Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

10. Linh chánh pháp cửu trụ

31 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 13208)
10. Linh chánh pháp cửu trụ

BÀI VĂN KHUYÊN PHÁT TÂM BỒ ÐỀ
勸發菩提心文

Đại Sư Thật Hiền Soạn
Hòa Thượng Tuyên Hóa Lược Giảng

Chánh tông phần

X. LINH CHÁNH PHÁP CỬU TRỤ

 

Nguyên văn:

云 何令正法久住?謂我世尊,無量劫來,為我等故,修菩提道。難行能行,難忍能忍,因圓果滿,遂致成佛。既成佛已,化緣周訖,入於涅槃,正法像法,皆已滅盡, 僅存末法,有教無人。邪正不分,是非莫辨,競爭人我,盡逐利名。舉目滔滔,天下皆是。不知佛是何人?法是何義?僧是何名?衰殘至此,殆不忍言!每一思及, 不覺淚下。我為佛子,不能報恩,內無益於己,外無益於人;生無益於時,死無益於後。天雖高,不能覆我;地雖厚,不能載我。極重罪人,非我而誰?

Âm Hán Việt:

Vân hà linh chánh pháp cửu trụ? Vị ngã Thế Tôn, vô lượng kiếp lai, vị ngã đẳng cố, tu Bồ đề đạo. Nan hành năng hành, nan nhẫn năng nhẫn, nhân viên quả mãn, toại trí thành Phật. Ký thành Phật dĩ, hóa duyên châu cật, nhập ư Niết bàn. Chánh pháp tượng pháp, giai dĩ diệt tận, cẩn tồn mạt pháp, hữu giáo vô nhân. Tà chánh bất phân, thị phi mạc biện, cạnh tranh nhân ngã, tận trục lợi danh, cử mục thao thao, thiên hạ giai thị. Bất tri Phật thị hà nhân? Pháp thị hà nghĩa? Tăng thị hà danh? Suy tàn chí thử, đãi bất nhẫn ngôn! Mỗi nhất tư cập, bất giác lệ hạ. Ngã vi Phật tử, bất năng báo ân, nội vô ích ư kỷ, ngoại vô ích ư nhân, sanh vô ích ư thời, tử vô ích ư hậu. Thiên tuy cao, bất năng phú ngã; địa tuy hậu, bất năng tải ngã. Cực trọng tội nhân, phi ngã nhi thùy?

Dịch:

Thế nào là làm cho Phật pháp tồn tại lâu dài? Ðức Thế Tôn của ta, từ vô lượng kiếp đến nay, vì chúng tatu đạo Bồ đề, Ngài đã làm việc khó làm, nhẫn sự khó nhẫn, nhân tròn, quả mãn, mới được thành Phật. Sau khi thành Phật, giáo hóa tròn đầy, nhập vào Niết bàn. Nay thì thời kỳ Chánh pháp tượng pháp đã diệt tận, chỉ còn tồn tại thời kỳ mạt pháp. Giáo pháp còn đó mà không người hành trì, tà chánh không phân, thi phi lẫn lộn, tranh giành nhân ngã, mãi chạy theo danh lợi. Mở mắt ra là thấy đầy dẫy thiên hạ đều là như vậy. Chẳng ai biết Phật là bực nào, Pháp là nghĩa gì, Tăng là người chi. Suy tàn đến thế, bất nhẫn thốt ra lời. Mỗi khi nghĩ đến, bất giác rơi lệ. Ta là con Phật mà ta không thể báo đáp ân đức của ngài. Trong vô ích cho mình, ngoài vô ích cho người, sống vô ích đương thời, chết vô ích mai sau. Trời tuy cao cũng không che nổi ta, đất tuy dày cũng khó chở ta. Tội nhân cực trọng, không phải ta thì là ai?

 

Giảng:

Vân hà linh chánh pháp cửu trụ? Vân hà là như thế nào ? Như thế nào khiến cho chánh pháp tồn tại lâu dài ? khiến cho chánh pháp không bị diệt vong?

 

Vị ngã Thế Tôn, vô lượng kiếp lai : Vị là những điều nói ra. Thế Tôndanh hiệu khác của Ðức Phật. Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni từ vô lượng kiếp cho đến nay, vị ngã đẳng cố, tu Bồ đề đạo : Ðức Phật tại sao muốn tu hành thành Phật ? Ngài muốn tu hành thành Phật vì để cứu độ tất cả chúng ta lìa khổ được vui, khiến chúng ta đều được liễu thoát sanh tử, không bị luân chuyển trong vòng luân hồi sanh tử, cho nên Ðức Phật mới "tam kỳ tu phúc huệ, bách kiếp chủng tướng hảo", ba tăng kỳ tu phước huệ, trăm kiếp vun trồng tướng tốt.

Tam kỳ, tức là ba đại tăng kỳ kiếp ; A tăng kỳ là tiếng Phạn, Tàu dịch là "vô lượng số". Ba đại A tăng kỳ kiếp tức là ba số lớn vô lượng. Vô lượng số này là một trong mười sáu số mục lớn, vậy ba vô lượng số lớn, bạn thử nghĩ xem thời gian bao lâu ? Rất dài rất dài. Trong ba vô lượng số kiếp này, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni vì để giáo hóa chúng sanh, vì để tu thành Phật, vì để phát tâm Bồ đề, Ngài xả sanh rồi lại thọ sanh, cho nên mỗi hạt vi trần đều là nơi Ðức Phật bỏ sanh mệnh. Như xả thân cứu cọp, Ðức Phật nhìn thấy một con cọp già tuy rất độc ác, nhưng đã sắp chết đói, Ðức Phật ngay cả thân mệnh của mình cũng không cần, cho cọp ăn khiến nó được sống, sự hy sinh vĩ đại này, không ai có thể sánh bằng. Chúng ta đều là những người tham sống sợ chết, không một ai dám hy sinh mạng sống, thành tựu cho người khác, khiến người khác được sống. Vậy thì Ðức Phật ở trong thời gian dài đăng đẳng ba đại A tăng kỳ kiếp, đời đời kiếp kiếp đều lấy sanh mạng bố thí cho chúng sanh, cho nên chúng ta cần phải báo đáp ân sâu của Phật. Như chúng ta hiện nay, xưa kia hoặc là đã ăn thịt của Phật, uống máu của Phật ; cho nên chúng ta hiện nay tin Phật, cần nên báo đáp ân sâu của Phật. Ðức Phật vì muốn chúng ta được sống, phải hy sinh thân mạng của mình, vì thế chúng ta cần phải nhớ ơn Ðức Phật.

 

Nan hành năng hành, nan nhẫn năng nhẫn : tại sao gọi là làm việc khó làm ? Chính là những việc mà người thường làm không được, Ngài có thể làm được. Như xả bỏ đầu mắt não tủy, đầu mắt của mình đều có thể bố thí cho người. Không phải chết mới bố thí cho người, đang sống cũng có thể bố thí. Bạn cần con mắt, Ngài sẽ bố thí mắt cho bạn. Bạn có bệnh, cần có não người để trị, Ngài sẽ không cần đến sanh mạng của mình đem não bố thí cho bạn, cứu độ bạn. Tủy là cốt tủy ; cốt tủy của mình cũng bố thí cho người. Không những đầu mắt não tủy, mà quốc thành thê tử cũng bố thí luôn. Quốc là đất đai của Ngài cũng không cần, nhường cho kẻ khác. Thành là thành trì, tài sản của mình cũng nhường cho kẻ khác. Vợ thì mọi người rất khó xả bỏ, Ngài cũng có thể xả bỏ tặng cho người. Con, cũng có thể tặng cho người. Nội tài là đầu mắt não tủy Ngài có thể bố thí ; ngoại tài là quốc thành thê tử Ngài cũng có thể bố thí. Có người cần chăng ? Ngài đều bố thí cho. Vì thế, không ai có thể sánh được với Ngài, không ai có thể hy sinh được như Phật. Cho nên Phật tu đạo Bồ đề là làm những việc khó làm, nhẫn những việc khó nhẫn, những việc mà người ta không thể nhẫn Ngài đều có thể nhẫn.

 

Nhân viên quả mãn, toại trí thành Phật : Ngài trồng nhân đã được viên mãn cho nên quả báo cũng được viên mãn thành tựu, vì thế thành tựu Phật quả. thành Phật dĩ, hóa duyên châu cật, nhập ư Niết bàn : Sau khi đã thành Phật, những chúng sanh cần giáo hóa đều giáo hóa xong, Ngài nhập Niết bàn. Thế nào là Niết bàn ? Niết bàn là không sanh không diệt, không có sanh tử, liễu thoát sanh tử.

 

Chánh pháp tượng pháp : khi Ðức Phật còn tại thếthời kỳ chánh pháp ; thời kỳ chánh pháp mọi người đều tu hành, mọi người đều có thiền định, đều sẽ khai ngộ. Thời đó tu hành thì sẽ chứng quả ; chứng quả thì sẽ liễu thoát sanh tử. Thời kỳ tượng pháp, thì chỉ có hình tượng, người không chân chánh tu hành. Thời kỳ chánh pháp thì thiền định kiên cố, vừa ngồi thì có thể nhập định, còn đến đời tượng pháp thì sao ? Chỉ là da bên ngoài, chính là chùa chiền kiên cố ; lúc đó mọi người đều ưa thích xây dựng chùa chiền, tạo tượng Phật, nên gọi là thời kỳ tượng pháp. Thời kỳ chánh pháp một ngàn năm, tượng pháp cũng một ngàn năm, nay là thời đại mạt pháp. Mạt pháp chính là pháp đã ở trên đầu ngọn cây, nên vô cùng nhỏ bé, ít ỏi. Chánh pháp chính là thời kỳ gốc cây ; tượng phápthời kỳ cành cây ; còn mạt pháp thì đã lên ngọn cây. Thời kỳ mạt pháp có bao lâu ? thời kỳ mạt pháp là một vạn năm. Vì thế trừ đi hiện tại, còn hơn tám ngàn năm đều là thời kỳ mạt pháp.

Nhưng trong thời kỳ mạt pháp, nếu có người chân chánh tu hành, thì đó là chánh pháp trong thời mạt pháp ; thời kỳ mạt pháp có người ham thích xây dựng chùa chiền, tu sửa chùa chiền, tạo tượng Phật, đó là tượng pháp trong thời mạt pháp ; vậy nếu trong thời mạt pháp không có người tu hành, cũng không có người tạo tượng Phật, xây dựng chùa chiền, thì thật đúng là thời kỳ mạt pháp.

Ðến khi pháp sắp diệt, tất cả kinh Phật đều hủy diệt, chỉ còn bộ "kinh A Di Ðà" vẫn còn tồn tại trên thế giới này. "Kinh A Di Ðà" còn trụ trên thế giới này năm trăm năm, rồi sau đó ngay cả "Kinh A Di Ðà" cũng không còn, lúc đó chỉ còn một câu "A Di Ðà Phật". Câu danh hiệu "A Di Ðà Phật" lại trụ trên thế gian một trăm năm độ vô lượng chúng sanh, sau đó Phật pháp sẽ không còn nữa, không ai biết được câu niệm Phật, cái gì cũng không hiểu. Chúng ta hiện nay vẫn là thời tốt, tuy ở thời kỳ mạt pháp vẫn có thể dụng công tu hành.

Cho nên nay là chánh pháp tượng pháp giai dĩ diệt tận, cẩn tồn mạt pháp : thời kỳ chánh pháp tượng pháp đã diệt tận, chỉ còn tồn tại thời kỳ mạt pháp mà thôi.

 

Hữu giáo vô nhân : Thời kỳ mạt phápPhật giáo tồn tại, nhưng không có người tu hành ; ngôn hạnh của người tu hành đều trái ngược với giáo nghĩa của Phật giáo. Người xuất gia vốn không nên ăn thịt, uống rượu, có nữ nhân, nhưng họ lại phạm vào những việc này giống như người tại gia, đó có nghĩa là không còn pháp nữa. Hữu giáo có nghĩa là còn có danh từ Phật giáo, nhưng không có người tu hành. "Hữu nhân" là người tu hành chân chánh, không nhất định nói là người hoằng pháp. Không có người tu hành chân chánh, làm gì có người hoằng pháp ? tự nhiên sẽ không có. Thời này thì như thế nào ? Tà chánh bất phân, thị phi mạc biện : như những người mạo hiểm để cầu lợi danh, những người xuất gia mà không làm việc xuất gia, đó đều là tà chánh không phân. Ví dụ có một vài ngoại đạo, họ cho rằng : "Ðây cũng là lễ Quán Âm mà ! cũng là bái Quan Ðế mà ! lại là lễ cái gì cái gì, v.v…", những điều như thế. Họ không biết cái nào là tà ? cái nào là chánh ? tà chánh không phân, thị phi cũng không biện biệt được.

 

Cạnh tranh nhân ngã, tận trục lợi danh : Thường tranh hơn thua, yếu mạnh, cạnh tranh nhân ngã thị phi, đều tranh danh tranh lợi, không phải chấp trước vào danh thì chấp vào lợi, cứ mãi chạy theo danh lợi. Cử mục thao thao, thiên hạ giai thị : mở mắt ra mà nhìn, khắp thiên hạ đều là như thế, thao thao vô tận như biển cả mênh mông bát ngát, những người này đều làm những việc danh lợi, đeo đuổi danh lợi, vì thế những vị theo tôi xuất gia, mà còn chạy theo danh lợi thì tuyệt đối không thể được ! Quyết không nên chung dòng nhơ bẩn, cùng một giuộc xấu xa. Chúng ta tuy ở trong thời đại mạt pháp, nhưng quyết làm một người đệ tử Phật chân chánh.

 

Bất tri Phật thị hà nhân? : không biết Phật là gì ? Pháp thị hà nghĩa? : Pháp có nghĩa là muốn người dứt các điều ác, tăng trưởng điều lành, sửa đổi lỗi lầm, làm mới cuộc đời, muốn người hiểu rõ, nhưng mà họ không hiểu, càng học càng hồ đồ, càng học càng không hiểu biết. Tăng thị hà danh? : Tăng có nghĩa là gì ? Ngay Phật Pháp Tăng tam bảo mà cũng không biết. Thế nào là Tăng ? không phải một người gọi là Tăng, mà bốn người trở lên mới được gọi là Tăng. Người thường cho rằng một người cũng gọi là Tăng, đó là sai lầm ; Tăng là mọi người cùng hòa hợp với nhau, lục hòa đồng trụ.

 

Suy tàn chí thử, đãi bất nhẫn ngôn! : Ngay cả Phật Pháp Tăng cũng không hiểu, suy tàn đến mức này khiến cho tôi thật nói không nên lời, tôi không có cách nào nói ra được. Mỗi nhất tư cập, bất giác lệ hạ : Mỗi khi nghĩ đến việc này, lệ rơi như mưa, lệ rơi như suối.

 

Ngã vi Phật tử, bất năng báo ân : ta là người xuất gia, là đệ tử của Phật, mà không thể báo đáp ân đức của Ngài. Nội vô ích ư kỷ, ngoại vô ích ư nhân : đối với bên trong mà nói, ta không có nỗ lực tu hành, đối với mình không có lợi ích ; bên ngoài cũng không lợi ích cho người. Sanh vô ích ư thời, tử vô ích ư hậu : Khi ta còn sống thì vô ích đương thời; khi chết rồi cũng không có gì ích lợi cho mai sau. Thiên tuy cao, bất năng phú ngã : Trời tuy cao, cũng không dung chứa được ta ở giữa trời đất. Ðịa tuy hậu, bất năng tải ngã : Ðất tuy dày, ta cũng không có tư cách ở giữa trời đất, cùng trời đất dung hợp. Cực trọng tội nhân, phi ngã nhi thùy? Tội nhân cực trọng nhất, ngoài ta ra thì là ai ? Không phải là người khác mà chính là ta. Ðây là Ðại sư Tỉnh Am dạy người xuất gia chúng ta đều phải hồi quang phản chiếu, cần phải sám hối ; không phải ta thì là ai, đó không phải người khác, mà chính là ta. Cho nên chúng ta là người xuất gia cần phải ghi nhớ không nên tật đố chướng ngại người khác.

 

Nguyên văn:

由 是痛不可忍,計無所出;頓忘鄙陋,忽發大心。雖不能挽回末運於此時,決當圖護持正法於來世。是故偕諸善友,同到道場;述為懺摩,建茲法會。發四十八之大 願,願願度生;期百千劫之深心,心心作佛。從於今日,盡未來際,畢此一形,誓歸安養,既登九品,回入娑婆。俾得佛日重輝,法門再闡。僧海澄清於此界,人民 被化於東方,劫運為之更延,正法得以久住。此則區區真實苦心。是為發菩提心第十因緣也。

Âm Hán Việt:

Do thị thống bất khả nhẫn, kế vô sở xuất; đốn vong bỉ lậu, hốt phát đại tâm. Tuy bất năng vãn hồi mạt vận ư thử thời, quyết đương đồ hộ trì chánh pháp ư lai thế. Thị cố giai chư thiện hữu, đồng đáo đạo tràng; thuật vi sám ma, kiến tư pháp hội. Phát tứ thập bát chi đại nguyện, nguyện nguyện độ sanh; kỳ bách thiên kiếp chi thâm tâm, tâm tâm tác Phật. Tùng ư kim nhật, tận vị lai tế, tất thử nhất hình, thệ quy An dưỡng, ký đăng cửu phẩm, hồi nhập Ta bà. Tỷ đắc Phật nhật trùng huy, pháp môn tái xiển, tăng hải trừng thanh ư thử giới, nhân dân bị hóa ư Ðông phương, kiếp vận vi chi cánh diên, chánh Pháp đắc dĩ cửu trụ. Thử tắc khu khu chân thật khổ tâm. Thị vi phát Bồ đề tâm đệ thập nhân duyên dã.

Dịch:

Vì thế mà đau lòng không thể nhẫn nổi, nhưng suy nghĩ thì lại không thấy có cách nào khác hơn, nên quên ngay tư cách quê mùa, liền phát tâm rộng lớn. Tuy không thể vãn hồi mạt vận ngay lúc này, nhưng quyết có thể hộ trì chánh pháp trong mai sau. Vì thế nên cùng với chư thiện hữu, cùng đến đạo tràng, soạn thuật sám pháp, lập pháp hội này, phát bốn mươi tám điều đại nguyện, nguyện nguyện hóa độ chúng sanh, mong thâm tâm suốt trăm ngàn đời kiếp, tâm tâm thành Phật, từ ngày hôm nay cho đến cùng tận đời vị lai, hết một đời này nguyện sanh Cực Lạc, lên chín phẩm xong thì trở lại Ta bà. Khiến cho mặt trời Phật pháp rạng soi, pháp môn rộng mở, để tăng giới được trong lặng ở cõi này, dân chúng được tiếp hóa ngay cõi phương Ðông, vận Chánh pháp nhờ đó mà kéo dài thêm nữa, Phật pháp do đó được tồn tại lâu dài. Ðây là tấm lòng khổ tâm chân thành, tha thiết nhỏ mọn của tôi. Ðó là nhân duyên thứ mười của sự phát Tâm Bồ đề.

 

Giảng:

Do thị thống bất khả nhẫn : Nói đến đây ta thật đau lòng không thể nhẫn nỗi ! nhẫn việc khó nhẫn, nhưng cũng không thể nhẫn được. Kế vô sở xuất : Ta cũng không có cách nào để trốn cho được nơi tụ hội của tội nghiệp. Ðốn vong bỉ lậu, hốt phát đại tâm : Vì thế lập tức quên đi mình tệ lậu hèn kém như thế, bèn phát tâm Bồ đề rộng lớn. Ta không thể làm kẻ tội nhân đại cực ác như thế, ta cần phải phát tâm Bồ đề rộng lớn !

 

Tuy bất năng vãn hồi mạt vận ư thử thời : Tuy ta phát tâm Bồ đề rộng lớn, không thể hoàn toàn vãn hồi cứu vớt khí số của thời mạt pháp, quyết đương đồ hộ trì chánh pháp ư lai thế : nhưng ta quyết phát nguyện trong thời vị lai hộ trì chánh pháp.

Tôi bảo với các ông, tại sao tôi phải trụ trì chánh pháp ? Vì đời đời kiếp kiếp tôi đều phát nguyện hộ trì chánh pháp, tôi quyết hành trì chánh pháp. Tôi từ vô lượng kiếp đến này phát cái nguyện này, cho nên tôi đến đây, nhất định cố gắng mà làm, tôi nhất định phải trụ trì chánh pháp. Bất quản là bao nhiêu khó khăn gian khổ, dù là có người mắng tôi, hủy báng tôi, tật đố tôi, chướng ngại tôi, tôi đều phải trụ trì chánh pháp. Chí nguyện này tôi quyết không bao giờ buông thả lơi là !

 

Thị cố giai chư thiện hữu : Vì thế tôi nay cùng với các bạn lành, đồng đáo đạo tràng : cùng đến Vạn Phật Thành. Ðến Vạn Phật Thành biết không ? Thuật vi sám ma, kiến tư pháp hội : Chúng ta đến chỗ này, tu Ðại Bi Sám Pháp. Quý vị có biết không ? đến Vạn Phật Thành chính là đạo trường, đạo trường chính là Vạn Phật Thành. Vạn Phật Thành chính là đạo trường của mỗi vị, quý vị cần phải ghi nhớ không nên chê bỏ đạo trường lớn của mình. Tại sao đạo trường lớn này là của quý vị ? Một mình tôi cũng không dùng cho hết đạo trường lớn như thế ! cho nên đây là của tất cả Phật giáo đồ toàn thế giới, không phải chỉ riêng mình tôi, tôi bất quá chỉ ở chỗ này ngày ngày xem nhà cửa giùm quý vị. Quý vị đều rất bận rộn, đều muốn làm hoàng đế, hoặc làm tổng thống ; đến mỗi chỗ mỗi nơi, hoạt động công tác của quý vị. Hoặc là làm ông chủ, hoặc là làm tổng giám đốc, hoặc là ở trong nhà làm ông chủ, mỗi người đều có chức vụ của mình; chỉ có tôi là người thất nghiệp, không có chức nghiệp gì, ở đây làm công cho quý vị, trông nhà cửa cho quý vị. Cho nên đợi quý vị làm hoàng đế, làm tổng thống, lúc đó quý vị cần phải phát tâm lớn để hộ trì Vạn Phật Thành. Nói : "Ô ! Thầy, Thầy cứ nói đùa hoài". Ông làm sao biết được sau này ông không làm tổng thống ? Ông làm sao biết được ông kiếp sau không làm hoàng đế ? Ông đời sau làm hoàng đế, vì ông phát nguyện : "Kiếp sau khi tôi làm hoàng đế, nhất định sẽ ủng hộ Vạn Phật Thành, ta dùng điện kim loan của ta tu sửa Vạn Phật Thành, dùng vàng xây dựng Phật điện nguy nga tráng lệ như điện kim loan". Ðây là điều không biết trước được, không thể đoán được. Cho nên đệ tử hoàng đế của tôi, nay ông không muốn trở về hoàng cung. Tôi hỏi ông, tam cung lục viện thì làm sao ? ông ta nói không quản đến, kêu cả tam cung lục viện đến Vạn Phật Thành. Kêu họ đến Vạn Phật Thành thì chỗ này biến thành một nơi tu hành học đạo ; cho nên đây là điều rất quan trọng.

Chúng ta sang năm từ ngày 21 tháng 7 âm lịch, buổi tối sái tịnh, ngày 22 chính thức cử hành thất Ðịa Tạng, niệm danh hiệu Bồ tát Ðịa Tạng, hoặc là niệm "Án ma ni bát di hồng". Trước kia chúng ta đã thử đả thất "Án ma ni bát di hồng", ngày đêm sáu thời, ba phiên thay đổi. Phiên thứ nhất niệm tám tiếng thì thay phiên khác, phiên này lại niệm tám tiếng rồi đổi phiên khác, cứ luân phiên đổi ca, trong bảy ngày thanh âm này không bao giờ gián đoạn. Sau khi viên mãn thất, tôi nhìn thấy những đứa bé Mỹ đều rất thích thú, rất có thành tâm, bèn viết một bài từ "Vũ Trụ Bạch" để làm kỷ niệm pháp hội đó. Vậy sang năm chúng ta cùng nghiên cứu, các ông muốn niệm "Án ma ni bát di hồng" cũng được, muốn niệm "Ðịa Tạng vương Bồ tát" cũng được, chúng ta dùng bảy ngày, một ngày sáu thời để niệm Phật. Lần trước không biết mỗi ca là tám giờ ? hay là mười hai giờ ? Tôi cũng không quản đến, tự họ niệm, tôi cũng không có tham gia.

Các ông không nên cho rằng ở đây, mỗi Phật sự tôi đều phải tham gia. Như có người nói : "A ! Chúng con ngồi thiền cũng không thấy Thầy đến ?". Ngày ngày tôi đều ở đây, ông nhìn không thấy thì lại trách ai ? Ông không có mắt, làm sao nhìn thấy được tôi ? Tôi đến ông cũng không biết. Vì bước chân tôi đi nhẹ không phát ra tiếng, tôi đi qua bên cạnh ông, ông cũng không biết. Không phải nói chuyện thần thoại, mà đích xác là như thế ! Lại cho rằng không nhìn thấy tôi. Không nhìn thấy tôi ? ông đến đây vậy ông nhìn thấy ai ?

Vậy ngày 22 bắt đầu đả thất Ðịa Tạng, ngày 22, 23, 24, 25, 26, 27 ; ngày 27 thì viên mãn. Ngày 28, 29, 30 mấy ngày này đều có bái Phật, có niệm Phật. Chúng ta pháp hội lần này khoảng mười ngày, mười một ngày. Nếu các ông ai hoan hỷ đến, một mình đến cũng tốt, đoàn thể đến cũng tốt ! Nhưng khi đến nhất định phải thông báo trước cho chúng tôi để chúng tôi chuẩn bị chỗ ở, bố trí các ông đến đây dụng công biện đạo. Ðiều này rất cần thiết, không nên thình lình mà đến, khiến chúng tôi không có thời gian bố trí sắp đặt. Trong thời gian đả thất, chúng tôi càng không thể đi đón người, cũng không thể đưa tiễn người.

Cho nên trong Vạn Phật Thành của chúng ta, sau này bất luận ai đến chúng ta cũng không tiếp cũng không đưa, đều xem như người nhà đến chỗ này. Nếu như chúng tôi tiếp rước, đưa tiễn, thì lãng phí rất nhiều thời gian của người dụng công tu hành học đạo ở đây, làm cho ông không có công đức. Vì để thành tựu công đức của quý vị, chúng ta hai bên cần phải yên ổn vô sự ; đều là người nhà, không nên khách sáo. Ðiểm này hy vọng quý vị đặc biệt chú ý.

Quan trọng nhất là người hút thuốc khi đến chỗ này, cũng phải đi khám sức khỏe, quăng bỏ tất cả thuốc hút gì đó trên máy bay, không nên đem đến Vạn Phật Thành. Ðem đến Vạn Phật Thành, dù ông không hút thuốc, cũng cho Vạn Phật Thành xông nồng mùi thuốc lá, thật không chịu nỗi. Chúng tôi thật chịu không nỗi mùi thuốc ! Tôi có lúc giống như nói đùa vậy, như nói người của Vạn Phật Thành giống như rắn vậy, rất sợ thuốc, lại giống như con sâu vậy, những con sâu này, khi ông vừa hút thuốc nó liền chạy hết. Cho nên chúng tôi ở đây đều là những con sâu nhỏ, con kiến nhỏ, con muỗi, con ruồi, ở chỗ này ong ong vo ve. Vậy quý vị khi đến đây ghi nhớ không nên bắt nạt ăn hiếp chúng tôi là những con sâu nhỏ.

Khi soạn thuật sám pháp, lập pháp hội này, cần phải Phát tứ thập bát chi đại nguyện, nguyện nguyện độ sanh : mỗi nguyện đều là hóa độ chúng sanh. Kỳ bách thiên kiếp chi thâm tâm, tâm tâm tác Phật : Chúng ta dùng thâm tâm trong thời gian trăm ngàn muôn kiếp, dùng tâm này làm cái gì ? Chính là muốn thành Phật.

 

Tùng ư kim nhật, tận vị lai tế : Từ ngày hôm nay cho đến cùng tận đời vị lai, tất thử nhất hình, thệ quy An dưỡng : đời này nguyện sanh thế giới Cực lạc. Chính là khi ta mạng chung nhất định sanh vào thế giới Cực lạc. "An dưỡng" chính là thế giới Cực lạc.

 

Ký đăng cửu phẩm, hồi nhập Ta bà : Ðã lên chín phẩm, hoa nở thấy Phật, sau khi thấy Phật thì trở lại thế giới Ta bà, tỷ đắc Phật nhật trùng huy, pháp môn tái xiển : khiến cho mặt trời Phật pháp lại huy hoàng sáng chói, pháp môn lần nữa xiển dương rộng mở. Tăng hải trừng thanh ư thử giới : chư Tăng đều trừng thanh, thanh tịnh, chẳng có những người không tu hành. Nhân dân bị hóa ư Ðông phương : tất cả nhân dân đều được Phật giáo hóa, được giáo hóa nơi cõi Ðông phương. Kiếp vận vi chi cánh diên : Chánh pháp của Phật vì đó được kéo dài thêm nữa. Không phải nói kiếp vận kéo dài mà là chánh pháp kéo dài, kiếp vận sẽ không còn nữa. Chánh Pháp đắc dĩ cửu trụ : nếu người người đều tu hành dụng công biện đạo, người người đều không có lòng ích kỷ, không có tâm cầu danh cầu lợi, không có tham tâm, không có những dục niệm, đó chính là chánh pháp tồn tại lâu dài.

 

Thử tắc khu khu chân thật khổ tâm : Ðại sư Tỉnh Am nói, đây là sự khổ tâm nhỏ bé của tôi. Vì Ngài khiêm nhường cho nên nói nhỏ bé, vi tế, không có sức mạnh gì, là khổ tâm chân thành nhỏ bé yếu ớt.

 

Thị vi phát Bồ đề tâm đệ thập nhân duyên : Ðây là nhân duyên thứ mười của sự phát tâm Bồ đề.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14448)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14158)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39764)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15327)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13895)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13942)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37371)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40085)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14655)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14319)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12673)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14861)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19230)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13815)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42650)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13851)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37277)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12700)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11781)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22571)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12523)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12578)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13075)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13124)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17285)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33280)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14849)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11053)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12474)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11975)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11943)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13151)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51290)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12394)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6624)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30445)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13133)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13341)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30717)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19408)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12496)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11866)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14778)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13210)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13211)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30717)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12052)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11846)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12740)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31924)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29438)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11797)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11757)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10445)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11568)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9650)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9678)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 10008)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35440)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10167)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10107)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10061)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9676)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27830)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15532)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9872)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13693)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9855)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9713)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18352)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12052)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9584)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9703)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8729)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8934)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8433)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11489)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31771)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12352)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13344)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8847)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9461)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11954)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9241)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9090)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9694)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29383)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9098)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9120)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33287)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8442)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30652)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31265)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37152)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32306)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9942)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27125)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8459)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19257)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 13026)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant