Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

V. Tạng giáo sở nhiếp

16 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 15632)
V. Tạng giáo sở nhiếp


A DI ÐÀ KINH HỢP GIẢI

Bửu Quang tự đệ tử Như Hòa hợp dịch

V. TẠNG GIÁO SỞ NHIẾP (phân định kinh này thuộc về tạng nào, thời giáo nào)

Tạng có nghĩa là tích chứa, tàng trữ. Giáo pháp một đời đức Phật đã thuyết được kết tập thành tạng. Tạng có hai loại: Nhị TạngTam Tạng.

 - Nhị TạngBồ Tát tạngThanh Văn tạng.

 - Tam TạngKinh Tạng, Luận TạngLuật Tạng.

1. Phán định về Tạng:

Kinh này từ đầu đến cuối không đề cập đến việc trì giới, cũng chẳng luận nghị, chỉ chuyên dạy niệm Phật, phát nguyện cầu sanh Tây Phương Tịnh Ðộ nên phải thuộc về Kinh Tạng.

Kinh này lại hoằng dương Ðại Thừa, tuyên dương đấng Giáo Chủ cõi Cực Lạc, dù dạy chúng sanh chán khổ ưa vui, cầu sanh Cực Lạc, nhưng cốt yếu là để gặp Phật nghe pháp, ngộ Vô Sanh Nhẫn rồi sẽ trở lại Sa Bà, giáo hóa chúng sanh. Ðấy đều là hạnh Bồ Tát, cho nên kinh này phải thuộc về Bồ Tát Tạng.

2. Phán định giáo tướng:

Những lời chư Phật, chư thánh giảng dạy được gọi là Giáo. Việc phân định, xếp loại thứ tự thánh giáo của đức Như Lai thường được gọi là “phán định giáo tướng” hay gọi tắt là “phán giáo”.

 * Theo đại sư Khuy Cơ, tính cho đến thời Ðại Sư, đã có những thuyết phán giáo sau đây:

a. Thuyết Nhất Thời Giáo: do Ngài Tam Tạng Bồ Ðề Lưu Chi (Tàu dịch là Giác Thọ) đời Bắc Ngụy đề xướng. Nghĩa là tuy giáo pháp của đức Phật chỉ có một thời, nhưng vì có hai ý nghĩa bất đồng nên tựa hồ có nhiều giáo pháp:

 a.1. Giáo đồng căn dị: Như nước mưa chỉ có một vị, nhưng ba loại dược thảo, hai loại cây cối được thấm nhuần sai khác. Tức là giáo pháp vốn chỉ là một, nhưng chúng sanh ngộ giải bất đồng, do căn cơ chúng sanh khác nhau nên tựa hồ có nhiều giáo pháp khác nhau.

 a.2. Lý đồng chứng dị: Lý tuy chỉ một nhưng sự chứng đắc của tam thừa có sai khác, như cùng một dòng sông, ba loài thú cùng lội qua, chân đạp xuống nước sâu cạn sai khác.

b. Thuyết Tiệm Ðốn Giáo: do Ngài Ðàm Vô Sấm đời Tống lập ra.

 b.1. Ðốn giáo là những thuyết như nhị không, tam tánh, tam vô tánh, bát thức, nhị vô ngã v.v...

 b.2 Tiệm giáo là những giáo pháp như Tứ Ðế, Duyên Sanh, Ngũ Giới, Bát Giới v.v...

c. Thuyết Tam Thời Giáo (còn gọi là Tam Giáo): do Ngài Chân Ðế Tam Tạng Pháp Sư thời Lương đề xướng. Tam thời giáo là:

 c.1. Hữu giáo: trong vòng 7 năm đầu kể từ khi thành Phật, đức Thế Tôn nói ra Hữu giáo, dùng pháp Thanh Văn để độ các vị như năm anh em Kiều Trần Như, Xá Lợi Phất, Ca Diếp v.v... 

 c.2. Không giáo: Từ năm thứ tám đến năm thứ ba mươi tám, Ðức Phật chuyên giảng về học thuyết Bát Nhã. Ðó là Không Giáo.

 c.3. Phi hữu phi không giáo: Từ năm thứ 39 cho đến khi Phật nhập Niết Bàn, Ngài chuyên giảng về giáo pháp phi hữu phi không như các kinh Pháp Hoa, Lăng Già, Tư Ích...

d. Thuyết Tứ Thời Giáo: do Khuất Ða Cấp Ða Tam Tạng đề xướng; chia một đời giáo hóa của đức Như Lai thành bốn thời:

 d.1. Sanh không giáo: tức là thời gian trong 12 năm đầu sau khi thành Phật, đức Thế Tôn giảng thuyết các bộ kinh giảng về nhân không như A Hàm... 

 d.2. Pháp không giáo: Từ năm thứ 13 đến năm thứ 38, Phật giảng các bộ kinh dạy về pháp không như tám bộ Bát Nhã v.v...

 d.3. Pháp tướng giáo: Từ năm thứ 39 đến năm thứ 49, Phật giảng các kinh như Lăng Già, Tư Ích, Pháp Hoa v.v... chỉ bày các pháp như bách pháp, tam tánh, tam vô tánh, bát thức, nhị vô ngã v.v... Do chú trọng đến phân chia danh mục, số loại của các pháp nên gọi là Pháp Tướng.

 d.4. Quán hạnh giáo: tức là thời gian giảng về pháp môn Pháp Giới Quán của kinh Hoa Nghiêm...

e. Thuyết Ngũ Thời Giáo: do Lưu Cư Sĩ đời Tấn đề xướng, chia giáo pháp thành năm thời:

 e.1. Nhân thiên giáo: là những giáo pháp được giảng trong 21 ngày sau khi Ðức Phật thành đạo; gồm các giáo pháp như Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện v.v... vì thính chúng chưa có thiện căn xuất thế. Thuyết này bị Ngài Giác Thọ (Bồ Ðề Lưu Chi) bắt bẻ: “Kinh Ðề Vị nói nhóm năm trăm người lái buôn như Ðề Vị v.v... thọ Ngũ Giới, Phật dạy họ trước hết phải sám hối các tội Ngũ Nghịch, Thập Ác. Thế Tôn dạy: ‘Tứ đại vốn tịnh, cái Ta vốn tịnh’, Ðề Vị liền đắc Vô Sanh Nhẫn; năm trăm người lái buôn đắc Nhu Thuận Nhẫn. Lẽ nào đấy chỉ là giáo pháp thuộc nhân thiên ư?”

 e.2. Sanh không giáo: tức là giáo pháp Nhị Thừa được giảng trong mười hai năm đầu tiên.

 e.3 Pháp không giáo: là những giáo pháp được giảng trong mười tám năm kế đó.

 e.4. Câu không giáo: tức là thời gian giảng tám bộ Bát Nhã.

 e.4. Phi hữu phi không giáo: tức là thời gian từ năm thứ 49 sau khi Ðức Phật thành đạo trở đi. Thời gian này Ngài giảng các kinh như Lăng Già, Pháp Hoa v.v...

 Ðại Sư Khuy Cơ chỉ nêu ra các giáo như thế nhưng không khẳng định kinh này thuộc về giáo nào trong những thuyết trên. Tuy thế, những thuyết phán giáo trên đây không được phổ biến và vận dụng rộng rãi bằng hai thuyết Ngũ Thời Bát Giáo của tông Thiên ThaiNgũ Giáo của tông Hoa Nghiêm.

a. Ngũ thời Bát giáo:

a.1. Bát giáo:

Bát giáo gồm “hóa nghi tứ giáo” (bốn phương pháp hóa độ thuận theo căn cơ) và “hóa pháp tứ giáo” (bốn phương pháp giáo hóa dựa theo mức độ giải ngộ).

Hóa nghi tứ giáo gồm: Ðốn, Tiệm, Bất Ðịnh, Bí Mật. Hóa pháp tứ giáo gồm Tạng (Tiểu Thừa), Thông (bao gồm cả Tiểu Thừa lẫn Ðại Thừa, nhưng mới chỉ là những giáo pháp sơ khởi của Ðại Thừa), Biệt (giáo pháp Ðại Thừa dành riêng cho hàng Bồ Tát), và Viên (những giáo pháp viên dung vô ngại, hàm nhiếp trọn vẹn tất cả các giáo pháp, là giáo pháp cao tột nhất trong các giáo pháp Ðại Thừa).

a.2. Ngũ thời:

- Thời Hoa Nghiêm: Phật hiện thân to lớn, giảng kinh Hoa Nghiêm cho những bậc căn cơ Ðại Thừa viên đốn, chuyên giảng về Viên Giáo, nhưng đôi chỗ có kèm Biệt giáo.

- Thời A Hàm: Phật hiện thân trượng sáu, giảng pháp cho thính chúng căn cơ Tiểu Thừa, chỉ dạy về Tạng GiáoNhị Thừa Tiểu Quả.

 - Thời Phương Ðẳng: đối với căn cơ Tiểu Thừa, Phật giảng Tạng Giáo; đối với căn cơ Ðại Thừa, Phật dạy Viên, Thông, Biệt Giáo.

 - Thời Bát Nhã: dù kiêm thuyết lý tánh quyền hiện, nhưng chủ yếu là Thật Lý viên mãn của Viên Giáo.

 - Thời Pháp Hoa - Niết Bàn: quy nhiếp Tam Thừa về Nhất Thừa, khai thị tri kiến Phật.

b. Ngũ Giáo

Tức là:

- Tiểu (Tiểu Thừa): chỉ giảng pháp không, chưa giảng Ngã Không.

- Thỉ (Ðại Thừa Thỉ Giáo): căn cứ trên sự sanh diệt của tám thức, kiến lập những giáo nghĩa sanh tử, Niết Bàn, bàn rộng pháp tướng, nhưng chỉ mới luận đôi phần về pháp tánh. Tuy đã giảng về Tam Thừa, nhưng chưa hứa khả hàng định tánh Thanh Văn và Nhất Xiển Ðề có khả năng thành Phật. Vì chưa bàn cùng tột giáo lý Ðại Thừa nên gọi là Thỉ (bắt đầu).

- Chung (Ðại Thừa chung giáo): bàn cùng tận giáo nghĩa Ðại Thừa, căn cứ vào bát thức của Như Lai Tạng tùy duyên bất biến để lập giáo nghĩa, chú trọng đến pháp tánh, nhưng chỉ luận đôi chút về pháp tánh, chưa giảng chi tiết. Dù có giảng pháp tướng đi nữa, cũng đều quy về pháp tánh. Chung Giáo công nhận Xiển Ðề có khả năng thành Phật.

- Ðốn: Chỉ luận về Thật Tướng. Một niệm bất sanh thì gọi là thành Phật. Không cần bận tâm đến thứ tự tu tập từng bước nên gọi là Ðốn (nhanh chóng).

- Viên: Viên Giáo bao trùm cả bốn giáo trên, viên dung đầy đủ muôn pháp, duyên khởi vô ngại, pháp giới vô tận, không còn phân biệt giữa sự và lý nữa nên gọi là Viên (trọn vẹn).

3. Phán định giáo tướng của kinh này:

Nếu xét theo cách phán giáo của tông Hoa Nghiêm, kinh này thuộc về Viên Giáo lẫn Ðốn Giáo. Xét theo cách phán giáo của tông Thiên Thai, kinh này tuy nằm trong thời Phương Ðẳng, nhưng lại thuộc về Viên Giáo.

Bởi Tạng giáoThông Giáo chẳng đề cập đến danh hiệu chư Phật ở phương khác, nên kinh A Di Ðà chẳng thể thuộc về Tạng và Thông giáo.

Người niệm Phật lại có thể vượt ngang ra khỏi ba cõi, vãng sanh Cực Lạc, đồng chứng ba thứ bất thoái nên kinh này phải thuộc về Ðốn Giáo.

Trong năm thời, thời Hoa Nghiêm nhằm lúc Phật mới thành đạo, Ngài vì hàng pháp thân đại sĩ giảng giải cảnh giới Như Lai, chúng Thanh Văn ngồi dự pháp hội như đui, như điếc, chẳng lãnh hội được gì. Kinh này lại chuyên dạy chúng sanh đời mạt, ác thế ngũ trược, niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ, nghĩa là: đối tượng được hóa độ của kinh này là hết thảy hữu tình, nên kinh này không thể nào thuộc về thời Hoa Nghiêm được.

Trong thời A Hàm, Phật chuyên dạy pháp Tiểu Thừa. Thế nhưng kinh này luận về công đức trang nghiêm y báo, chánh báo cõi Cực Lạc, cũng như ý chỉ huyền nhiệm rốt ráo thành Phật, nên cũng không thể nào thuộc về thời A Hàm được.

Trong thời Bát Nhã, Ðức Phật chuyên luận về những pháp mà Bồ Tát phải học. Kinh này chẳng phân biệt căn cơ chúng sanh, bất cứ ai nếu chí thành niệm Phật đều có thể được vãng sanh. Bởi đó, kinh này chẳng thể thuộc về thời Bát Nhã.

Thời Pháp Hoa khai quyền hiển thật (vạch rõ những pháp phương tiện, trực chỉ thật lý Nhất Thừa), khai thị tri kiến Phật; thế nhưng kinh này chỉ chuyên dạy Trì Danh, nên chẳng thuộc về thời Pháp Hoa được.

Bởi những lẽ trên, kinh này phải thuộc về thời Phương Ðẳng.

Hơn nữa, kinh Di Ðà bao hàm diệu lý viên đốn, trước thì thông tiếp kinh Hoa Nghiêm, sau thì thông tiếp kinh Pháp Hoa; cho nên phán định kinh này thuộc về thời Phương Ðẳng rất hợp lý

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19462)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
(Xem: 18572)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 16110)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 29923)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 25503)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 21636)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 17844)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 20851)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26371)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 33382)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 52213)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 22909)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23433)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 39696)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 21814)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 22405)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 6875)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22746)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 69856)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 44067)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23128)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 35083)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 44130)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42951)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44449)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 24939)
"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài, Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân..." HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 24405)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39273)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 39283)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 17286)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 18080)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19298)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35724)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24261)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 19618)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 20432)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 18331)
Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ...
(Xem: 19035)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 18961)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 17494)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 19357)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 30880)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19218)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 20552)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19580)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19788)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 29865)
Rạng ngời một đóa kỳ hoa Vô cùng huyền diệu tinh ba khôn lường Linh Đàm phổ hóa tứ phương
(Xem: 17859)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
(Xem: 19432)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 19904)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 58817)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 24428)
Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hóa hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng...
(Xem: 23552)
Phật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.
(Xem: 39805)
Chùa Phật Đà - San Diego, California tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL.2556 ngày 5/6/2012
(Xem: 26750)
Thông Điệp Phật Đản Của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon - Văn Công Hưng dịch
(Xem: 40805)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 22899)
Tuy Ngài đã nhập diệt nhưng chánh pháp vẫn được lưu truyền mãi trong thế gian như là một con đường đưa chúng ta thoát khỏi sự khổ đau để tìm về bờ giải thoát.
(Xem: 22961)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất...
(Xem: 21623)
Nhớ Phật đản là nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc đời ô trược này đã từng hiện sinh một Đức Phật đem tình thươngtrí tuệ soi sáng nhân gian...
(Xem: 18645)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 22619)
Vui thay Đức Phật ra đời chỉ con người mọi việc đều xuất phát từ duyên khởi rồi dẫn tới nhân quả. Một chiếc lá rụng ở đây biết đâu là ngọn gió từ ngoài biển...
(Xem: 21101)
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái...
(Xem: 19244)
Lâm Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người vô cùng hoan hỷ.
(Xem: 20948)
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện giữa Trung Ấn Độ để sau này trở thành một bậc Vĩ Nhân...
(Xem: 20350)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 30594)
Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt...
(Xem: 20211)
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử, cuộc đời Ngài có vô vàn điều phi thường. Mà vĩ đại nhất là, Ngài đã chứng ngộ giải thoát, và đem pháp ấy truyền dạy cho chúng sanh.
(Xem: 17487)
Bậc đại Thánh ứng hiệnthế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi.
(Xem: 16622)
Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng...
(Xem: 16886)
Hằng năm, cứ vào dịp đến những ngày tháng tư âm lịch, lòng tôi lại dâng lên một niềm hân hoan khôn tả; niềm vui ấy chính là khoảnh khắc đón chờ đến ngày Phật đản...
(Xem: 14982)
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2556 - 2012 của Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 14857)
Tự do là điều có thể. Chúng ta không phải bị nhốt trong đau khổ. Có con đường để thoát khổ. Và con đường đó không gì khác là thực hành bát chánh đạo.
(Xem: 22899)
Trần gian cung phụng Đản sanh Mỗi Tâm mỗi Bụt viên thành truyện xưa Quản chi tạt gió xan mưa...
(Xem: 16076)
Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng...
(Xem: 16243)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
(Xem: 15294)
Nói chung, sự hiện thân của đức Từ Phụ Thích Ca làm cho thế giới đang rưng rưng lệ bỗng hóa thành nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt của vạn hữu.
(Xem: 26176)
Bao la biển rộng sông dài. Tháng Tư ấm đậm tình người Việt Nam Lũy tre hiện mái chùa làng...
(Xem: 17230)
Tướng chữ 卍 vạn là phù hiệu của điềm lành được xưng là "Cát Tường Hải Vân" hoặc là "Cát Tường Hỷ Thí".
(Xem: 15834)
Đại lễ Phật đản 2508-1964 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng và mở ra một trang sử mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Nguyên Ly
(Xem: 19804)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 17704)
Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát.
(Xem: 14715)
Vào ngày thứ ba, trong một thông điệp nhân ngày lễ Phật Đản của Phật Giáo (Lễ Vesak), một vị Hồng Y Thiên Chúa Giáo La Mã đã ca ngợi Phật Giáo...
(Xem: 14778)
Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật...
(Xem: 19159)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15160)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 33090)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17522)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19162)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 21857)
Lumbini…! Sáng nao bình minh xanh lấp lánh Rừng cây reo, chim muôn cành xào xạc Khấp khởi nắng vàng, rộn rã nghìn hoa
(Xem: 23060)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16653)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16525)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16581)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 23022)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26434)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12769)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29552)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27760)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25976)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 18486)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant