Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tinh thần hiếu thảo

07 Tháng Tám 201100:00(Xem: 9915)
Tinh thần hiếu thảo

TINH THẦN HIẾU THẢO

Hoà Thượng Thích Thanh Từ

Theo phong tục Việt Nam thì ngày Rằm tháng Bảy là ngày trung nguyên, là một trong ba ngày lễ cổ truyền của dân gian. Đối với Phật giáo thì ngày Rằm tháng Bảy có nhiều ý nghĩa nên có nhiều tên: ngày chúng Tăng Tự Tứ, ngày Phật hoan hỷ, ngày Vu Lan báo hiếu, ngày xá tội vong nhân v.v.. Mỗi tên đều có mang ý nghĩa riêng của nó.

Ngày Rằm tháng Bảy được gọi là ngày chúng Tăng Tự Tứ là thể theo sinh hoạt của Tăng đoàn thời đức Phật. Thời tiếtẤn Độ từ tháng Tư đến tháng Bảy là mùa mưa, đất ẩm ướt, trùng kiến bò lên đầy đường. Chúng Tăng đi khất thực thì dẫm đạp côn trùng làm tổn hại sinh mạng của chúng và làm tổn giảm lòng từ bi của mình, nên đức Phật dạy từ Rằm tháng Tư đến Rằm tháng Bảy, tất cả Tăng Ni họp lại một chỗ để tu học, gọi là kiết hạ an cư: kiết là kết, tức là nguyện trước Phật và chúng Tăng suốt ba tháng ở yên một chỗ đã qui định để tu học, không ra khỏi phạm vi ấy. Đến ngày Rằm tháng Bảy làm lễ Tự Tứ: tự là mình, tứ là mặc tình, tức là qua ba tháng ở yên tu học, chư Tăng Ni đối trước những bậc trưởng thượng, cấu xin các Ngài từ bi chỉ lỗi, nếu các Ngài có thấy, nghe hay nghi mình có lỗi, để mình nhận lỗisám hối cho ba nghiệp được thanh tịnh. Tinh thấn Tự Tứ của Phật dạy rất là đặc biệt. Vì tất cả chúng ta, ai ai cũng mang cái bệnh tự cao ngã mạn, lúc nào cũng thấy mình hơn người, có định kiến cho mình là đúng, nên ít khi chịu nghe lời nhắc nhở xây dựng của ai, dầu người đó là bậc cha mẹ hay thầy bạn. Ngày Tự Tứ, Tăng Ni tự mình cầu xin bậc trưởng thượng chỉ lỗi và dạy bảo để sám hối, sửa đổi. Đó là việc làm rất hay và hữu ích cho việc tu tiến. Người lớn chỉ lỗi, người nhỏ giác ngộ nhận lỗisửa đổi thì mới thành người tốt, làm cho Tăng đoàn lớn mạnh. Do đó, đức Phật rất vui, nên ngày Tự Tứ cũng gọi là ngày Phật hoan hỷ.

Ví như trong một gia đình, nhân ngày giỗ tổ tiên, có một đứa con đối trước cha mẹ, anh chị thưa rằng: "Hôm nay là ngày sum họp gia đình, xin ba má, anh chị nếu thấy con, em có lỗi lầm, xin ba má, anh chị thương xót mà chỉ cho con sửa đổi để trở thành người tốt". Là bậc cha mẹ, thấy con làm như vậy có vui không? Chắc chắn là vui lắm! Cũng vậy, chư Tăng Ni đệ tử Phật biết cầu xin những bậc huynh trưởng chỉ lỗi để sửa thì đức Phật rất là hoan hỷ. Tuy nhiên, trên nguyên tắc là như vậy, nhưng ngày nay vì Tăng Ni quá đông, mặc dù có thực hiện vẫn còn sơ sót.

Tại sao gọi ngày Rằm tháng Bảy là ngày lễ Vu Lan? Chữ Vu Lan dịch âm tiếng Phạn là Vu Lan Bồn, dịch nghĩa là giải đảo huyền. Giải là mở, đảo huyền là tội treo ngược, giải đảo huyềnthoát khỏi tội treo ngược, nghĩa là lễ cầu nguyện cho những người bị tội ở địa ngục ngạ quỷ được thoát khỏi. Có nhiều người hiểu lầm "bồn" là cái chậu, nên đến ngày Rằm tháng Bảy mua sắm hương hoa, bánh trái để vào chậu, đem đến giữa bàn Tổ cúng lạy. Hiểu và làm như thế là sai lầm. Lệ thường đến gần Rằm tháng Bảy là các chùa tổ chức tụng kinh Vu Lan để cho Phật tử báo hiếu ông bà, cha mẹ. Kinh Vu Lan kể rằng: Ngài Mục Kiền Liên tu, sau khi chứng A La Hán, Ngài muốn độ mẹ. Ngài nhớ thuở còn sinh tiền, bà đã tạo nhiều nghiệp bất thiện với người tu, nên dùng thiên nhãn quan sát xem bà thác sanh ở cõi nào, thì thấy bà sanh ở cõi ngạ quỷ đói khổ vô cùng. Động lòng từ hiếu, Ngài bèn xin một bát cơm, dùng thấn lực đưa đến dâng cho mẹ dùng. Mẹ Ngài vừa đưa tay bốc cơm ăn thì cơm hóa thành than lửa, bà ăn không được. Ngài rất thương xót nhưng không biết làm sao cứu, bèn đến cầu xin Phật từ bi chỉ dạy. Nhân ngày chúng Tăng Tự Tứ, Phật dạy Ngài sắm lễ vật thỉnh chúng Tăng cúng dường, nhò sự cầu nguyện của chúng Tăng mà mẹ Ngài được thoát kiếp ngạ quỷ. Chúng Tăng mà Phật dạy Ngài thỉnh cúng dườngcầu nguyện cho mẹ Ngài là những vị ở sơn lâm thiền định, hoặc kinh hành dưới cội cây, là bậc đắc quả A La Hán; hàng chúng Tăng này mới có đủ thần lực cứu mẹ Ngài. Ngài đã thực hành y theo lời Phật dạy, chúng Tăng cầu nguyện, mẹ Ngài thoát kiếp ngạ quỷ được sanh cõi trời.

Có phải do chúng Tăng cầu nguyện mà mẹ Ngài được sanh lên cõi trời không? Chỗ này phải hiểu cho thật kỹ. Chúng Tăng không thể đưa bà Thanh Đề từ cõi ngạ quỷ lên cõi trời. Sở dĩ bà thoát được kiếp ngạ quỷ là vì xưa bà khởi tâm ác, tạo nghiệp ác nên chết mới đọa làm ngạ quỷ. Nay nhờ các bậc Thánh Tăng với tâm thanh tịnh, chí thành hướng về bà cầu nguyện, thần lực của các Ngài khiến tâm bà tương ứngchuyển tâm niệm ác thành tâm niệm thiện, nên bà được sanh về cõi trời. Ngang đây coi như Ngài Mục Kiền Liên cứu được mẹ đền được ơn sanh dưỡng, ơn hiếu nghĩa Ngài đã đền xong. Do giai thoại này mà ngày Rằm tháng Bảy được gọi là ngày Vu Lan hay ngày báo hiếu.

Ngày nay, chúng ta theo gương hiếu của Ngài Mục Kiền Liên, thỉnh chư Tăng cúng dường để cầu siêu hay cầu an cho ông bà, cha mẹ. Việc làm của chúng ta ngày nay có được kết quả như Ngài Mục Kiền Liên không? Hiện tại chúng ta tu chưa chứng quả nên không biết ông bà, cha mẹ sanh ở cõi nào. Chư Tăng Ni ngày nay cũng chưa chứng quả A La Hán, tâm chưa thanh tịnh. Như vậy, người cúng dường và người cầu nguyện chưa hội đủ điều kiện Phật dạy, làm sao ông bà, cha mẹ được siêu thoát? Tôi nói đây không phải phủ nhận rằng sự cầu nguyện của đạo Phật, mà nói để trình bày sự thật cho mọi người thấy, và tránh những việc làm theo thông lệ mà không biết có kết quả hay không. Điều này chúng ta phải gan dạ mà nhìn để thấy được lẽ thật. Ngày nay, đa số Tăng Ni tu hành lôi thôi, Phật tử thì không biết ông bà, cha mẹ mình sanh ở đâu. Cả hai đều không thông làm sao cầu có kết quả? Tuy nhiênlòng hiếu thảo, quý vị cầu thì cầu, còn siêu hay không thì tùy theo nghiệp của người được cầu, chớ không bảo đảm, đó là lời thành thật của tôi.

Hiện tại, quý Phật tử muốn theo gương hiếu thảo của Ngài Mục Kiền Liên thì phải làm ngay lúc cha mẹ còn sanh tiền. Nghĩa là lúc cha mẹ còn sống, chúng ta phải tạo điều kiện cho cha mẹ hiểu Phật pháp để tu hành. Nếu hiện tại cha mẹ tu, tạo nghiệp lành, khi lâm chung chắc hắn sanh cõi lành rồi, có cầu cũng dư. Nếu chúng ta không lo phụng dưỡng, không tạo cho cha mẹ diều kiện tránh dữ làm lành, khi chết mời Tăng Ni cầu nguyện cho sanh cõi lành; việc làm này thiếu thực tế e không kết quả.

Tất cả kinh sách của thánh hiền để lại đều dạy, làm con phải hiếu thảo với cha mẹ, thế mà có người làm được, có người không làm được. Mọi người trên thế gian này, ai ai cũng từ tinh huyết cha mẹ mà hợp thành. Thân thể chúng ta là một phần thân thể của cha mẹ. Khi ra đời nếu chúng ta không nhờ cha mẹ nuôi dưỡng thì đã chết mất, đâu có sống và trưởng thành đến ngày nay. Thế mà khi khôn lớn có gia đình chỉ biết thương vợ con, cha mẹ thì quên mất. Trong kinh, Phật dạy tội lớn nhất là tội bất hiếu, phước lớn nhất là phước hiếu thảo. Cha mẹ là người mang nặng đẻ đau, khổ nhọc nuôi dưỡng chúng ta nên vóc nên hình. Ơn cha mẹ lớn nhất mà chúng ta quên được thì có nghĩa ơn nào chúng ta nhớ, do đó mặc tình làm việc bất nhân bất nghĩa. Ngược lại, hiếu kính cha mẹ thì cũng vui làm điều nhơn nghĩa với mọi người.

Lúc Thái Tử trốn vua cha đi tu, người đời cho ngài bất hiếu. Nhưng khi thành đạo, Ngài trở về cung thuyết pháp độ vua cha, di mẫu, hoàng tộc tu hành được an lạc, lợi ích lớn. Nếu không tu thì Ngài không làm được việc này. Ngài Mục Kiền Liên đi tu đâu có quên ơn cha mẹ, nhờ Ngài tu mới cứu được mẹ thoát kiếp ngạ quỷ. Người tu đã chứng quả hay chưa chứng quả đều là những người con có hiếu. Người đời khi lập gia đình, tình thương thường thường dồn cho vợ con, có khi quên mất cha mẹ, không nhớ lo cho cha mẹ lúc tuổi già. Ngược lại, người tu thấy cha mẹ càng già, biết không còn sống bao lâu nữa, nên lo lắng và nhắc nhở tu nhiều hơn để phút ra đi được nhẹ nhàng, an ổn và được sanh vào cõi lành.

Trong cuộc sống phải biết dung hòa với nhau, bậc làm cha mẹ phải dễ dãi cho con cháu dễ gần gũi để nó làm tròn bổn phận làm con. Phận làm con cháu phải thương kính hiếu thảo với cha mẹ, ông bà. Sống như vậy, gia đình mới an vui, hạnh phúc. Trong kinh, Phật có nói bài kệ về công ơn cha mẹ như sau:

Cha mẹ gọi Phạm Vương
Bậc đạo sư hiện đời

Xứng đáng được cúng dường

Vì thương đến con cháu

Do vậy người hiền triết

Kính lễtôn trọng

Thức ănthức uống

Vải mặc và giường nằm

Xoa bóp khắp thân mình

Tắm rửa cả chân tay

Với sở hành như vậy

Đối với mẹ cùng cha

Hiện đời người hiền khen

Đời sau hưởng thiện lạc

Theo triết lý Ấn Độ thì Phạm Thiên là bậc trên hết, nên Ngài nói thờ cha mẹ như thờ Phạm Thiên, và Phật là đạo sư tên đời nên Ngài nói thờ cha mẹ như thờ Phật vậy. Phật so sánh lòng hiếu kính cha mẹ ngang với lòng tôn kính Phật và lòng quý kính Phạm Thiên. Có nhiều người nghĩ rằng đi chùa cúng Phật mới có phước, nên lơ là không lo phụng dưỡng. Đó là ý nghĩ sai lầm. Ở đây, Ngài nói cha mẹ mới thật là người xứng đáng cúng dường. Có một lần, Phật đi khất thực ở một xứ mất mùa, Ngài đi cả buổi mà không có thức ăn, có một thày Tỳ kheo đổi lá y được một bát cơm dâng lên Phật, Ngài hỏi: Ngươi còn cha mẹ không?

Tỳ kheo đáp: Bạch Thế Tôn, con còn mẹ.
-- Mẹ ngươi có cơm ăn chưa?
-- Bạch Thế Tôn, con đổi lá y chỉ được một bát cơm dâng lên Thế Tôn, mẹ con vẫn chưa có cơm ăn.
-- Ta không dám nhận bát cơm này, người đáng nhận bát cơm này là mẹ của ngươi. Hãy đưa cơm về cúng dường cho mẹ ngươi.

Phật phước đức vô lượng mà Ngài nói người đáng nhận bất cơm cúng dường là mẹ của người cúng dường chứ không phải là Phật. Thái độ của Phật cho chúng ta thấy Ngài rất trọng ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ. Như vậy, lo cho cha mẹ ấm no, tạo điều kiện cho cha mẹ tu hành mà không cúng chùa cũng có phước. Lo cúng chùa mà để cha mẹ đói lạnh, khổ sở, mắc phải tội bất hiếu, chẳng được phước bao nhiêu. Tại sao? Vì cha mẹ là người thân thiết và thương con nhất. Thế nên ai là người hiền trí thì đối với cha mẹ phải kính lễ, tôn trọng, cung phụng đầy đủ bốn món cần dùng và còn phài xoa bóp, tắm rửa cho cha mẹ nữa. Tại sao Phật dạy kỹ như vậy? Vì khi chúng ta còn nhỏ, cha mẹ đã từng làm những việc đó cho chúng ta, bây giờ cha mẹ đã già yếu, chúng ta phải chăm sóc lo lắng lại cha mẹ để đáp cái ơn sanh dưỡng sâu nặng đó vậy. Chúng ta lưu tâm chăm sóc cha mẹ là tạo nguồn an ủi cho cha mẹ được an vui lúc tuổi già, khiến tuổi thọ của cha mẹ được tăng thêm. Nếu chúng ta lơ là không nuôi dưỡng cha mẹ, làm cho cha mẹ buồn, cha mẹ buồn mắc bệnh và mật sớm thì chúng ta phải tội bất hiếu. Ở đời cũng có những người con bất hiếu, chẳng những không nuôi dưỡng cha mẹ còn đầy đạo, đánh đập cha mẹ. Lúc tôi còn ở Chơn Không, có một ông già mù hay lên núi chặt củi. Ông có một người con trai và mấy đứa cháu nội. Con ông bắt ông phải đi chặt củi và gánh nước. Hôm nào ông không gánh nước là nó không cho ăn cơm. Nếu ông cãi lại thì nó đánh ông bằng roi mây. Xóm giềng ai thấy cũng bất nhẫn. Nhưng truy nguyên ra thì trước đây ông cũng từng đánh cha ông bằng roi mây! Như vậy, đối với cha mẹ, chúng ta tàn nhẫn bao nhiêu thì con nó trả lại bấy nhiêu. Do đó, chớ bảo con cháu hiếu thảo với mình, mà mình phải có hiếu với cha mẹ trước, con cháu mới bắt chước làm theo. Mình bảo con cháu hiếu thảo với mình mà mình bất hiếu với cha mẹ, làm sao con cháu hiếu thảo với mình được!

Vậy muốn thành người tốt, vừa tròn chữ hiếu với cha mẹ, vừa được người hiền trí quý trọng trong hiện tại và hưởng phước lạc ở mai sau, vừa được con cháu hiếu kính với mình thì phải hiếu thảo với cha mẹ để làm gương, vì đây là nền tảng đạo đức. Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc cho cha mẹ được no ấm an vui. Nếu phụng dưỡng cha mẹ no ấm rồi mà cha mẹ chưa biết tu thì phải khéo khuyên cha mẹ ăn ở hiền lành, quy y Tam Bảo, giữ năm giới, làm điều phước thiện cho cha mẹ có đủ công đức, khi nhắm mắt sanh vào cõi lành. Đó là điều thiết thực nên làm, bảo đảm kết quả tốt.

Nhân ngày Vu Lan Tự Tứ, chúng tôi mong tất cả quý Phật tử ứng dụng ý nghĩa của ngày này qua hai lĩnh vực: Thứ nhất là lấy tinh thần Tự Tứ của chúng Tăng Ni ứng dụng trong cuộc sống của mình, tức là tập nghe và nhận lời khuyên răn nhắc nhở của người lớn để sửa chữa lỗi lầm để trở thành người tốt. Thứ hai là noi theo gương hiếu thảo của Ngài Mục Kiền Liên mà hiếu kính cha mẹ. Nếu cha mẹ còn tại thế thì chăm sóc, phụng dưỡng cho cha mẹ no ấm, và nếu cha mẹ chưa biết tu thì khéo nhắc nhở cho cha mẹ làm lành lánh dữ để sau sanh vào cõi lành. Nếu cha mẹ đã qua đời rồi thì chính mình thành tâm cầu nguyện và thỉnh Tăng Ni nguyện phụ, kết quả được bao nhiêu tốt bấy nhiêu.

Thích Thanh Từ (1997)

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31676)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10534)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11232)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12761)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10814)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16669)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10823)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22975)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12029)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11500)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10691)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12341)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11200)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10027)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10334)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11926)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10702)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12378)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9819)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11277)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13848)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9583)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12640)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9706)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10467)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10572)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10335)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9910)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11062)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12021)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10148)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10788)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9543)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9902)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8774)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9500)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14529)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8783)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12562)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10429)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9090)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10563)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9338)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8812)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10523)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9197)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8369)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12035)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9700)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10220)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10231)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19146)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9420)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8990)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9593)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9022)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14763)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10101)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8356)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8955)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8977)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8745)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9374)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14604)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9044)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8785)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9051)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10537)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8647)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9997)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24290)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10179)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11032)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9006)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9475)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8006)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9272)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15350)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10342)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9586)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17449)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21407)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12170)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10234)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19243)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26052)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7982)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14810)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10637)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11356)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9538)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18685)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12368)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11889)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10760)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13348)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10003)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9276)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9395)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15906)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant