hầm (light in the tunnel) – nên Light ở đây dịch là quang sắc (transparence) 

Luminosity: tính giác cảnh chiếu (quang: chủ thể năng chiếu; cảnh: đối tượng sở chiếu)

Prabha:Skt. quang minh

Daughter clear light : quang sắc giác chiếu con gái

Clear light fundamental mother: quang sắc giác chiếu bản mẫu. (bản mẫu = bản nguyên mẫu thân; mẫu thân vô thủy vô chung; mẫu thân muôn thuở )

Khi người con gái (= quang sắc giác chiếu con gái), ngày tháng lang thang sáu cõi, với cái tâm lang thang, dấu chân viễn mộng chỉ là phù vân, vào thời điểm trung hữu chết, li biệt với cái thân tứ đại, nhận biết sáng tỏ (=tuệ tri) quang sắc giác chiếu bản mẫu (bản trí, bản giác, trí tuệ bát nhã, tính bản phật phổ hiền, thường tịch quang, tự tánh di đà,…) chính là bà mẹ muôn thuở, bản lai diện mục, ta về gặp lại tình ta, và hợp nhất với bà mẹ muôn thuở, là trạng thái phật.

Wind of karma and becoming: khí nghiệp và tái sinh hữu. (gió nghiệptái sinh)

2. Quang cảnh: quang là chủ thể năng chiếu; Cảnh là đối tượng sở chiếu. Nếu năng sở (=chủ khách) hợp làm một thì gọi là Quang cảnh nhất như.

Nếu tâm chiếu vật và cảnh sở chiếu không đối lập nhau mà dung hợp nhau để đạt đến cảnh giải thoát, thì gọi là quang cảnh câu vong (=quang cảnh đều mất), Quang cảnh mẫn tuyệt (= quang và cảnh dứt bặt)

3. Kalu Rinpoche giảng:

Bản chất của tâm thanh tịnh có thể được nghĩ đến trong trạng thái có ba phương diện bản chất căn bản, kết hợp, và đồng thời:

1. chân không diệu viên [openness; emptiness ; open to possibilities for manifestations; Skt. sunyata; chân không là rỗng thông lìa các tướng và diệu viên là mở ra các khả hữu cho biến hiện -- gặp sắc trần thì cái thấy biến hiện, gặp thanh trần thì cái nghe biến hiện, v.v.. nên gọi diệu viên],

2. quang minh viên chiếu (clarity; lucidity; Skt. prabhasvara; quang minh viên chiếu; tràn đầy sáng tỏ chiếu khắp thường trụ; thường tịch quang…), và 

3. diệu minh biện biệt vô ngại (sensitivity; nhận biết phân biệt rành rẽ không bị ngăn ngại).

---------------------

Nguồn: Đặc san Hiện Thực. số 23/ 2011 . Năm thứ 8. Kính mừng Phật đản 2635.
Vietnamese Buddhist Magazine. Quán Âm Buddhist Monastery.

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Kalu Rinpoche

The Bardo of the Moment of Death

When the bardo of the moment of death appears may I abandon attachments and mental fixations, and engage without distraction in the path which the instructions make clear.
Mind projected into the sphere of uncreated space, separated from body, from flesh and blood, I will know that which is impermanence and illusion.
Padmasambhava. The Tibetan Book of the Dead.

-----------------------------------------------------------

The different vital factors that sustain life deteriorate and disappear at the end of a lifetime. The extinguishing of life is described as the dissolution or outer reabsorption of the principal elements – earth, water, fire, and air – and the inner reabsorption of the different types of thoughts and cognitions. During this bardo, the various winds that animate the body are destroyed.

In general, our body is controlled by five main winds, called the life-bearing wind, the upward-moving wind, the pervasive wind, th fire-dwelling wind, and the downward-voiding wind. These winds animate the physical body, and their proper functioning assures good health. At the moment of death, another wind manifests, called the wind of karma and becoming. It is usually diffused throughout the whole body. When it manifests, it upsets and interferes with other winds; different pathological symptoms appear as the body approaches death.

Outer Dissolution

The wind that regulates the absorption of nourishment, or the fire-dwelling wind, is the first wind to be disturbed. It leaves its location in the navel cakra and ceases to function, which means that we can no longer be nourished by food, nor can food that is absorbed be digested; nutrients are quickly rejected.

Next, the life-bearing wind is disturbed and leaves its location at the heart, which results in emotional distress and a lack of mental clarity. This disturbance next affects the downward-voiding wind of the lower abdominal functions so that retention of feces and urine is disrupted, causing incontinence or intestinal obstruction.

Then the upward-moving wind is impaired, causing short, labored breathing and difficulty with swallowing. Finally, the pervasive wind is affected, which brings on unpleasant physical sensations as well as difficulty moving the limbs.

The disturbances of these winds cause them to leave their usual location in the body.This migration brings about the destruction of the subtle channels through which the winds normally circulate, as well as their two main centers or wheels, cakras in Sanskrit.

The destruction of these channels and their centers occurs concomitantly with a deterioration of the body’s principal elements and the physical aspects connected with them: physical body, respiration, body temperature, blood, and flesh, corresponding respectively with the elements of space, air, fire, water and earth. The secondary winds, located in the five great centers already mentioned, migrate and disappear at the same time as the main winds.The destruction of these secondary winds causes the gradual disappearance of the sense perceptions.

The destruction of the five winds happens at the same time as the dissolution or reabsorption of the elements, which occurs from the grossest to the most subtle. So, the earth element absorbs into water element, water into fire, then fire into air, and air to consciousness.

The dissolution begins with the reabsorption of the earth element into the water element. The physical or outer symptons include the disappearance of physical strenghth, so that the head has a tendency to fall and the trunk of the body caves in; flexing and extending the limbs becomes difficult and remaining seated is no longer possible. Phlegm and saliva flow out.

Various inner signs correspond to sensations experienced by the dying person during this phase. The mind lacks clarity, as though it were plunged in great darkness. The dying person has the urge to move, to change position or rearrange the covers, but is physical unable to. In fact, the immobile body becomes very sluggish; the dying person feels heavy, as though knocked down and buried under a mountain. The eyes, which can no longer see straight, tend to roll up in the head.

The most subtle or secret symptoms are visual experiences or visions, which also begin to develop during the time of the outer and inner symptons. During this first reabsorption, the dying person’s vision is unstable, as if looking at a mirage, or there is a visual distortion, like the appearance of water in a scorching desert or under a blazing sun.

The outer symptom of the second phase, which corresponds to the reabsorption of the water element into the fire element, is the drying out of the nose, mouth, and nostrils, along with the eventual loss of sphincter control, which results in incontinence. Inner symptoms are extreme mental agitation; unpleasant thoughts disturb the mind. The dying person feels as though he or she is being carried away by a torrent and has the sense of falling and being swallowed up, and hears the sound of a violent waterfall. At the secret level, the dying person’s vision is foggy and perceives everything as blending into clouds of smoke.

The third phase is the dissolution of the fire element into the air element. Outer symptoms are the chilling of the mouth and nostrils, shortened breathing, and a loss of feeling associated with decreased vital heat, which leaves the arms and legs starting from the extremities and reabsorbs from the exterior to the core of the body. Inner symptoms include the momentary loss of mental clarity and lucidity. Things are no longer seen clearly. Secret symptoms include visions of blazing light , as if the universe were on fire. This is combined with visions of sparkling lights resembling fireflies.

Next comes the reabsorption of the air element into consciousness. The outer symptoms are gasping for breath with long exhalations and short, labored inhalations. The eyes roll back; breathing slows and approaches its eventual cessation.Inner symptoms are the appearance of apparitions that correspond to the dying person’s karma. At the moment of death, the body is extreme frail; however, the mind is very strong. This physical weakness combined with the strength of the mind produces very intense illusory appearances. If the dying person has performed many negative actions in his or her lifetime, these visions will reflect them and cause extreme fear. For example, a murderer who has killed many animals might see those animals chasing and devouring him. At that moment, his body and speech might show terror by emitting cries or moans. By contrast, a Dharma practictioner whose karma is positive could experience this phase very happily, meeting various luminous divine beings. Inner signs or symptoms at this phase are hearing the sound of an extremely violent wind, a throbbing hum, or a very loud rumble. Secret symptoms are the sense that one is vanishing or fading and the experience of an appearance similar to the glow of a candle.

Inner Dissolution

The consciousness then dissolves into emptiness. At this point, the body takes on a bit of color, breathing stops completely, and heat gathers just above the heart. This is the final moment of death. Dissolution of the consciousness into emptiness is characterized by luminous experiences called white luminosity, red luminosity, and black luminosity. These correspond to the reabsorption of the masculine and feminine principles contained in the body.

Our subtle body is actually made of two principles, masculine and feminine, located respectively at the crown of the head and at the level of the navel.At the moment of death, they absorb into each other at the level of the heart.

Initially, the white masculine principle descends from the crown of the head toward the heart. At this moment, the experience of white luminosity occurs, which is similar to the light of the moon.

The reabsorption of consciousness occurs with its thoughts. These can be reduced to eighty types of conceptions, of which thirty-three arise from aversion, forty from desire, and seven from mental dullness or stupidity. The thirty-three kinds of thoughts connected with aversion, hatred, and anger dissolve during this first phase. Even if our fiercest enemy or our parents’ assassin were in front of us, we would have no more aversion toward him.

Next, the red feminine principle reabsorbs, ascending from the navel toward the heart; this is the experience of red luminosity much like the light of the sun. The forty types of thought connected with desire and attachment cease during this phase. Even if a gorgeous, charming god or goddess were to appear, we would no longer experience any desire.

When the two principles reabsorb in the heart, theconsciousness loses its faculty of knowing. This is the experienceof black luminosity, similar to a midnight blue or a dark night. In an ordinary being, the mind sinks into total darkness. At this moment the seven kinds of thought connected with mental dullness or stupidity cease.Any spectacle that might arise in the mind will no longer be considered good or bad.

This whole process of dissolution, from the beginning up to the experience of black luminosity, is called the bardo of the moment of death.

At the end of the dissolution, the clear light, or mind’s basic nature, is revealed. All beings have an experience of the clear light, but the ordinary being does not regconize it. For him or her, that recognition is replaced by a period of absence of experience or unconsciousness.It is the lack of realization, or ignorance, which obscures the ordinary being during this phase of complete unconsciousness that replaces the experience of the clear light. But even if it is extremely fleeting and goes unrecognized, this experience of the clear light occurs to every being.

On the other hand, if a person has recognized the true nature of mind within his or her lifetime – that is, has realized mahamudra – the mind can recognize the fundamental clear light at this final moment of the bardo of the death and, to whatever degree this recognition is stable, can remain absorbed in it.

For such a yogi, the daughter clear light, which was experienced during his or her lifetime, and the fundamental mother clear light unite. This is the state of buddhahood.

-----------------------

Source: Kalu Rinpoche. Luminous Mind. The Way of the Buddha. Wisdom, 1997.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14448)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14160)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39766)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15328)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13895)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13942)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37373)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40088)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14655)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14319)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12673)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14861)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19231)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13816)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42653)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13853)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37280)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12703)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11784)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22573)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12524)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12579)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13075)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13124)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17287)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33282)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14850)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11058)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12478)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11976)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11946)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13153)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51295)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12395)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6624)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30446)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13133)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13344)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30717)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19408)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12496)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11867)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14778)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13210)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13213)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30722)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12055)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11849)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12740)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31926)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29441)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11798)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11758)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10448)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11568)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9651)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9679)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 10009)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35442)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10169)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10107)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10062)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9681)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27831)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15536)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9874)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13693)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9857)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9715)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18355)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12054)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9586)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9704)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8729)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8934)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8433)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11490)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31773)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12352)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13344)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8851)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9463)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11956)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9242)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9090)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9695)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29384)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9098)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9121)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33289)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8442)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30656)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31267)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37152)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32308)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9942)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27127)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8461)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19257)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 13028)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant