Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bất Không Quyến Tác Thần Chú Tâm Kinh

10 Tháng Tám 201100:00(Xem: 27137)
Bất Không Quyến Tác Thần Chú Tâm Kinh

BẤT KHÔNG QUYẾN TÁC THẦN CHÚ TÂM KINH
* Đường Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch từ Phạn ra Hán văn.
* Sa-môn Thích Viên Đức dịch ra Việt văn. (1976)

Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la, chiêm-bác-ca, a-du-ca, Cực giải thoát. Lại có vô lượng các cây báu xen nhau trang nghiêm chung quanh, hương thơm hoa đẹp, cỏ lạ mềm dịu nơi nơi đều có. Lại có vô lượng suối ao khe báu, có nước tám thứ công đức đầy dẫy, trong ấy các hoa đơm trổ trang sức một cách rất thích thú. Lại có vô biên các loại cầm thú khác nhau, hình dung thù diệu, đều đủ từ tâm, phát ra các thứ âm thanh dường như âm nhạc: cùng các vị Tỳ-khưu chúng 8.000 vị đều đầy đủ, 99 câu-chi na-du-da trăm ngàn Bồ-tát Ma-ha-tát, vô lượng trăm ngàn chúng chư Thiên cõi trời Tịnh Cư, Tự Tại Thiên chúng, vô lượng trăm ngàn trước sau vi nhiễu nghe Phật thuyết Pháp.

Lúc bấy giờ, trong hội có một vị Ðại Bồ-tát gọi là Quán Tự Tại từ tòa đứng dậy, sửa sang y phục, trịch vai áo một bên, gối hữu sát đất, chắp tay hướng Phật, nét mặt vui vẻ, nở nụ cười mà bạch đức Phật rằng: “Con có thần chú tâm gọi là Bất Không Quyến Tác. Con ở thời xưa kia cách nay 91 kiếp, có thế giới gọi là Thù Thắng Quan, trong ấy có đức Phật gọi là Thế Chủ Vương Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Trượng Phu, Ðiều Ngự Sĩ, Phật, Bạc-già-phạm. Đức Phật Thế tôn kia thương xót con, cho nên vì con mà nói đại thần chú tâm này. Con liền thọ trìoai thần lực vậy, thường vì vô lượng TịnhThiên chúng, Tự Tại Thiên chúng, Ðại Tự Ðại Thiên Chúng, Ðại Phạm Thiên Vương và nhiều Thiên chúng, vô lượng trăm ngàn cung kính cúng dường tôn trọng ngợi khen, con đều giáo hóa họ, khiến họ đến thẳng đạo Vô thượng Bồ-đề Chánh Ðẳng Chánh Giác. Con nương sức công đức như thế nên liền thu hoạch mười ức Bất Không Diệu Trí Thượng Thủ Trang Nghiêm Ðại Tam-ma-địa. Do được định lực này hiện thấy mười phương vô lượng vô số chư Phật thế giới, hết thảy Như Lai và các chúng hội, đều đi đến cúng dường và nghe học Chánh pháp, lần lượt giáo hóa vô lượng hữu tình, đều khiến phát tâm thẳng đến Vô thượng giác, cho nên chú lực này không thể nghĩ bàn, hay cứu chúng sanh khỏi vô lượng khổ nạn, các kẻ hữu trí đều nên thọ trì.

Kính thưa đức Thế tôn! Nếu chỗ nào có thần chú tâm này thì phải biết là chỗ đó có Tự Tại Thiên, Ðại Tự Tại Thiên, Phạm Thiên Vương... làm thượng thủ, cùng 12 ức chư Thiên thần chúng thường cùng giữ gìn cung kính cúng dường chư Phật Chế-đa (tháp nhiều tầng) không khiến bạo ác, các quỷ thần thảy đều dạo chơi trong ấy.

Kính thưa đức Thế tôn! Tùy theo quốc ấp nào lưu hành Bất Không Quyến Tác Thần Chú Tâm Kinh như thế, phải biết rằng trong quốc ấp ấy các loài hữu tình đã trồng các căn lành nơi vô lượng câu-chi na-du-đa trăm ngàn chư Phật, nay nương thừa đại nguyện lựctrở lại đây.

Kính thưa đức Thế tôn! Nếu có chúng sanh tạo các trọng tội, tập hành ác pháp, hủy nhục Hiền thánh, phỉ báng Chánh pháp sẽ đọa trong Vô gián đại địa ngục, trải qua vô số kiếp thọ các kịch khổ. Chư Phật, Bồ-tát, Ðộc giác, Thanh văn tuy đầy đủ thần thông mà không thể cứu vớt. Chúng sanh kia nếu nghe Tâm Kinh thần chú này hay sinh lòng hối hận trọn không dám tạo nữa. Nếu chúng sanh kia lại trải qua một ngày một đêm thọ trì trai giới tụng Tâm chú này thì hiện đời thọ nhẹ những tội nghiệp đã làm, không phải đọa Vô gián địa ngục. Tại sao chứng biết người kia hiện tại thọ nhẹ quả báo, không đọa địa ngục? Nghĩa là nếu thoạt gặp những bịnh lạnh nóng, hoặc trải qua một ngày, hai ngày, hoặc lại cho đến trải qua bảy ngày, hoặc bịnh mắt đau, tai đau, mũi đau, răng đau, môi đau, lưỡi đau, hoặc nướu đau, hoặc tim ngực đau, hoặc bụng rún đau, hoặc lưng vai đau, hoặc hông sườn đau, hoặc âm khoan đau, vế gối đau, hoặc chi tiết đau, hoặc tay chân đau hoặc đầu mặt đau, hoặc yết hầu cổ họng đau, hoặc vai cánh tay đau, hoặc gặp phong bịnh, khí bịnh, trĩ bịnh, lỵ bịnh, lâm bịnh, hoặc gặp suyễn bịnh, tiễn bịnh, bạch lại hắc lại bịnh và các giới tiễn (các loại lác); hoặc mắc phải bào sang, cam sang, hoa sang, lậu sang, độc sang, gặp ung thư, ung thủng, du thủng, đinh thủng, tiết thủng, độc thủng; hoặc bịnh điên giản, hoặc bịnh cam thấp; hoặc bị quỷ mỵ, hoặc bị trù ếm, hoặc bị chú trù rủa, hoặc bị độc dược, hoặc bị tù trói, bị gông cùm xiềng xích, hoặc bị đánh mắng, hoặc bị phỉ báng, hoặc bị mưu hại, hoặc bị khủng bố, hoặc lại gặp các việc tăng giảm bất nhiêu ích; tóm lại mà nói, đã có thân tâm bức thiết khổ não và thấy ác mộng, do đây chứng biết rằng người kia hiện thọ khinh báo, không bị đọa vào Vô gián địa ngục. Ðã tạo tội nghiệp thảy đều tiêu trừ, chúng sanh như thế, do chú lực đây, hiện đời thọ khinh báo, trọng tội thì được tiêu trừ, huống gì các hữu tình thân tâm thanh tịnh, nghe trì chú này mà không thu hoạch được phước báo hay sao, tội nghiệp đời trước cũng được tiêu trừ, hiện tại vị lai thường được an lạc sung sướng.

Kính thưa đức Thế tôn! Nếu có bốn chúng hoặc bốn giòng họ ([1]) giả như đem tâm dua nịnh dối trá mà nghe học thần chú tâm kinh này, thọ trì đọc tụng chép viết cúng dường, vì người khác khen nói, khiến cho họ nghe nhận, cho đến tự mình đến bên tai của loài súc sanh khẩn thiết niệm tụng giúp cho chúng được nghe, lại còn thẩm xét suy tư chương cú thần chú này, không phỉ báng, không chấp giữ tướng, không phân biệt, không có các khởi tâm; không chậm hành trì, vô vi mà làm, xa lìa nhiễm ô, tâm bình đẳng, không tăng giảm, lìa ngủ uẩn. Người kia dựa vào phương tiện này ở chỗ chư Phật lại tu tùy niệm, và nhờ có sức công đức như thế, ở nơi mười phương, mỗi phương có ngàn Phật đến hiện trước mặt người ấy dạy dỗ khiến cho họ ăn năn, hối hận, trừ những tội đã làm trước kia, đã có sở nguyện gì đều khiến mãn túc.

Nếu không thể làm những điều ở trên đã nói, mà chỉ chép viết thần chú tâm Kinh này để trong nhà lễ bái cúng dường cũng được vô lượng vô biên công đức.

Thưa đức Thế tôn! Nếu có chúng sinh vì muốn thắng kẻ khác hoặc sợ chủ, hoặc sợ oán cừu, sợ ác thú, sợ ách nạn, hoặc theo kẻ khác, hoặc cầu cao quý, nhiều tài bảo, nghe học thần chú tâm Kinh như thế, mặc dù nghe học nhưng lại không cung kính, hoặc lại phỉ báng, khinh khi chê bai, thì người trí nên biết chẳng phải do tự lực của chúng sinh kia, mà là do oai thần lực của Quán Tự Tại Bồ-tát khiến chúng sinh ấy được nghe lọt vào tai, nhờ đó chúng sinh ấy hiện tại, vị lai được những việc lợi lạc như vậy.

 Kính thưa đức Thế tôn! Thí như có người đạp bẻ trầm hương hoặc lấy xạ hương hoặc vào trong rừng chiên đàn, long não hương… v.v, tuy phỉ báng, khinh khi chê bai các thứ nhưng lại mài trộn dùng để thoa thân thể. Tuy nhiên trầm hương, xạ hương lại không tác ý rằng “người kia đạp gãy lăng mạ, nên ta không cho họ mùi hương” mà cái tánh tự nhiên của trầm xạ là tiết ra mùi thơm. Thần chú tâm này cũng lại như thế. Tuy có phỉ báng, khinh tiện, chê bai hoặc là đem cái tâm dua nịnh, cong quẹo như trên đã nói, chép, viết, thọ trì, cung kính cúng dường thì cũng làm nhân duyên căn lành của người kia, khiến cho người kia đời đương lai tùy sinh chỗ nào đều đầy đủ công đức diệu hương của Giới Ðịnh Huệ, cũng hay vì kẻ khác mà làm những việc hương thơm đó. Vậy cho nên oai đức của thần chú này rất khó nghĩ bàn, tin báng gì cũng hay đều hay làm những việc nhiêu ích.

Kính thưa đức Thế tôn! Nếu có kẻ trai lành và người gái tín,Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di hoặc còn nhiều người khác nữa, vào ngày mùng 8 tháng bạch nguyệt, thọ trì trai giới chuyên tâm tụng đại thần chú tâm Kinh này cho đến bảy biến không xen tạp ngữ khác thì phải biết người đó hiện đời quyết định được 20 điều lợi ích thù thắng. Những gì là 20 điều?

1. Thân không có các bịnh, yên ổn sung sướng
2. Do những nghiệp lực đời trước tuy có bịnh sinh mà hay trừ lành
3. Thân thể mềm mại, nhỏ nhiệm, da thịt trắng trẻo đẹp đẽ, mắt mặt trong sáng
4. Mọi người kính thương
5. Mật hộ các căn
6. Thu hoạch nhiều tài bảo, tùy ý thọ dụng
7. Ðã có tài bảo, vương tặc thủy hỏa không thể xâm tổn
8. Ra làm sự nghiệp gì đều thành tựu tốt đẹp
9. Nếu có trồng tỉa, không sợ ác long, sương muối, bão lụt
10. Nếu có ruộng lúa mạ bị tai hoạnh, lấy thần chú này chú trong tro sạch hoặc nước sạch trải qua bảy biến xong rồi, đem rải ở tám phương của ruộng kia, trên dưới mà kiết giới, tai hoạnh lúc bấy giờ đều liền bị trừ diệt
11. Không bị tất cả quỷ thần, La-sát bạo ác hớp đoạt tinh khí
12. Tất cả hữu tình thấy nghe hoan hỷ, ưa mến tôn trọng thường không biết nhàm chán
13. Thường không lo sợ tất cả oán cừu
14. Giả như có oán cừu, mau tự tiêu diệt
15. Nhơn cùng Phi nhơn... không thể xâm hại
16. Ếm mị, trù rủa, cổ đạo không dính vào thân
17. Phiền não, triền cấu, không thể hiện hành
18. Ðao độc, hỏa thủy không thể thương tổn
19. Chư Thiên, thiện thần thường theo hộ vệ
20. Ðời đời không xa lìa từ bi hỷ xả

Người tu hành kia được 20 điều lợi ích thù thắng như thế. Lại còn thu hoạch được tám pháp nữa. Những gì là tám?

1. Khi mạng chung được thấy đức Quán Tự Tại Bồ-tát hiện tướng Tỳ-khưu đến trước mặt người trì chú này vui mừng khen ngợi, an ủy.
2. Mạng chung yên ổn, không có các điều đau khổ.
3. Khi sắp xả mạng, mắt không trợn ngược, miệng không hả méo, tay buông thong thả, chân lìa tướng mỏi mệt, không tiết ra những chất dơ uế của đại tiểu tiện, không rớt nghiêng xuống giường.
4. Khi sắp xả mạng thường an trụ chánh niệm, không loạn tưởng
5. Khi mạng chung không che mặt mà chết
6. Khi sắp xả mạng được vô tận biện
7. Ðả xả mạng rồi, tùy nguyện vãng sanh Tịnh độ của chư Phật
8. Thường cùng bạn lành không xa rời nhau.

Kính thưa đức Thế tôn! Nếu có kẻ trai lành, người gái tín… vv, hay đoạn dứt rượu thịt và các thứ ngũ tân, không ăn chút tàn dư dơ uế, thân thường thanh khiết, ngày ngày ba thời chuyên tâm trì tụng Bất Không Quyết Tác thần chú tâm Kinh như thế, người kia được ngày đêm tăng trưởng công đức thù thắng.

Nếu hay đối với pháp xả lòng xan lẫn, lìa tâm tật đố, chuyên làm lợi lạc tất cả hữu tình, quán xem các chúng sanh có tâm hữu lực hay vô lực, tương ưng vì họ mà nói thần chú tâm Kinh này thì phải biết rằng những hạng người đó mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, được xem như ngang bằng các Ðại Bồ-tát. Những người đó gọi là Bồ-đề Tát-đỏa. Bồ-đề được nói đến có nghĩa là Bát-nhã, Tát-đỏa tức là phương tiện. Hai pháp như thế đối với các hữu tình hay làm tất cả lợi ích an vui.

Kính thưa đức Thế tôn! Con nay vì muốn lợi ích an vui cho tứ bộ chúng và vì trừ diệt tội nghiệp của những ác hữu tình, ở trước Như Lai muốn nói thần chú này, cúi mong đức Thế tôn thương xót cho phép con!”

Lúc bấy giờ, đức Thế tôn dạy Quán Tự Tại Bồ-tát Ma-ha-tát rằng: “Ðại chúng thanh tịnh, đã đến lúc nên nói. Ta cũng tùy hỉ, thần chú tâm này là phụ mẫu của Bồ-tát đời đương lai, khiến Bồ-tát đã làm các sự nghiệp mau được thành tựu, cũng khiến tất cả những việc khủng bố mau được trừ diệt.”

Lúc bấy giờ Quán Tự Tại Bồ-tát Ma-ha-tát được đức Phật cho phép nên vui mừng hớn hở, chiêm ngưỡng Tôn nhan, mắt chưa tạm rời, chắp tay cung kínhbạch Phật rằng: “Thần chú Tâm này là chỗ các Bồ-tát nên tôn trọng, cung kính cúng dường vì đó là tối Giải thoát viên mãn Pháp môn, làm lợi ích an vui cho các chúng sinh. Các vị muốn thọ trì Tâm chú này, nên trước hết kính lễ quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật và chư Bồ-tát, Ðộc giác, Thanh văn. Lại nên kính lễ Chánh chí Chánh hạnh, lại nên kính lễ Xá-lợi… v.v., chư đại Thanh văn. Lại nên kính lễ Thánh Từ Thị… v.v., chư Ðại Bồ-tát. Lại nên kính lễ Vô Lượng Quang Phật. Lại nên kính lễ Phật Pháp Tăng bảo. Lại nên kính lễ thánh Quán Tự Tại Bồ-tát Ma-ha-tát Cụ Ðại bi giả. Ðã kính lễ rồi, lại nên niệm rằng: “Thần chú Tâm này gọi là Bất Không Quyến Tác, là Quán Tự Tại Bồ-tát ở trước đức Như lai tại trong đại chúng, thân tự diễn nói. Con nay đọc tụng, nhờ đó tất cả sự nghiệp mau được thành biện, khiến tất cả việc khủng bố mau bị trừ diệt”, khởi niệm ấy rồi tức đọc tụng rằng:

Ðát Ðiệt Tha: Ám Triết Lạc Triết Lạc, Chỉ Lí Chỉ Lí, Chủ Rô Chủ Rô
Khể thủ Cụ Ðại bi giả:
Tát Lạc Tát Lạc, Tử Lí Tử Lí, Chỉ Lí Chỉ Lí, Tỉ Lí Tỉ Lí
Khể thủ Ðại Liên Hoa Thủ:
Yết Lã Yết Lã, Kiết Lị Kiết Lị, Khuất Lộ Khuất Lộ
Khể thủ Ðại tịnh hữu tình:
Bột Ðiệt Bột Ðiệt, Tha Bà Tha Bà, Khẩn Ni Khẩn Ni
Khể thủ Cực tịnh hữu tình:
Yết Lạc Yết Lạc, Chỉ Lị Chỉ Lị, Củ Rô Củ Rô
Khể thủ Ðắc đại thế giả:
Triết Lã Triết Lã, San Triết Lã, San Triết Lã, Tì Triết Lã Tì Triết Lã, Y Triết Tra Y Triết Tra, Bạt Lạc Bạt Lạc, Tỉ Lị Tỉ Lị, Bộ Rô Bộ Rô, Y Hế Y Hế
Khể thủ Ðại bi Ðại thú Vương tướng
: Ðạt Lạc Ðạt Lạc, Tát Lạc Tát Lạc, Triết Lạc Triết Lạc, Bác Lạc Bác Lạc, Hát Lạc Hát Lạc, Kha Kha Hế Hế, Hô Hô Ống Ca Lạc
Khể thủ Ðại Phạm Vương tướng:
Ðạt Lạc Ðạt Lạc, Ðịa Lị Ðịa Lị, Ðổ Rô Ðổ Rô, Ðát Lạc Ðát Lạc, Tác Lạc Tát Lạc, Bác Lạc Bác Lạc, Phiệt Lạc Phiệt Lạc
Khể thủ Bách Thiên Quang Trang nghiêm thân:
Thập Phiệt Lã Thập Phiệt Lã, Ðáp Bá Ðáp Bá, Bạc-già-phạm
Khể thủ Nhật Nguyệt Diêm Ma Phiệt Rô Nõa Củ La Thích Phạm, dữ Tài Ðẳng Thiên Tiên chúng sở cúng dường chi:
Mạt Lạc Mạt Lạc, Nhỉ Lí Nhỉ Lí, Mẫu Rô Mẫu Rô, Tốt Rô Tốt Rô, Chủ Rô Chủ Rô
Khể thủ Tác Nại Ðồng Tử Rô Ðạt La Y Tỳ Sắc Nộ Ðạt Nại Ðà Tiên Na Dược Ca Tì Na Dược Ca chúng đa hình tướng
: Ðạt Lạc Ðạt Lạc, Ðịa Lí Ðịa Lí, Ðổ Rô Ðổ Rô, Thác Lạc Thác Lạc, Yết Lạc Yết Lạc, Bát Lạc Bát Lạc, Xả Lạc Xả Lạc, Thứ Lạc Thứ Lạc, Hát Lạc Hát Lạc, Mạt Lạc Mạt Lạc, Phiệt Lạc Phiệt Lạc
Khể thủ Dữ nguyện Phổ Quán Thắng Quán Thế Tự Tại Ðại Tự Tại:
Mẫu Hô Mẫu Hô, Mẫu Rô Mẫu Rô, Mẫu Da Mẫu Da, Muộn Giá Muộn Giá, Lạc Xoa Lạc Xoa
Khể thủ năng linh ngã cập nhứt thiết hữu tình giải thoát nhứt thiết bố úy, giải thoát nhứt thiết yểm cổ, giải thoát nhứt thiết tai hoạnh, giải thoát nhứt thiết tật bịnh, giải thoát nhứt thiết tà mị vọng lượng giải thoát nhứt thiết oan gia sát phược khủng hát chúy dã, giải thoát nhứt thiết vương nạn tặc nạn, giải thoát nhứt thiết thủy hỏa phong nạn, giải thoát nhứt thiết đao độc đẳng nạn giả:
Yết Nõa Yết Nõa, Khẩn Ni Khẩn Ni, Khuất Nữu Khuất Nữu, Triết Lạc Triết Lạc
Khể thủ năng khai thị nhứt thiết căn lực giác chi đạo chi tứ thánh đế giả:
Ðáp Ma Ðáp Ma, Táp Ma Táp Ma, Mạt Ta Mạt Ta
Khể thủ năng trừ chư đại hắc ám, sinh trưởng mãn túc lục Ba-la-mật-đa giả:
Nhĩ Lí Nhĩ Lí, Tra Tra Tra Tra, Sá Sá Sá Sá, Trí Trí Trí Trí, Chú Chú Chú Chú
Khể thủ bị phục y nê da bì, cụ đại từ bi tự tại đại tự tại, năng phá nhứt thiết ác quỷ thần giả, tốc lai tốc lai cứu hộ ngã đẳng:
Củ Lô Củ Lô, Bác Lạc Bác Lạc, Tác Lạc Tác Lạc, Yết Lạc Yết Lạc, Yết Tra Yết Tra, Mạt Tra Mạt Tra
Khể Thủ Trụ Tịnh Ðộ Cụ Ðại Bi Giả, Thân Bội Bạch Kiết Tường Lũ, Cảnh Ðới Chúng Bảo Anh Lạc, Thủ Quan Hoa Man Bảo Quan, Ư Bảo Quan Trung Ðương Vu Ðảnh Thượng Hữu Nhứt Thiết Trì Tượng, Thủ Chấp Hi Hữu Ðại Bảo Liên Hoa, Ư Chư Tịnh Lự Ðẵng Trì Giải Thoát Chúng Diệu Công Ðức, Giai Bất Khuynh Ðộng, Thiện Năng Thành Thục Nhứt Thiết Hữu Tình, Cụ Ðại Từ Bi, Năng Trừ Nhứt Thiết Nghiệp Chướng, Năng Cứu Nhứt Thiết Bịnh Khổ, Phổ Năng An Ủy Nhứt Thiết Hữu Tình:
Ám Hiệt Lị Ðát Lai Lộ Ca Tỳ Ám Da. Úm Mộ Già Bá Xa, Hiệt Lị Ðạt Da, Úm Bát Lạc Ðể Hát Ða, Yểm Phái Tóa Ha, Nạp Mổ A Mộ Dà Da Tóa Ha, Nạp Mô A Thị Ða da Tóa ha, Nạp Mô A Bác, La Thị Ða Da Tóa Ha, Nạp Mô Phiệt Lạc Bát Lạc Trá Da Tóa Ha, Nạp Mồ Tát Bà Yết Ma Tất Ðạt Duệ Tóa Ha, Yểm Ðổ Da Tráng Tóa Ha.

Tụng thần chú tâm này quyết có linh nghiệm, hay thọ trì thần chú này, chỗ mong cầu đều thành tựu. Các vị cứ mỗi ngày ba thời, mỗi thời tụng 108 biến, ngũ vô gián tội quyết được trừ diệt. Tất cả nghiệp chướng đều được thanh tịnh. Khi muốn tụng niệm, trước phải kiết giới. Muốn làm pháp kiết giới kia, lấy tro hoặc nước hoặc bạch giới tử (hạt cải trắng) hoặc đam sơn quyết ([2]) chú bảy biến khiến đóng bốn phương, thiêu trầm thủy hương, chí tâm niệm tụng. Các bịnh lạnh nóng và sốt rét nên chú trong dây gút 21 biến, đeo trên cổ hoặc đeo trên tay tức được trừ lành. Có các người bịnh, chú trong bơ, trong dầu hoặc là chú trong nước 21 biến khiến cho người bịnh ăn uống, liền được trừ lành.

Nếu muốn giải sự ếm đối trù rủa của kẻ khác, lấy bùn dẻo thanh tịnh hoặc bún hoặc mật hoặc sáp ong… v.v., làm hình tượng người ếm đối, niệm tụng chú này, tay cầm dao bén, phát lòng từ mẫn thương xót người ếm đối mà chặt cắt từng đoạn. Lại dùng thần chú, chú vào chỉ rồi đeo vào thân người bị ếm, khiến các sự sợ hãi liền được trừ lành.

Các bịnh đau bụng nên chú trong nước muối khiến cho người bịnh uống liền được trừ lành. Gặp các cổ độc hoặc rắn hoặc rít, sâu v.v., đã cắn mổ, chú trong nước khiến uống, chú trong bùn dẻo mà thoa, tức được trừ lành. Các bịnh đau mắt, nên chú vào sợi chỉ trắng đeo trên tai của người bịnh, liền được trừ lành. Có các bịnh răng nướu, đau nhức nên chú trong cây Yết-la-tỉ-la 21 biến rồi bỏ vào miệng mà nhai, đều được trừ lành.

Các chỗ sợ hãi, nên phải kiết giới mà ở trong đó, giới pháp kết kia được thực hiện bằng cách chú trong chỉ ngũ sắc 21 biến, đem giăng trên cái cọc nhọn đã được đóng sâu ở bốn góc, liền được không sợ hãi. Muốn tự hộ các việc cho mình, nên lấy chú này chú vào chỉ mà đeo trong thân thể, hoặc chú trong nước tro tán sái trên thân. Có các quỷ thần, mị bắt bớ nơi thân, chú chỉ ngũ sắc thường dùng đeo bên mình, tức các quỷ mị này liền xả ly.

Tất cả bịnh hoạn ghẻ, thủng v.v., lấy lá Tất-bát-mạt (một loại lá lốt) hòa với mật chú 21 biến, dùng thoa tức được lành. Các bịnh hoạn về con mắt, nên chú trong hương thủy hoặc cam thảo thủy, Bát-lã-xa thủy 21 biến rồi rửa mắt, tức được trừ lành. Các bịnh về tai mũi, nên chú trong dầu nóng 21 biến, nhỏ vào trong lỗ tai, lỗ mũi tức được trừ lành.

Có các sự đấu tranh, oán cừu, mưu toan, các việc quan sự ép ngặt nên chú trong nước tịnh thủy 21 biến, rửa mặt sái thân, tức được hòa giải.

Khi có tai nạn khởi lên trong các quốc độ, vương đô thành ấp, nên kết đạo tràng, ngưu phẩn đồ địa, nước hương thơm rưới sái khắp nơi trong đạo tràng, ở bốn góc, mỗi góc để một bình, trong bình kia để hoa và nước, lấy cỏ thanh tịnh mới trải khắp đạo tràng, trưng bày những trái ngon quả ngọt, đồ ẩm thực khắp đạo tràng, bày bốn bánh đèn, dầu, hương thơm, tịnh chú thắp lên để bốn góc, lấy các danh hoa rải khắp trong đạo tràng, thiêu đốt thượng diệu hương mà cúng dường. Người tụng chú dùng nước hương thơm tắm rửa thân thể, mặc y mới thanh tịnh, tòa ngồi sạch sẽ, đoan thân chánh niệm tụng Tâm chú này. Nếu chủ nhân chí thành thì tai nạn liền dứt.

Có các tật dịch, yêu quái nổi lên các xứ v.v., chú trong bình nước sái chỗ ấy và thân, tất cả tai hoạn thảy đều trừ diệt. Nếu bị ma mị, lấy nước trong bình, mài Chiên đàn hương chú 21 biến dùng xoa trên tâm, ma mị liền dứt. Nếu thường niệm tụng thần chú tâm này, tứ trọng, ngũ nghịch, báng pháp, các chướng thảy đều trừ diệt. Muốn hộ nước nhà khiến không tai ách, nên lấy hoa sen 108 cái, mỗi cái chú một biến bỏ vào bên trong hỏa đàn cúng dường hiền thánh, tai ách tức diệt, nước nhà yên ổn.

Nếu muốn kẻ khác phát lòng từ tâm không sanh tị hiềm tật đố, nên lấy 108 khúc Chiên đàn hương dài hai tấc Tàu. Mỗi khúc chú một biến, bỏ vào trong hỏa đàn cúng dường hiền thánh, hay khiến cho người kia thương mến mà không sân hận.

Nếu sợ dịch tật quỷ mị bắt bớ nơi thân, nên lấy đổ-da dược, tỳ-đổ-da dược, na-củ-la dược, kiền-đà-na-củ-la dược, bà-thích-ni dược, úm-bạt-da-ba-ni dược, nhân-đạt-la-ba-ni dược, kiền-đà-tất-lị-dạn-cù dược, huyệt-yết-lam dược, nghiên-ngật-la dược, tỳ-sắc-nổ-ngật-lang-đa dược, tố-ma-la-thời dược, tố-nan-đà dược, xà-diên-để-được, bạch đàn hương dược, xá-lị-ma dược, xá-lị-bà dược, yết-tất-để-bà-thích-ni dược, yết-lệ-thứ-ca dược, kiền-đà-hiệt-yết dược, kim cang dược, hắc-lam dược, phiệt-lã-kha-khất-lan-đa dược, các thứ thuốc dược như vậy đâm rất nhỏ và rây cho thật mịn, làm hoàn hình lớn như trái táo chú 108 biến để nơi trên đảnh hoặc đeo nơi hai tay, tật dịch quỷ mị đều không dính thân.

Nếu có trẻ nhỏ bị tà khí vọng lượng làm giật mình sợ hãi, chú trong hoàn thuốc này 108 biến, rồi đeo dưới yết hầu, trẻ không giật mình sợ hãi nữa. Nếu có người nữ bạc phước đã đến tuổi mà mọi người thấy đều chán ghét, chú trong hoàn thuốc này 108 biến hòa trong nước tắm rửa nơi thân, ác tướng đều trừ, mọi người yêu kính, thân uế ác bịnh cũng được trừ lành. Nếu có các người phụ nhơn cầu sanh con trai, chú trong hoàn thuốc này 108 biến đeo trên thân, hoặc hòa với nước mà tắm, liền được sanh con trai.

Nếu chú hoàn thuốc này mà đeo trên thân thì đao độc, thủy hỏa, ác thú, oan gia, ếm mị, cổ đạo, hết thảy tai hoạnh đều không làm hại. Nếu bịnh hoạn ghẻ, ung thư, chú hoàn thuốc này 108 biến hòa với nước thoa chỗ ấy, liền được trừ lành.

 Nếu gặp ác phong bạo vũ, sương muối, mưa đá, chú trong nước thanh tịnh 21 biến, tán sái bốn phương, hoặc chú trong nhánh cây Yết-la-tì-la 21 biến miệng vẫn tụng chú, hướng về bốn phương mà quơ qua lại thiên tai liền đỉnh chỉ.

Ðại thần chú tâm Quán Tự Tại này tuy không thọ trì chỉ y pháp trước mà tụng thì quyết có linh nghiệm. Nếu hay thọ trì thì ra làm sự nghiệp gì, không việc gì mà không thành tựu tốt đẹp. Người muốn thọ trì, lấy lụa trắng mới, dài mưới thước Tàu, rộng năm thước Tàu, nguyên tấm vải không ráp nối, dùng họa tượng Phật, dùng màu sắc hòa với keo hương dẻo, ngoài ra các thứ keo khác không được dùng.

Bên hữu tượng Phật vẽ Quán Tự Tại Bồ-tát giống như Ðại Tự Tại Thiên, đảnh đầu có búi tóc, đội mão hoa, phủ áo phía cánh tay trên bên tả, dùng anh lạc, vòng xuyến để trang nghiêm các phần của thân thể. Vị họa sư cần phải tắm rửa bằng nước hương thơm sạch sẽ, mặc y mới thanh tịnh, chớ ăn các món tạp uế, chuyên tinh trai giới, họa vẽ ở nơi tịnh thất. Nên đem tượng này để trong tịnh thất thanh tịnh, nơi trước tượng kia, ngưu phẩn đồ địa bề ngang bề rộng chừng một trượng 90, bốn phương vuông vức bằng nhau, ở nơi trong đàn kia tán rải hoàn toàn hoa trắng. Lấy tám cái bình thanh tịnh, mỗi cái chừng một lít đựng đầy hoa, hương thủy an trí tám phương. Lại ở nơi tám phương đó, trải tám tòa bằng cỏ, trên mỗi tòa để một phần thực; và ở bên tám tòa, mỗi một cái để tám phần thực. Món ăn cúng dường đó phải là những món ngon nhất trên đời được dùng để cúng dường, chỉ trừ ngũ tân, huyết nhục, tửu và các thứ tạp uế vật.

Lại thiêu trầm hương chí thành cúng dường. Người thọ trì chú, trước hết ba ngày ba đêm đoạn thực; nếu không nhịn được, thì chỉ một ngày một đêm không ăn, mỗi ngày ba thời, tắm rửa sạch sẽ. Sau khi đại tiểu tiện, phải tắm gội sạch sẽ, mặc y mới thanh tịnh, ăn ba thứ bạch thực là sữa, bơ và gạo trắng ngon nhất. Ăn rồi súc miệng, xỉa răng sạch sẽ, đi đến trước tượng Phật thiêu trầm thủy hương chí thành đảnh lễ, chuyên tâm tụng Ðại thần chú tâm này mãn 8.000 biến. Bấy giờ hành giả tự thấy thân mình phóng hào quang sáng cũng như hỏa diệm sơn, thấy việc đó rồi vui mừng hớn hở. Lúc ấy Quán Tự Tại liền hiện trước mặt người kia, tùy sở nguyện cầu đều khiến mãn túc.

Nếu muốn tự ẩn, nên chú trong hùng hoàng hoặc an-thiện-na mãn 8.000 biến, nghiền làm bột lấy thoa nơi con mắt. Nếu muốn bay lên hư không, nên dùng bột này xoa dưới chân. Do chú lực này, hành giả chứng Bất Không trí mà làm bậc Thượng thủ Trang nghiêm Ðẳng trí 3. Ðã chứng được định trì này rồi, phàm ra làm sự nghiệp gì hết thảy đều thành tựu tốt đẹp.”

Lúc bấy giờ, đức Thế tôn khen ngợi Quán Tự Tại Ðại Bồ-tát rằng: “Lành thay, lành thay! Ông nay thương xót tất cả hữu tình mà nói thần chú này để khiến họ đều được lợi ích an vui. Ta càng rất vui mừng”.

Khi Bạc-già-phạm nói lời ấy rồi, Quán Tự Tại Ðại Bồ-tát, Tịnh Cư Thiên chúng, Tự Tại Thiên chúng, Ðại Tự Tại Thiên Chúng, Đại Phạm thiên vươngthiên chúng, Thanh văn và Bồ-tát đều đại hoan hỷ tín thọ phụng hành.

 Bất Không Quyến Tác thần chú tâm kinh
(hết)
Sa-môn Thích Viên Đức dịch từ Hán văn ra Việt văn (1976), bản nháp, chưa chỉnh sửa.

Đánh máy vi tính: Chúc Huy Nguyễn Minh Hoàng, Chúc Hiền Nguyễn thị Diệu Minh.


[1] Bốn đẳng cấp của xã hội Ấn Độ thời bấy giờ, là Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, Phệ-xá, Thủ-đà-la.

[2] Cọc để ếm, là một khúc cây ở trên núi, được chuốt nhọn một đầu.

3. Bất Không Diệu Trí Thượng thủ Trang nghiêm đại tam-ma-địa.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11505)
Thông Bạch Phật Đản 2016 - Phật Lịch 2560 của Chánh Văn Phòng HĐCM GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 10585)
Phật Đản là ngày sinh của Đức Phật. Theo như trong kinh Phật đã dạy: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”,
(Xem: 10848)
‘Tào khê thuỷ’ (曹溪水) hay ‘Tào Khê’ là đại từ chỉ định về Lục tổ Huệ Năng, cũng chỉ cho dòng suối trí tuệ Phật giáo.
(Xem: 9952)
Chúng ta có hai cách giao lưu với thế giới nội tâm và với thế giới bên ngoài. Một: Tâm cảm thọ (Sensing mind) trực tiếp qua giác quan như ...
(Xem: 9613)
“Thị hiện Đản sanh”, là cụm từ được chỉ chung cho tất cả các bậc Thánh nhân, chư Phật, Bồ Tát khởi lên ý niệm tự phát nguyện...
(Xem: 12977)
Dòng đời cứ cuồn cuộn hay lặng lẽ mãi miết trôi, và mọi cảm nhận tiếp thụ của con người vẫn cứ lan chảy bất tận theo thời gian.
(Xem: 13391)
Phương cách tốt nhất giúp ta tỉnh giác khi hành Thiền là ta biết giữ hơi thở trong tâm.
(Xem: 13540)
Hãy tụng kinh Kim cương nhiều lần. Thầy cũng sẽ cầu nguyện, trì tụng và hồi hướng cho con ngay bây giờ.
(Xem: 19903)
Thân thị Bồ đề thọ, Tâm như minh cảnh đài, Thời thời cần phất thức, Vật sử nhá trần ai.
(Xem: 12604)
Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh.
(Xem: 13324)
Chánh niệm tỉnh giác (Satisampajanna) là một thuật ngữ Phật học ngụ ý một nếp sống thanh thản an lạc trong đời sống sinh hoạt hàng ngày.
(Xem: 13601)
Không biết tự bao giờ, mùa xuân được lấy làm biểu tượng của tâm hồn an lạcthanh tịnh.
(Xem: 13087)
Ngày xuân năm nay, chúng tôi sẽ đem đạo lý khuyến khích nhắc nhở tất cả Phật tử tinh tấn tu hành.
(Xem: 12424)
Nhân Tết con khỉ - Bính Thân, nên xin nói tản mạn về con khỉ, có liên hệ đến những ý tưởngquan niệm trong đạo Phật.
(Xem: 18635)
Hai bài kệ dưới đây trích trong Lục Tổ đàn kinh rất nổi tiếng trong giới Thiền học, được phổ biến, giảng luận không biết bao nhiêu là giấy mực...
(Xem: 10732)
Thiền Tôngpháp môn nguyên thủy và cốt tủy do Đức Phật dạy.
(Xem: 12459)
Không gì tuyệt đẹp hơn hình ảnh của mùa xuân, khi hoa đào hoa mai hé nở, khi những mầm xanh đang e ấp chờ đợi...
(Xem: 11054)
Năm cũ đã hết với bao đổi thay của đất trời và con người, để đón nhận một mùa xuân mới tràn đầy hạnh phúc.
(Xem: 11248)
Cảm ơn Xin cảm ơn Trời đất bốn mùa thay nhau chuyển đổi Xuân sinh, hạ trưởng Thu liễm, đông tàn
(Xem: 14759)
Vào thuở thịnh Đường, Lục tổ Huệ Năng ( 慧 能 638-713 ) sau khi đắc pháp với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ( 弘忍) và được truyền Y bát,
(Xem: 22724)
Bài này được viết vào khoảng tháng 11 năm 1991, có trong tác phẩm “Sân Trước Cành Mai,” xuất bản năm 1994.
(Xem: 11641)
Tết đã gần kề. Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam có cái chung nhưng cũng có những nét khác nhau tùy theo phong tục tập quán của từng vùng, miền.
(Xem: 10223)
Trong mùa xuân, thiên nhiên tự làm mới lại, con người cũng tự làm mới lại thân tâm mình, mọi vật đều cố gắng chuyển hóa thành mới, trong sạch, thanh tịnh.
(Xem: 34654)
Chúng ta thường nghe nói thế gian là biển khổ, bởi thế gian vui ít khổ nhiều. Nhưng trong chỗ vui đó, rốt cuộc cũng không tránh được khổ.
(Xem: 17823)
Ngày hết Tết đến nhìn thấy còn những người đau khổ chung quanh thì lòng mình không thể dửng dưng...
(Xem: 32815)
Niệm Phật tức là tham thiền không phải hai pháp, ngay lúc niệm Phật, trước tiên phải buông bỏ hết thảy các thứ vọng niệm, tạp loạn phiền não, tham, sân, si...
(Xem: 22200)
Thân của ta hôm nay thật là mong manh như bọt nước, niệm niệm sanh diệt không dừng. Lại sống trong ngôi nhà lửa không an ổn, sao mà cứ tỉnh bơ không chịu quán sát cho kỹ...
(Xem: 11276)
Ngoài kia, từng cánh én đang tung tăng chao lượn, dòng người thì tấp nập ngược xuôi trong tà áo mới, trên gương mặt ai nấy hân hoan rạng ngời
(Xem: 17687)
Tình yêu như bát bún riêu. Bao nhiêu sợi bún bấy nhiêu sợi tình.
(Xem: 17242)
Khách thập phương rảo bước quanh sân chùa, ngắm nhìn cảnh vật, cội mai già, nụ mai còn hàm tiếu.
(Xem: 10754)
Cụm từ trên không biết có tự bao giờ…? Thế nhưng từ lâu cho đến tận ngày hôm nay, thật sự đã đi sâu thẳm vào
(Xem: 10913)
Khi cây mai vàng chưa kịp đưa hương Và bờ cỏ đương đổi màu hoang tái Bóng chiều nghiêng cánh én còn ái ngại Vẫn nghe lòng vời vợi bước xuân phương
(Xem: 9654)
Vẫn mang chiếc áo lỳ năm tháng cũ Vẫn chiều nay, Bên khung cửa hôm nào Ta nhấp nháp chung trà hương viễn xứ
(Xem: 10661)
Cành mai năm trước, cành đào bây giờ vẫn một sắc hương, cội mai già nỉ non bung ra từng hé nụ, hoa đào đón gió tưng bừng khoe sắc hương.
(Xem: 10656)
Hãy nhìn lại thật gần, thật kỹ, những gì đang có trong lòng bàn tay. Mùa xuân không ở đâu xa. Mùa xuân ở nơi ấy.
(Xem: 10630)
Tâm giống như con khỉ (kapicitta) là một thuật ngữ, đôi khi Đức Phật dùng để diễn tả các hành-vi lo-lắng, khuấy-động,
(Xem: 12539)
Chư Thiện nhân! Trên đời có muôn ngàn đường lối, tại sao lại chỉ khuyên người niệm Phật?
(Xem: 12469)
Tôi không có tham vọng viết nhiều về Thuyết tiến hóa cũng không tham vọng viết ra đây cuộc đời của Charles Darwin (1809-1882)
(Xem: 10035)
Năm mới, chúng ta đón chào một mùa xuân mới được nhiều phước lộc, và học thay đổi cách sống mới để làm đời mình thêm tươi vui, hạnh phúc.
(Xem: 13296)
Hiện nay, ở một số chùa có trưng bày tượng ba con khỉ trong sân chùa. Nhưng không phải ai cũng biết về nguồn gốc cũng như...
(Xem: 9780)
Thay đổi cuộc đời trong Năm mới chính là Làm mới chính mình, nuôi dưỡng suối nguồn hạnh phúc.
(Xem: 9170)
Thành đạo còn gọi là Đắc Đạo, chứng đạo, đạt đạo, thành tựu đạo quả.
(Xem: 11893)
Phật pháp thường nói “ mạng người vô thường, cõi nước rủi ro”, “ thân người khó được Phật pháp khó nghe”;
(Xem: 13547)
Này các Tỷ kheo, các ông nên thực tập để luôn luôn sống trong chánh niệm và tỉnh giác. Bất cứ làm điều gì, các ông phải làm với chánh niệm.
(Xem: 12118)
Trước khi tìm hiểu kỹ về Thiền tông, chúng ta nên có một quan niệm tổng quát về tông phái này thì khi đi sâu vào chi tiết sẽ bớt bỡ ngỡ.
(Xem: 11356)
Khi chúng ta có ước muốn theo đuổi con đường tâm linh, ta phải hiểu thấu vì sao lại chọn đi con đường này.
(Xem: 11664)
Lòng bi mẫnsự thiền định hay thực hành quan trọng nhất mà bạn có thể làm. Mặc dù những giáo lý của Đức Phật nói về...
(Xem: 10408)
Tịnh Độ là một pháp môn rất thù diệu, dễ tu dễ chứng và phù hợp với mọi trình độ căn cơ chúng sanh. Chỉ cần người có lòng tin vào nguyện lực của Phật A di đà...
(Xem: 10318)
“Từ Thị Di Lặc” nghĩa là : người mang chủng tánh Từ Bi, rộng đức bao dung, hòa ái, êm dịu, luôn đem lại sự an lành hạnh phúc cho mọi người và cho cả cuộc đời.
(Xem: 10969)
Nguyên tác: Making Space with Bodhicitta; Tác giả: Lama Yeshe; Chuyển ngữ: Hoa Chí
(Xem: 28310)
Tiết Vu Lan bâng khuân nhớ Cha công dưỡng dục, mùa Báo hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 10898)
Con người không biết Phật cũng chẳng sao, không biết Nho giáo cũng chẳng sao, thậm chí không tín ngưỡng tôn giáo cũng chẳng sao, chỉ cần họ biết đạo lýsự thật của Nhân Quả Báo Ứng thì được rồi.
(Xem: 7475)
Lúc gần đây, khi tôi vào trang mạng của Dzogchen Ponlop Rinpoche đọc một bài viết có tựa đề là "Đạo Phật Là Một Tôn Giáo, Có Đúng Không?", tôi đã ngạc nhiên vì một số ý-kiến của người-đọc ở phần bên dưới bài viết
(Xem: 9392)
Tư tưởng thuần khiết nhất này là nguyện ước và ý chí đưa tất cả chúng sanh đến sự thực chứng năng lực Giác Ngộ vô thượng.
(Xem: 11834)
Người tu thiền chẳng những tâm được yên, trí sáng mà cơ thể lại tốt nữa. Cuộc sống lúc nào cũng vui tươi, không buồn không khổ.
(Xem: 11741)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 11161)
Thiền là gì? Để trả lời câu hỏi này, ngôn từ không phải bao giờ cũng cần thiết hay hoàn toàn thích đáng.
(Xem: 10380)
Thiền quán là nhìn một cách tĩnh lặng. Nhìn sự vật “như nó là”, không suy luận, không biện giải, không phê phán…
(Xem: 10321)
Ba viên ngọc quý Phật, Pháp, Tăng mà ai cũng có đầy đủ đều không ngoài Bản Tâm Tự Tánh mình.
(Xem: 13881)
Bậc giảng giải vô song, đỉnh cao của dòng họ Thích Ca, Người dìu dắt chúng sanh bằng giáo huấn duyên khởi...
(Xem: 15089)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 10575)
Thiền không phải là một tôn giáo, một học thuyết hay một quan niệm thuộc về tri thức.
(Xem: 11971)
Phải chăng trường đời là nơi tranh danh đoạt lợi, hay chính là do mầm tham ái ở tại lòng mình mới là động cơ sinh ra mọi sự?
(Xem: 10962)
Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ.
(Xem: 10584)
Truyền thừa Sakya là một trong bốn truyền thống tâm linh vĩ đại tại Tây Tạng.
(Xem: 10733)
Có những phẩm hạnh mà bậc Thượng sư cần phải có và những phẩm chất mà người đệ tử cần có.
(Xem: 9964)
Đức Dalai Lama từng nhiều lần dạy rằng, Phật giáo Kim cương thừa không phải là Lạt-ma giáo.
(Xem: 10739)
Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ Hán tạng
(Xem: 9372)
Hãy nghe ĐỨC PHẬT định nghĩa về thiền : « Ở đây nầy các Tỳ Kheo, vị tỳ kheo đi đến khu rừng dưới một gốc cây hay đi đến chỗ nhà trống và ngồi kiết già lưng thẳng...
(Xem: 10062)
Bằng nguyện lực của Tam Bảo Tối Thượng đáng tin cậy Và chân lý của tinh thần trách nhiệm toàn cầu của chúng con, Nguyện cho Phật pháp quý báu lan rộng và hưng thịnh Ở mọi vùng đất, theo chiều dài và chiều rộng của phương Tây.
(Xem: 10255)
Một trong những mục đích chính của việc tranh luân trong khi tu học Phật pháp là để giúp bạn phát triển nhận thức quả quyết (nges-shes).
(Xem: 10592)
Trong Hiện Quán Trang Nghiêm Luận (mNgon-rtogs rgyan, tiếng Phạn, Abhisamayalamkara), Đức Di Lặc đã liệt kê bốn mươi sáu lỗi lầm ảnh hưởng đến việc phát triển trí tuệ tương ứng với căn cơ của chư Bồ tát (sbyor-ba’i skyon).
(Xem: 10679)
Của cải không trường tồn hay thường còn mãi mãi. Lòng tham của cải giống như uống nước muối, ta sẽ chẳng bao giờ có đủ.
(Xem: 10609)
Nền tảng của mọi phẩm chất tốt đẹpvị bổn sư tử tế, hoàn hảothanh tịnh; Sùng mộ ngài một cách đúng đắn là cội nguồn của đường tu.
(Xem: 10167)
Tâm là một sự chuyển động, bản tánh của nó là sự di động. Thực thể cơ bản của nó là sự trong sángtrong suốt.
(Xem: 9887)
Đường tu được tất cả chư Bồ tát thiện hảo tán thán, Cửa ngõ cho những người may mắn mong cầu giải thoát.
(Xem: 13606)
Cả Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Guru Rinpoche đều tiên tri sự ra đời và thành tựu tâm linh của Tông Khách Ba.
(Xem: 16424)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa.
(Xem: 13556)
Con xin sám hối nghiệp xấu ác của tự thân cùng tha nhân, và hoan hỷ với công đức của tất cả chúng sanh.
(Xem: 11624)
Tôi đã nhận được một món quà tặng quan trọng nhất từ bố tôi: đó là niềm tin về tôn giáo. Suốt đời tôi, tôi sẽ nhớ ơn bố tôi. Vì, bố là vị Bồ Tát của tôi.
(Xem: 11209)
Năm nay, Vu Lan khởi sắc một cách khác thường. Từ ngày 14 âm lịch đến rằm, lượng số người đi lễ như trẩy hội. Một số con đường chính đều bị tắt nghẽn giao thông.
(Xem: 11172)
Đạo Phật dạy về tầm quan trọng của sự kính trọng bố mẹ, và sự báo đáp công ơn bố mẹ.
(Xem: 12278)
Vu lan lại đến.Hiếu hạnh của con trẻ lại được nhắc đến. Nhưng đâu đó cũng thấy hiện lên các tiêu đề nói về việc con giết cha, hãm hiếp mẹ, những nghịch hạnh không ai có thể chấp nhận.
(Xem: 15466)
Tôi thấy tôi mất mẹ, mất cả môt bầu trời…
(Xem: 10689)
"Mẹ, Mẹ là giòng suối dịu hiền. Mẹ, Mẹ là bài hát thần tiên…Là bóng mát trên cao, là mắt sáng trăng sao, là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối…"
(Xem: 11763)
Mẹ ơi tháng Bảy về rồi Là mùa hiếu hạnh tuyệt vời lên ngôi Nhớ ơn mẹ đã một đời Tảo tần mưa nắng tô bồi đời con
(Xem: 10676)
Mùa thu với tháng bảy mưa ngâu, với trăng thu diệu vợi, quê hương Việt nam chúng ta với biết bao vẻ đẹp êm đềm qua ánh trăng rằm tháng bảy Vu lan.
(Xem: 11156)
Sau khi đắc quả A-La-Hán, Tôn giả Mục Kiền Liên vận thần thông đi khắp các cõi tìm người mẹ đã khuất.
(Xem: 10079)
Lễ hội Vu lan bồn hay còn được gọi một cách phổ biếnlễ hội Cô hồn là một sự kiện quan trọng ở Trung Quốc vì nó được nối kết với việc thờ cúng tổ tiên.
(Xem: 10478)
Từ hơn mười năm qua, cũng có thể là xa hơn chút nữa, ngày lễ Vu Lan Báo Hiếu hằng năm, đặc biệt là lễ cài hoa hồng, đã có sức lan tỏa mạnh mẻ ra ngoài khỏi khuôn viên những mái chùa Phật giáo
(Xem: 11489)
Theo truyền thuyết nhà Phật, Bà mẹ Mục Kiền Liên Là người không mộ đạo Báng bổ cả người hiền.
(Xem: 11059)
Tháng bảy mùa Vu Lan trời buồn âm u mưa sùi sụt trắng xóa con đê quê mẹ. Tháng bảy mùa Vu Lan mây buồn giăng giăng kín lối con về quê mẹ…
(Xem: 12998)
Rằm tháng 7 - đại lễ Vu Lan, tưởng niệm gương đại hiếu của tôn giả Moggallāna (Mục Kiền Liên) đối với mẹ trong cảnh khổ ngạ quỷ;
(Xem: 24507)
Lòng thương của cha mẹ sẽ pha thêm màu xanh cho bầu trời, tô thêm màu biếc cho đại dương; và gia đình này, trái đất này, với bàn tay chăm sóc của cha mẹ, sẽ là hành tinh xanh, mỹ miều, tươi mát hơn bao giờ.
(Xem: 12675)
Ta còn một dòng sông, dòng sông xưa uốn khúc những nỗi niềm cay cực với bóng mẹ lênh đênh tất tả chuyến đò đời.
(Xem: 10342)
Kinh Vu Lan hiện được dịch ra tiếng Việt và được phổ thơ để các Phật tử dễ đọc tụng và dễ nhớ
(Xem: 28791)
Mùa Vu Lan lại về với người con Phật, mang nhiều ý nghĩa thâm diệu, vừa siêu nhiên của lãnh vực tâm linh, vừa hiện thực với văn hóa nhân gian...
(Xem: 19417)
Cách đây hơn 10 năm tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York, Hoa Kỳ, các thành viên của Liên Hiệp Quốc đã đồng thuận mỗi năm lấy ngày Vesak của Đức Phật làm ngày Phật Đản của thế giới.
(Xem: 11017)
Cách đây hơn 26 thế kỷ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện tại xứ Ấn Độ cổ xưa, cội nguồn của nền văn minh sông Hằng. Sự kiện trọng đại Đức Thế Tôn thị hiện vào cõi đời này thật là hy hữu.
(Xem: 23481)
Gần hai trăm nghìn người không phân biệt Tôn giáo, Quốc tịch, Chính đảng, ngày 10/05/2015 tại Đài Bắc Quốc tế Phật Quang hội tổ chức thiên Tăng, vạn Chúng Khánh chúc Phật đản, nhất tâm Thập nguyện báo Mẫu ân,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant