Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

3. Ngày Lễ hội truyền thống

02 Tháng Tám 201100:00(Xem: 8888)
3. Ngày Lễ hội truyền thống

VU LAN VÀ TUỔI TRẺ
Thông Huệ
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo 2008

NGÀY LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG

Hàng năm, vào ngày rằm tháng bảy, các Phật tử đến chùa tụng nghi lễ Vu Lan, nghe quý thầy giảng về đạo Hiếu; đây là một điều rất đáng tán dương. Có thể nói, ngày Vu Lan đã trở thành một lễ hội truyền thống, là ngày đền ơn đáp nghĩa, không chỉ riêng cho những người con Phật, mà chung cho cả dân tộc Việt Nam. Vì vậy, nhân mùa Vu Lan năm nay, chúng ta cũng cần nhắc lại những ý nghĩa sâu xa của lễ hội này, để hiểu rõ do đâu mà ngày rằm tháng bảy được gọi là ngày Vu Lan báo hiếu, ngày xá tội vong nhân, ngày Tự tứ và là ngày Phật hoan hỷ.

VU LAN VÀ ĐỀN ƠN ĐÁP NGHĨA 

Đức Khổng Tử đã nói: “Nhơn vi vạn vật tối linh” (Con người là tối linh trong muôn vật). Loài vật chỉ có thiên tính nuôi con, không có ý thức phải sống như thế nào cho phù hợp với đạo đức; còn con người có khối óc, có lý trí, nên ngoài bản năng, con người còn biết nhớ ơn và đền ơn. Chúng ta sinh ra và lớn lên, không ai có thể độc lập tồn tại được, mà phải nhờ cha mẹ và các ân tình khác trong cuộc sống. Đức Phật dạy, có bốn ơn lớn mà con người cần phải biết để báo đền: Ơn cha mẹ, ơn sư trưởng, ơn chúng sanh và ơn tổ quốc, gọi là Tứ trọng ân. 

Trong các hình thức văn hóa, chúng ta thường thấy ca ngợi tình mẹ hơn là tình cha. Không phải vì cha không thương con bằng mẹ, công lao nuôi dạy con không bằng mẹ, mà bởi vì tình cảm của người cha thường ít biểu lộ ra ngoài, nên con cảm thấy gần gũi mẹ hơn cha. Thật ra, đức nghiêm của cha và đức từ của mẹ kết hợp nhau, dung hòa lẫn nhau mới tạo nên sinh khí và sự bình ổn trong gia đình, mới là điều kiện cần và đủ cho sự giáo dục con cái. 

Công cha như núi Thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.

Công của cha cao vòi vọi như ngọn núi lớn, nghĩa của mẹ rạt rào bất tận như suối nguồn. Công và Nghĩa là hai phạm trù có thể diễn đạt được ý nghĩa của tình cha mẹ đối với con. Hiểu được điều này, chúng ta thấy cha và mẹ đều có địa vị cao cả ngang nhau trong lòng con cái. Vì vậy, mỗi người chúng ta đều phải tìm mọi cách báo đáp trọng ân này. Nhưng làm cách nào để báo đáp cho tròn chữ hiếu?.

Kinh Tăng Chi Bộ tập I, Phật dạy rằng: “Những ai đền ơn bằng cách nuôi dưỡng cung phụng cha mẹ bằng của cải vật chất, thì không bao giờ đủ để trả ơn cha mẹ. Nhưng này các Tỳkheo! Ai đối với cha mẹ không có lòng tin, khuyến khích hướng dẫn an trú vào thiện giới; đối với cha mẹ xan tham, khuyến khích hướng dẫn an trú vào bố thí; đối với cha mẹ theo ác-trí-huệ, khuyến khích hướng dẫn an trú vào trí huệ. Cho đến như vậy, này các Tỳkheo! Là làm đủ và trả đủ ơn cha và mẹ”. Dựa vào lời Phật dạy, chúng ta đã biết báo hiếu đúng nghĩa phải như thế nào. Trước tiên, chúng ta phải lo cho cha mẹ đầy đủ về vật chất, tùy khả năng của mỗi người. Kế đến, chúng ta phải nghĩ đến đời sống tinh thầnđạo đức cho cha mẹ. Nếu người có tà kiến, phải giúp đỡ người có được chánh kiến; nếu người theo tà giới, phải khuyên người theo chánh giới; nếu người làm điều ác, phải khuyên người làm những hạnh lành; nếu người chưa có chánh tín, phải khuyến khích người trở về nương tựa nơi Tam-bảo, sống một cuộc đời hiền thiện.

Chúng ta đọc câu chuyện Ngài Mục Kiền Liên và Ngài Xá Lợi Phất là hai vị đệ tử lớn của Phật, thấy hai Ngài đều có mẹ vì tạo tội nên bị đọa vào khổ xứ. Sau khi được Phật chỉ dạy, các Ngài khẩn thiết xin với chư Tăng tu hành thanh tịnh, vào ngày rằm tháng bảy thành tâm chú nguyện cho mẹ mình. Tâm thành của chư vị Thánh Tăng chuyển được tâm ác của hai bà mẹ nên hai bà thoát kiếp đọa đày. Chuyện này cho thấy, hai vị tôn giảxuất gia tu hành đã được giải thoát, vẫn nhớ đến công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ. Không phải chỉ nhớ đến cha mẹ đời này, mà còn nghĩ tưởng đến cha mẹbà con quyến thuộcvô số kiếp về trước. Đức Phật đã từng lạy đống xương khô, nhân đó thuyết bài Kinh Báo Hiếu Phụ Mẫu, một áng văn tuyệt tác, làm rơi lệ biết bao nhiêu người từ thời ấy cho mãi đến ngàn sau. Cho nên, với tầm nhìn của người bình thường, những người xuất gia dường như là bất hiếu. Nhưng thật sự, cung phụng cha mẹ bằng món ngon vật lạ chỉ có giá trị giới hạn, vì thuộc về vật chất hữu hình hữu hoại. Còn người xuất gia tu hành đạt đạo, khuyến khích cha mẹ cùng tu hành để thoát khổ sinh tử luân hồi, đó mới là đại hiếu vì có giá trị vĩnh hằng, đó mới thực sự xứng đáng đền ơn cha mẹ.

 Kinh Tương Ưng tập I có nói: 

Người nào theo thường pháp,
Nuôi dưỡng mẹ và cha,

Chính do công hạnh này,

Đối với cha với mẹ,

Nhờ vậy bậc Hiền Thánh,

Trong đời này tán thán,

Sau khi chết được sanh,

Hưởng an lạc chư Thiên”.

Thường pháp là pháp không biến đổi theo thời giankhông gian, là chân lý muôn đời. Do lòng hiếu thảo phụng dưỡng cha mẹ, những người con ấy được các bậc Hiền Thánh tán thán; và sau khi chết được sanh về cõi trời, hưởng nhiều sự an lạc. Thật ra, một người con hiếu thảo sẽ tự cảm nhận trong thân tâm mình có sự tươi mát bình an. Đó là cảm thọ của chư Thiên ngay trong hiện kiếp. Ngược lại, những người bất hiếu với cha mẹ thì không xứng đáng với danh nghĩa là người. Đây là điều kiện để những tội ác khác phát sinh, vì đạo hiếu là căn bản của đạo đức con người. Nếu chúng ta không thương cha mẹ, thì chắc chắn không thể nào chúng tatình thương thật sự đối với ai. Cho nên, điểm đầu tiên của lòng từ bi phải là lòng hiếu thảo. Phật đã dạy, phụng thờ trời đất quỷ thần không bằng hiếu kính với cha mẹ, vì cha mẹthần linh bậc nhất, chính là Phật tại thế. Điều này cho thấy, địa vị của cha mẹ đối với con cái rất quan trọng. Nhất là trong xã hội hiện tại, đôi nơi đã đánh mất nền tảng đạo đức, chạy theo xa hoa phù phiếm, thì trong gia đình và học đường, mỗi đứa trẻ đều phải được dạy bảo để thấm nhuần về đạo hiếu.

Ơn lớn thứ hai cần phải báo đáp là ơn đối với sư trưởng. Đó là các thầy cô dạy chúng ta những kiến thức thế gian, từ lúc còn thơ chưa biết chữ đến khi thành người hữu dụng. Người tu còn có một ân nghĩa xuất thế, đó là Chư Phật Bồ tát và Thầy Tổ. Chính các Ngài có đầy đủ Phật nhãn, pháp nhãn, huệ nhãn, giúp chúng ta có một cái nhìn siêu việt về cuộc sống, giúp chúng ta đẩy lui vô minh, tẩy trừ tập khí phiền não, để trở thành một người tự tại an lạc trong dòng đời. Cho nên, tinh thần tôn sư trọng đạo, từ bao giờ cho đến bây giờ, vẫn cần được nhắc nhở và đề cao.

Đối với ơn chúng sanh, ta cần phải quán chiếu mới thấu triệt. Thân chúng ta sinh ra và lớn lên là nhờ công ơn của rất nhiều người, từ người nông phu cho lúa gạo, người thợ dệt cho vải vóc, người thợ nề xây nhà cho ở... đến bạn bè, người láng giềng, những kẻ giúp việc... mỗi mỗi đều giúp đỡ ta trong những công việc hàng ngày. Nhìn rộng hơn, chúng ta sẽ thấy có một sự liên hệ hỗ tương giữa mình và vũ trụ vạn hữu, đây là thuyết trùng trùng duyên khởi Phật đã dạy. Cho nên, không những nhớ ơn chúng sanh hữu tình, ta còn phải mang nặng công ơn của vạn vật vô tình nữa. Vào thời đức Phật, một vị Tỳ kheo ngồi nghĩ dưới gốc cây một lát rồi ra đi, cũng phải nhớ ơn cái cây đã tỏa bóng mát che nắng cho mình. Nói gì đến không khí chúng ta thở, nước chúng ta uống, ánh sáng mặt trời ban sức sống cho muôn loài... Tất cả là ơn chúng sanh mà mỗi người đều thọ nhận, dù khó thể đáp đền. Vì thế, nếu có dịp cứu giúp người hoạn nạn, khốn khổ hơn mình, nếu nơi nào bị thiên tai dịch họa, chúng ta cần đóng góp tài lực, vật lực, tùy theo khả năng. Đây là tinh thần lá lành đùm lá rách, mà cũng là để đền ơn chúng sanh. Trong nhiều kiếp luân hồi, biết đâu những người bị nạn ấy là thân nhân quyến thuộc của mình? Với cái nhìn duyên sinh, phóng tầm mắt đến đâu ta cũng thấy toàn là bà con thân quyến. Mà đã là thân nhân với nhau, chẳng lẽ chúng ta nỡ làm hại người, làm người phiền não, chẳng lẽ không cùng gánh vác chia xẻ những nỗi đau thương mất mát của người? Đây chính là tiền đề của lòng từ bi, ban vui và cứu khổ.

Ơn lớn thứ tư là ơn đối với tổ quốc. Nếu không có sự bảo hộ của nhà nước, của pháp luật; nếu không có binh phòng, vệ phòng ngày đêm giữ gìn an ninh trật tựđề phòng giặc ngoại xâm, liệu chúng tayên ổn sinh sống và tu hành được không? Những người Việt sống xa quê, do hoàn cảnh hay do sinh kế phải bôn ba nơi đất lạ, vẫn mang trong lòng nỗi nhớ quê hương. Tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc luôn luôn vang vọng trong mọi con tim người dân Việt, vì vậy bao nhiêu giặc ngoại xâm - kể cả những kẻ thù hùng mạnh và hung hãn nhất, cũng đành chịu thất bại trước sức quật cườngtinh thần yêu nước của dân tộc Việt-Nam.
 
Làm người là một hạnh phúc vô cùng to lớn, nên chúng ta phải biết trân quý từng giây phút, để sống thế nào cho có đạo lý, phù hợp với tình cảm giữa người và người. Việc báo ân báo hiếu là điều cần thiết phải làm để đem lại hạnh phúc cho gia đình, tạo nền móng đạo đức căn bản, tạo sự an bình cho xã hội. Đây là nghĩa vụ thiêng liêng của tất cả mọi người, không phải dành riêng cho những người con Phật. Bởi vì, dù ở địa vị nào, sống trong quốc độ nào, theo tôn giáo nào, tinh thần đền ơn đáp nghĩa vẫn có giá trị muôn đời. Vì thế, có thể nhắc lại mà không sợ lầm, Vu Lan là một ngày lễ hội truyền thống của dân tộc Việt-Nam. 

VU LAN VÀ TỰ TỨ

Một số Phật tử tụng kinh hằng đêm, chắc nhớ hai câu này: 

Thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ”.
(Trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ tam đồ).

Những chúng sanh tạo nghiệp nặng nơi thân khẩu ý, lúc chết phải đọa vào ba đường ácđịa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Nhà Phật nêu lên hình ảnh của một người bị treo ngược chân lên trời, đầu chúc xuống đất, để tượng trưng cho những nỗi khổ cùng cực. Cái khổ cùng cực này không chỉ người bị đọa tam đồ mới chịu, mà ngay người đang sống, đôi lúc cũng lâm vào những cảnh quẩn bách khiến thân tâm có thể cảm nhận rõ điều này.

Tinh thần từ bi của đạo Phật ban rải khắp muôn loài. Cho nên, ngày Vu Lan còn có ý nghĩa là ngày xá tội vong nhân. Chúng ta đừng hiểu lầm Vu Lan Bồn là cái chậu đựng trăm món ngon, chờ đến ngày rằm tháng bảy đem đến chùa nhờ chư Tăng cầu nguyện cho thân nhân còn sống hay đã chết. Chữ Vu Lan Bồn có nghĩa là Giải đảo huyền hoặc Cứu đảo huyền, tức giải cứu khỏi cái khổ treo ngược.

Trong vòng luân hồi sanh tử, chúng ta đã bao lần là bà con quyến thuộc với nhau. Vì vậy, sự liên hệ do duyên nợ giữa chúng ta và tất cả chúng sinh cùng khắp pháp giới là một điều có thể hiểu được. Từ đó, tình thương của chúng ta sẽ chan hòa một cách bình đẳng đến muôn loài muôn vật, không hạn cuộc thời giankhông gian. Và ý nghĩa trọng đại của lễ Vu Lan chính là lòng biết ơnđền ơn tất cả chúng sinh trong ba cõi sáu đường. Tình thương của chúng ta đối với mọi loài có tính cách xả kỷ, rộng lớn và bình đẳng chứ không còn là tình cảm luyến ái hệ lụy trong gia đình. Nếu hiểu được chân nghĩa này, từ trong vô thường huyễn mộng của cuộc sống, chúng ta sẽ tìm được một hướng đi và lẽ sống tốt đẹp cho mình và cho mọi người. Chính ngày Vu Lan giúp chúng ta hướng tâm mình đến chân trời bao la đó. 

Nhưng làm cách nào để có thể cứu giúp chúng sinh đang bị đọa đày nơi khổ xứ ?

Đức Phật dạy, ngày rằm tháng bảy là ngày Tự tứ. Trong ngày ấy, chư Phật mười phương đều hoan hỷ, vì thấy chư Tăng tu hành thanh tịnh, hòa hợp. Nhờ đức hạnh, đạo lực của chư Tăng mới có thể hướng tâm người quá vãng đến nẻo thiện, chuyển được nghiệp ác cho họ. Như vậy, gốc của lễ Vu Lan là ngày Tự tứ.

Từ thời đức Phật còn tại thế, mỗi năm từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy, chư Tăng phải thực hiện chế độ an cư, nghĩa là yên ở nơi một trú xứ thu nhiếp các căn, nỗ lực tu tập Giới - Định - Huệ. Nguyên nhân đầu tiên để Phật đặt ra chế độ này, là vì trong ba tháng hạ, ở Ấn Độ mưa nhiều, nước ngập cả lối đi, sau đó côn trùng sinh sôi nảy nở, nên trở ngại cho việc đi lại hoằng pháp và vô tình giẫm chết côn trùng. Sau ba tháng cấm túc, Phật nhận thấy nhiều vị Tỳkheo đắc Thánh quả, nhờ ít bận rộn đi lại, tránh bớt các duyên và quyết liệt tu hành. Do kết quả đó nên sau này, chế độ an cư trong ba tháng hạ được duy trì mãi trong Tăng chúng.

An cư phải đi đôi với kiết giới. Sinh hoạt của chư Tăng trong thời gian này khác hơn so với ngày thường. Những ngày bình thường, do duyên sự bề bộn, các vị có thể du phương làm Phật sự, kỷ luật trong Tăng-đoàn có khi lơi lỏng. Nhưng trong ba tháng hạ, mọi việc đều thu xếp gọn lại, chư Tăng chỉ đi lại giới hạn trong khuôn viên của tự viện; chỉ có những vị có duyên sự đặc biệt, phải xin phóng giới mới được ra ngoài. Mới nhìn, chư Tăng có vẻ rảnh rỗi, không bận tâm về sinh kế vì nhờ Phật tử hỗ trợ cúng dường; nhưng thật ra nội tâm của các vị quả là một trường chiến đấu! Một mặt, phải khép mình vào một kỷ luật hết sức nghiêm khắc; mặt khác, phải chiến đấu không ngơi nghỉ với bao nhiêu tập khí phiền não. Nhờ vậy, sau thời gian kiết hạ, nếu vị nào giữ giới tinh nghiêm, nỗ lực tu học, có sức tỉnh lực thì sẽ có tiến bộ đáng kể; nơi nào tổ chức tu hành nghiêm túc sẽ có thể sản sinh những người xuất cách, còn nếu tổ chức lơi lỏng sẽ khó đào tạo được Tăng tài.

Cũng cần nhấn mạnh một điều: Tinh thần an cưthanh tịnhhòa hợp. Đây cũng là ý nghĩa của chữ Tăng và cũng là sức mạnh của Tăng đoàn. Một nhóm người chung sống hòa hợp với nhau nhưng tâm không thanh tịnh, sinh hoạt và hành động không theo chánh pháp thì không phải là người tu chân chính. Ngược lại, dù sống thanh tịnh, giữ giới đúng mức nhưng lại bất hòa với nhau, thì sức thanh tịnh cũng vẫn còn hạn chế, chưa đúng với danh nghĩa người tu.

Trong nhà Thiền, tinh thần an cư còn có một ý nghĩa về Lý. Dù ở nơi nào, dù vắng vẻ hay ồn náo, nếu sáu căn tiếp xúc với sáu trầntâm không duyên theo các pháp, đó mới thật sự là “độc xử nhàn cư”. Như vậy, hàng cư sĩ tại gia, nếu sắp xếp được công việc, tránh bớt các duyên, hàng năm có thể tổ chức cho mình một thời gian nhất định nào đó để tĩnh tu. Do chúng ta căn cơ và trình độï tu hành còn kém, nên cần có độc cư về sự để trợ duyên cho việc tu tập.

Cuối cùng của chế độ an cư, và cũng là cốt tủy của lễ Vu Lan, là ngày Tự Tứ vào rằm tháng bảy. Tự là chính mình, Tứ là đưa ra trước mọi người. Nội dung của Tự Tứ là mỗi người tự trình bày những lỗi lầm mình đã phạm, không giấu giếm, gọi là phát lồ sám hối; đồng thời kính thỉnh đại chúng, nếu thấy, nếu nghe, nếu nghi mình có mắc phải lỗi nào mà chính mình không biết, xin từ bihoan hỷ nêu ra để mình sửa đổi. Đối với người thế gian, điều này thật khó thực hiện; nhưng đối với người tu thì đây là điều cần thiết. Người cử lỗi phải hoan hỷ, thật tâm muốn huynh đệ của mình tốt đẹp; người được cử lỗi cũng phải lấy làm sung sướng, vì có đại chúng chỉ dạy, ban bảo cho mình. Người xuất gia, nhất là mới vào đạo, phải được ở gần Thầy và đại chúng, để được chỉ bảo cho mình những điều mà tự mình không hay biết.

Do tất cả Tăng chúng đều an trú trong sự thật, can đảm tự cử lỗi của mình và chỉ lỗi cho người, nên ngày Tự Tứ là ngày chư Phật mười phương đều hoan hỷ. Do tâm các vị thanh tịnh như thế, Phật tử mới quy hướng về nơi kiết hạ, chờ ngày Tự Tứ nhờ chư Tăêng cầu siêu cho thân nhân đã khuất được sanh về các cõi lành, cầu cho người sống được thân tâm an lạc, vững chải sống trong chánh pháp. Nhờ phước lực của chư Tăng trong ba tháng thanh tịnh tu hành, nên thức tỉnh được tâm người đã khuất và làm người sống cảm thấy bình an. Cho nên, ngày rằm tháng bảy là ngày hết sức quan trọng trong ba tháng an cư. Bản chất của ngày này là An cưTự Tứ, từ đó mới có cái ngọn là Vu Lan và Báo Hiếu hay đền ơn đáp nghĩa.
 

Vu Lan chính là ngày hội tụ những niềm vui lớn trong tâm hồn những người con hiếu hạnh, những người có đạo đức, biết trở về nguồn cội. Nếu quán triệt được và sống được đúng tinh thần của Vu Lan, thì chính con người của chúng ta cũng là hiện thân của “Đại hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát”. Chúng ta không tìm một vị Mục Kiền Liên nào trong thời quá khứ, mà phải tìm Mục Kiền Liên ngay trong con người xác thịt của chúng ta.

Nhân mùa Vu Lan năm nay, đảnh lễ trước Phật đài, chúng ta thề nguyền noi gương hiếu hạnh của Ngài Mục Kiền Liên, làm tròn bổn phận của một người con hiếu thảo. Chúng ta cũng nhớ đến tất cả chúng sinh đang còn chìm đắm trong vô minh tăm tối, nguyện hồi hướng công đức cho muôn loài đều phát Bồ đề tâm, đồng tu hành và đồng thành chánh giác. Từ chỗ đứng vững chắc của mình bằng hạnh hiếu và bằng tất cả lòng thành, chúng ta đã có vật phẩm dâng lên cúng dường Tam bảo một cách có ý nghĩa

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11396)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
(Xem: 11559)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13558)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14127)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10313)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10785)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11340)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11285)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11441)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10178)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9970)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10718)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11321)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42229)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10491)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11865)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10023)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10464)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10638)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45791)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32130)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11335)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10708)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11335)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10637)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13462)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12382)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11044)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10626)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12332)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11175)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11852)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29289)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9221)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10555)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10247)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10599)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10912)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10812)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32159)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27411)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17813)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11883)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12293)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10448)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11702)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10438)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10795)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28095)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10164)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10291)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10659)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10773)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11235)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10404)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10697)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11481)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18272)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10529)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12859)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11757)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29207)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28614)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28311)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13330)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22790)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13446)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11583)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13830)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25735)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26091)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22324)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14492)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12077)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11813)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11693)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11497)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33207)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31858)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12045)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39640)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22508)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11966)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14244)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13352)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14310)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12076)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10415)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11238)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13331)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34543)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12635)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12238)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13535)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12630)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12988)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16312)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11760)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27404)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28441)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant