Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vu Lan, nghĩ về công hạnh của Mẹ

21 Tháng Tám 201100:00(Xem: 8437)
Vu Lan, nghĩ về công hạnh của Mẹ

Mẹ tôi xuất thân là một người con gái thôn quê. Ông Ngoại tôi mất khi mẹ mới lên ba, bà Ngoại nghèo nên mẹ ít được đi học, kể cả bằng tiểu học mẹ cũng chưa có. Vả lại, ngày xưa dân mình hay quan niệm “con trai mới cho học cao, còn con gái học biết đọc, biết viết là được rồi, đảm đang, tháo vát mới là gái ngoan.” Ở tuổi đôi mươi, người ta nói mẹ là gái đảm đang nhất làng, hèn gì, mỗi lần mẹ đưa anh em tôi về giỗ ông Ngoại, làng trên xóm dưới ai cũng thân thiết hỏi chuyện ngày qua.

Công hanh của Mẹ

Mẹ tuy ít học nhưng rất thông minh, lắm nghề và can đảm. Mẹ lại giàu tình, nặng nghĩa và đầy lòng từ bi. Tôi được nghe kể rằng: Hồi năm 1972, trong trận 81 ngày đêm khói lửa ở Quảng Trị. Gia đình tôi theo dân tản cư vào Đà Nẳng. Khi đến gần Đại Lộ Kinh Hoàng thì cầu bị cháy xe không qua được, nên mọi người đành phải sang xe. Ba tôi lúc đó đi lính ở chiến trường. Mẹ đang mang tôi trong bụng, tay bồng, tay dắt, tay xách, nách mang, trong khi pháo đạn nổ liên hồi. Nội tôi mù, do hốt hoảng quá nên đi lạc ra bờ sông. Bất chợt mẹ nhìn thấy, chỉ còn một bước chân nữa là Nội té xuống sông. Thế rồi mẹ từ trên xe nhảy xuống, như sức mạnh phi thường, băng qua rào kẻm gai để nhanh chân kịp cứu Bà. Thật là một hành động can đảm đáng nể phục.

Sau năm 1975 trở về quê, gia đình tôi cũng vất vả lắm. Mẹ tôi từ thợ may chuyển sang buôn bán. Với một gánh hàng rong trên vai, sáng họp chợ, chiều dạo quanh làng, đêm về đạp máy, để kiếm đồng tiền bát gạo cho anh em chúng tôi ăn học, lại còn có kẻ ở người nương.

Một buổi sáng mùa Đông mưa phùn, mẹ gặp một bà cụ không rõ gốc tích lai lịch ở đâu, đang la lết xin ăn ở đầu xó chợ. Mẹ xót thương thân cụ già yếu, không nơi nương tựa, phải lê la để kiếm miếng cơm qua ngày. Mẹ nói với ba tôi và cùng với một cô giáo ở gần đó, ba người cùng nhau làm cho cụ một túp lều gần chợ để hàng ngày đi chợ mẹ tiện chăm sóc cho cụ. Thế là sáng nào cũng vậy, khi cơm nước xong cho anh em tôi đi học, mẹ vai gánh hàng, tay xách cơm ra túp lều dâng cụ. Mẹ chăm sóc cụ như thể người thân từ muôn kiếp. Thậm chí hồi đó gia đình tôi ăn cơm độn, nhưng phần cụ lúc nào cũng cơm mềm cá ngon. Cái rét mùa Đông ở Quảng Trị lạnh buốt xương, mà cụ thì lại không tự đi vệ sinh được, nên mẹ ngày nào cũng đem nước nóng tắm rửa cho cụ rồi thay áo ấm, chăn êm. Nhìn mẹ chăm lo cho cụ, dân làng ai thấy cũng chạnh lòng. Mẹ tôi nuôi cụ được một thời gian thì cụ qua đời vì tuổi già sức yếu. Mẹ cũng đã đứng ra xin đất địa phương để mai táng cụ.

Không những cụ già, ăn xin, mà người điên, mẹ tôi cũng đem về nhà nuôi nốt. Hôm đó trên đường về, mẹ gặp một cô gái tâm thần đang nhặt xơ mít quăng bên đường vừa ăn vừa ngâm thơ: “Thân em như cái xơ mít, thơm ngon thế mà người lại bỏ”. Chính vì câu thơ điên ấy làm mẹ tôi chạnh lòng đem cô ta về nuôi. Mẹ nghĩ, văn chương như cô thì phải là người tài, do tình duyên trắc trở mới ra nông nổi này. Mẹ cũng đã nhiều công dạy dỗ, luyện tập cho cô ta khôi phục trí nhớ, những lúc cô ta vụng về mẹ cũng không một lời quở trách. Nhiều lần cô ta nổi điên bỏ nhà ra đi, mẹ lại lo lắng cho người đi tìm như tìm kiếm con nhỏ của mình vậy. Nuôi được mấy năm rồi cô ta cũng ra đi như đời ruồng bỏ cô vậy.

Từ những năm 1980, dân làng quê tôi vẫn còn nghèo khổ. Họ sống chủ yếu bằng ruộng vườn và lên rừng tìm kiếm những mảnh sắt vụn của bom đạn sau chiến tranh để lại. Tuy nhiên vẫn còn những quả bom, viên đạn chưa nổ chôn vùi dưới lòng đất. Vì thế, cũng không ít người đã bỏ mạng ở núi rừng vì miếng cơm manh áo. Bão lụt thì xảy ra liên miên, hầu như năm nào cũng có. Mỗi lần nghe có người chết vì bom đạn hay bão lụt là một lần mẹ tôi ăn ngủ không yên. Hầu như suốt mấy ngày mẹ nuốt cơm không nổi vì họ. Mỗi khi nghe tiếng nổ là mẹ hốt hoảng hỏi thăm khắp xóm làng xem ai bị gì không. Mẹ thường hay an ủi, động viên, chia sẻ với những gia đình khó khăn, đau khổ. Trên gương mặt mẹ lúc nào cũng biểu hiện sự lo lắng, ưu tư, mãi cho đến bây giờ hình ảnh ấy vẫn còn in đậm trong đầu tôi. Mẹ làm như cuộc đời này tất cả nỗi khổ của người khác đều do mẹ tạo ra.

Không những thương người mà các loài súc vật mẹ tôi đều thương yêu. Con trâu dữ, trong làng ai cũng ngán, họ đem bán vào lò mỗ, mẹ tôi thấy tội nghiệp mua về nuôi bắt anh em tôi phải chăn giữ. Trời mưa gió, sợ trâu lạnh, mẹ bảo để trâu ở nhà đi cắt cỏ về cho trâu ăn. Nhiều lúc anh tôi bực nói mẹ rằng: “Mẹ sợ trâu lạnh, thế con đi cắt cỏ không sợ con lạnh sao?” Mẹ tôi nhỏ nhẹ: “Nhưng con có áo ấm và mặc áo mưa, còn trâu đâu có mặc gì đâu”. Mỗi buổi tối mẹ đều không quên nhắc chúng tôi nhúm lửa kẻo muỗi đốt trâu. Nhiều lúc thương chúng tôi mẹ kiêm luôn cả công việc này mặc dù mẹ rất bận. Chó mèo nuôi trong nhà, trời lạnh cũng được mẹ đắp chăn, đắp áo. Mỗi lần anh em tôi ham chơi quên cho chó mèo ăn là mẹ lật đật, hối hả xót xa lắm. Thật là lòng từ bi vô hạn.

Mấy năm sau, gia đình tôi khá giả lên chút đỉnh. Mẹ đã giúp đỡ biết bao nhiêu hoàn cảnh nghèo khó. Tạo công ăn việc làm cho bà con lối xóm thất nghiệp. Người ở xa nghe tiếng tìm đến, mẹ cũng hết lòng giúp đỡ. Nhiều người lợi dụng lòng tốt của mẹ, đến năn nỉ mẹ cho mượn tiền rồi họ cút cò đi luôn. Nhiều người được mẹ hướng dẫn, đỡ đầu và cũng công thành danh toại, làm nên sự nghiệp. Những người trong làng thường nói mẹ tôi có tấm lòng Bồ Tát, họ còn nói đi khắp tỉnh Quảng Trị này không thấy có ai như mẹ tôi. Những lời nói đó thật không ngoa chút nào. Nếu thử hỏi, không có lòng từ bi như Phật, như Bồ Tát thì làm sao thương mọi người, mọi loài như thương chính con đẻ của mình được. Nên lúc nào tôi cũng xem mẹ như là một vị Phật của tôi.

Đối với tôi, mẹ còn là một đóa hoa tuyệt đẹp giữa trần gian. Từ lúc học lớp một, đọc được câu: “Tháp mười đẹp nhất bông sen” là tôi luôn hãnh diện với chúng bạn về mẹ mình. Lúc đó, tôi chẳng hiểu ý nghĩa của câu ấy là mô tê gì cả, mà cứ nghĩ vì mẹ có cái tên của hoa sen, nên mẹ là đẹp nhất. Khi đến Chùa cũng thấy Phật ngồi trên hoa sen, nên nghĩ mẹ là đẹp nhất. Lớn lên tôi mới hiểu “đóa hoa tuyệt đẹp giữa trần gian” của mẹ.

Đúng thế, những lúc sống trong cảnh nghèo nàn thiếu thốn, nhưng mẹ không tham lam, không ô nhiễm trước mọi cám dỗ mà tự mình vươn lên bằng chính đôi tay và khối óc của mình. Mẹ đã xông pha giữa chợ đời, tiếp xúc với đủ hạng người, đủ tầng lớp trong xã hội để tạo dựng tương lai cho con cái nhưng mẹ không bị dòng đời lôi kéo. Mẹ vẫn biết ăn chay, niệm Phật, biết bố thí, cúng dường, làm việc thiện, hiếu kính ông bà, dạy con cái ăn ở có đạo đức, hướng dẫn con cái quy y Tam Bảo… Bằng sự thông minhlòng nhân từ của mẹ, nên từ một gánh hàng rong trên vai mẹ đã trở thành một thương gia gây được tiếng tămuy tín trong xã hội, như hoa sen mọc trong bùn lầy nước đọng mà vẫn vươn lên khỏi mặt nước tỏa hương thơm ngát cho đời. Mẹ đã không hổ thẹn với cái tên của loài hoa cao quý này. Tôi rất thương mẹ và hãnh diện về mẹ. Vì tôi chưa bao giờ thấy người phụ nữ nào có phẩm chất như mẹ. Có phải chăng vì tôi quá yêu mẹ nên lúc nào cũng cho mẹ là đẹp nhất. Nhiều lúc nhớ mẹ, tôi thầm thốt lên: Mẹ ơi! “Mẹ là hoa, hoa đẹp tuyệt trần!”

Vâng! Mẹ tôi là người phụ nữ đảm đang, đầy đủ công-dung-ngôn-hạnh. Một mình lặn lội thân cò nuôi sáu đứa con ăn học và một bà mẹ chồng mù lòa mà không bao giờ có một lời thở than. Ba tôi thì thật thà, chất phát, chỉ biết chăm sóc khu vườn và làm việc thiện giúp người chứ không làm gì ra tiền, nên kinh tế gia đình chủ yếu phụ thuộc vào mẹ tôi. Hồi nhỏ, tôi chỉ biết xin mẹ tiền đi học và đòi ăn quà chứ tôi không hề hay biết mẹ đã thức khuya dậy sớm, tần tảo nắng mưa. Những đêm đông giá rét lạnh thấu xương tủy, mẹ đã để yên cho cha con chúng tôi ngon giấc trong chăn ấm màn êm, trong khi mẹ một hai giờ sáng vẫn hì hục với xe hàng mắc lầy giữa đường rừng núi. Những ngày hè trời nắng như đổ lửa, không khí nóng của gió Lào lùa về rát mặt cháy lưng, nhưng mẹ với chiếc nón lá trên tay lên thác xuống ghềnh. Mỗi khi trời mưa to gió lớn mẹ không đi làm được thì tiếng cọc cạch của chiếc máy may trong nhà tôi không bao giờ ngừng nghỉ. Những lúc như vậy là tôi vui lắm, vì có mẹ ở nhà. Lần nào ở bên mẹ tôi cũng làm cho mẹ khô cả cổ họng vì cái tính hiếu động của tôi. Tôi không chịu ngồi yên, cứ hỏi mẹ từ cái này đến cái khác, hỏi đủ mọi chuyện trên trời dưới đất. Nhờ vậy mà sau này tôi cũng biết được nhiều điều hay từ mẹ.

Ngoài ra, mẹ luôn giám sát và khuyến khích tinh thần học tập của chúng tôi. Tôi đạt điểm 9 mẹ không chịu, lúc nào mẹ cũng bắt phải đạt điểm 10; nhì lớp mẹ không chịu, mẹ chỉ muốn thứ nhất. Tôi còn nhớ, mỗi khi kỳ thi đến, tôi thấy mẹ đối trước bàn Phật đốt hương lâm râm cầu nguyện, mong sao cho chúng tôi vượt qua kỳ thi dễ dàng. Lúc đó tôi nói với mẹ, học giỏi thì thi đậu chứ mẹ lo gì, mẹ liền nói: “Học tài thi phận, con đừng ở đó mà chủ quan. Mẹ ít học, nên trong cuộc đời đã chịu nhiều cay đắng. Dù sao mẹ cũng quyết tâm cho các con học hành đến nơi đến chốn”. Từ đó tôi mới hiểu vì sao mẹ phải thức khuya dậy sớm, buôn tảo bán tần, làm đủ mọi việc, là để kiếm thêm đồng tiền cho anh em chúng tôi ăn học. Cho nên, mỗi thành quả đạt được của chúng tôi là một niềm vui lớn lao trong lòng mẹ.

Anh em tôi có được ngày hôm nay là nhờ mẹ tảo tần sớm hôm, nuôi nấng dạy dỗ. Mẹ ngoài việc lao động chân tay và trí óc, còn giáo dưỡng chúng tôi trưởng thành. Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống. Mẹ là người huynh trưởng Gia Đình Phật Tử đã dẫn dắt tôi vào nẻo Đạo. Mẹ là bậc thầy giáo huấn nghiêm minh, đã cho tôi những đòn roi để tôi biết rằng cuộc sống sau này sẽ nhận những đau đớn gấp trăm lần như vậy nếu phạm sai lầm. Mẹ còn là vị lương y, tận tụy chăm sóc và thức trắng đêm bên ngọn đèn dầu vì sự đau ốm của chúng tôi khi trái gió trở trời. Chúng tôi thành đạt hay hư đốn đều được mẹ thương yêu như nhau mà không phân biệt. Tình thương yêu và sự hy sinh của mẹ dành cho chúng tôi thật quá bao la như biển cả, như nước trong nguồn không bao giờ khô cạn. Cả cuộc đời mẹ đã hiến dâng cho tương lai, cho sự sống của chúng tôi, chỉ biết cho đi mà không nhận lại bao giờ.

Đó mới chỉ là cái nhọc nhằn lam lũ và sự hy sinh của mẹ, chứ chưa nói đến những khổ đau mà mẹ âm thầm gánh chịu, chất chứa trong lòng. Tất nhiên trên cuộc đời này không có gì là hoàn hảo. Trong xã hộigia đình nào con đông ăn học, trên thuận dưới hòa, mà trong ấm ngoài êm suốt cả cuộc đời đâu. Cho nên gia đình tôi cũng không thoát khỏi cái quy luật xoay vần ấy. Vì vậy đôi lúc mẹ tôi cũng đã ngậm đắng nuốt cay vì sự bồng bột, lầm lỡ của chồng, của con. Mỗi lần nghĩ về cuộc đời mẹ là tôi thương mẹ đến chảy nước mắt. Có lẽ đời mẹ đã chịu quá nhiều gian lao, vất vả nên trông mẹ già đi trước tuổi. Mẹ phải đè nén bao nổi buồn đau nên tim mẹ hở van, huyết áp bất thường. Mẹ chịu được tất cả những điều nghiệt ngã nhất trên đời này, mà lòng mẹ vẫn hân hoan, bao dung độ lượng

Thưa mẹ kính yêu của con! Đã từ lâu và rất nhiều mùa Vu Lan con muốn viết về mẹ nhưng con không tài nào viết được, vì mỗi lần nghĩ đến công lao và nổi khổ của mẹ là nước mắt con lại tuôn trào. Hôm nay, một lần nữa mùa Vu Lan trở về. Nơi xứ lạ chiều Thu mưa buồn lắm mẹ ạ! Con nghe trong tiếng gió vi vu có cả lời ru của mẹ năm nào. Trong trái tim con bây giờ là cả vạn niềm thương nổi nhớ. Con cố nén thật nhiều xúc cảm mới viết lên được những dòng chữ này, để làm món quà kính dâng lên mẹ nhân mùa Vu Lan. Vì con nghĩ rằng nếu con không làm được việc này bây giờ thì phải đợi đến lúc nào nữa. Năm trước về thăm, con thấy mẹ già đi nhiều lắm, tóc mẹ đã đốm bạc, mắt mẹ đã mờ đi. Mắt mẹ mờ không phải vì thời gian mà vì mỏi mòn trông theo từng bước chân của những người con xa xứ. Con mới thấm thía lời Đức Phật dạy: “Đến khi đời con như hoa thì cha mẹ đã phải già. Đời con khôn lớn là tinh hoa sự sống của cha mẹ đã truyền hết cho con mà nhận lấy cái chết”.

Mẹ ơi! Mặc dù con đi xa nhưng lòng con vẫn luôn luôn hướng về mẹ. Bao giờ con cũng biết: “Trên đời này, nếu có một tình yêu thật sự, thì đó là tình yêu của mẹ.” Những lúc trên đường dài mệt mỏi là con như có cảm giác mẹ đang ở bên con, vỗ về, an ủi, nên con đã vượt qua nhiều chướng duyên mẹ ạ! Dù con có bao nhiêu tuổi đời đi chăng nữa con vẫn thấy còn nhỏ bé trong vòng tay của mẹ. Ngày xưa con nhỏ, thường khóc mỗi khi bị đánh đau, nhưng bây giờ mẹ không đánh mà con vẫn đau. Con đã cúi mặt xuống cho những giọt nước mắt tuôn rơi khi nghĩ đến một ngày nào đó căn bệnh huyết áp và tim mạch ác quái kia mang mẹ ra đi khỏi thế giới này.

Không! “Con sẽ không đợi đến ngày kia khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc, vì dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ”. Con sẽ không đợi đâu, con sẽ không để cho mẹ đi về một thế giới khác mà chưa nhìn thấy sự thành đạt của con và của em. Con nhất định sẽ làm được điều đó mẹ ạ! Con không muốn phải cài lên ngực áo một bông hoa màu trắng trong dòng nước mắt hối hận vì chưa làm được điều gì cho mẹ. Con chỉ mong sao sức khỏe mẹ vẫn còn để chờ đợi những đứa con của mẹ trở về trong sự thành đạt và niềm hạnh phúc. Con biết rằng, bây giờ vật chất đối với mẹ không còn cần thiết nữa, mà điều mong mỏihạnh phúc nhất của mẹ là nhìn thấy con cái đỗ đạt, cháu chắt sum vầy. Có thể hôm nay đây, con được cài lên ngực áo một bông hoa màu đỏ trong niềm hạnh phúc vô biên vì vẫn còn có mẹ. Nhưng không ai đoán trước được ngày mai. Bởi thế trong lúc hạnh phúc nhất con vẫn thấy lòng mình phập phòng lo sợ... Mẹ hãy ráng chờ con mẹ nhé!

Bây giờ con có nói bao nhiêu lời cảm ơn đi nữa cũng không thể diễn tả hết công laođức hạnh của mẹ, không thể nói hết những gì mẹ đã dành cho con. Con chỉ biết rằng có mẹ là điều hạnh phúc nhất trên cuộc đời này.
 
Pune, Mùa Hiếu Hạnh, PL.2555

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15614)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 23092)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14104)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 13019)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55170)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9216)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14485)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14203)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14237)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13917)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36384)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19935)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18214)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19258)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19191)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20352)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17698)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31602)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15982)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15074)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14739)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46260)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35986)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21082)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21667)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23453)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34467)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19543)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18992)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22984)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20231)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18417)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19894)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19582)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33474)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34596)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54588)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37803)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21194)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17947)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63753)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17441)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49750)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27541)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20336)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23092)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18931)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16366)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17985)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20996)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17410)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14508)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16908)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16418)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 16067)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17535)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 22048)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15157)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13529)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14393)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15431)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 15049)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12747)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13407)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27451)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12570)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13248)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14515)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16279)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12440)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15469)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12888)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12227)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13236)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21709)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11302)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22793)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15135)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14978)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46246)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22528)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14631)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12671)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18946)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14786)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43927)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57074)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13890)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47564)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13689)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14624)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29056)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33371)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38435)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15435)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31281)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12557)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40473)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43486)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46712)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant