Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8

10 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 22727)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8
KYABJE DORZONG RINPOCHE ĐỜI THỨ 8
Việt dịch: Nhóm Thuận Duyên

Chi tiết cụ thể về sự ra đời của Dorzong Rinpoche hiện thời đã được báo trước rất rõ ràng bởi Kyabje Drukpa Yongdzin Rinpoche đời thứ 7, vị thầy gốc của Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 7. Những chi tiết này cũng đã được dự liệu bởi Ngài Kyabje Khamtrul Rinpoche đời thứ 8 và cả Kyabje Agon Rinpoche, bậc thầy thành tựu nổi tiếng của dòng truyền thừa Drikung tại một nơi xa xôi hẻo lánh ở miền Trung Tây Tạng.

Khi thụ thai Kyabje Dorzong Rinpoche, mẫu thân Ngài mơ thấy khi bà đang đứng giữa một thung lũng nhuộm đầy sắc hoa vàng, thì từ bầu trời phía Đông xuất hiện một tấm thảm dài được kết bởi những đám mây trắng muốt, rất nhiều vị Lạt ma ngự trên đó. Các ngài đội chiếc mũ đỏ rất lạ mà bà chưa từng thấy bao giờ. Chính giữa là một vị Lạt ma rất trẻ đẹp đang an tọa trên tòa. Ngài đắp trên mình bộ y trắng và đội mũ trắng với một chiếc vương miện chóp cao. Vị Lạt ma trẻ nhìn bà với ánh mắt hỉ lạc.

lập tức cảm thấy tràn ngập lòng sùng kính vô hạn và vội hái lấy một bó hoa lớn dâng cúng dường vị Lạt ma trẻ cùng chư vị Lạt ma khác.

blankblank

(Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ tám)

 

Kể từ đêm đó, một sinh linh mới dần dần trưởng dưỡng trong bà. Gần 3 năm sau, khi dự lễ đăng quang của con trai (Ngài Kyabje Dorzong Rinpoche hiện tại), tại tu viện Dorzong, lần đầu tiên bà được thấy chiếc mũ thiền của dòng Drukpa Kagyu và lập tức nhận ra nó trong giấc mơ trước đây của mình. Ngay khi bà miêu tả chiếc mũ chóp cao mà vị Lạt ma trẻ kia đội, các vị Lạt ma cao cấp tại tu viện Dorzong đều đáp lại rằng đó chính là chiếc mũ của Ngài Rechunpa. Gốc các hóa thân của các vị Dorzong là Ngài Kim Cương Thủ, ngài A Nan, Palgye Dorje, một trong 25 đại đệ tử của Ngài Liên Hoa Sinh và Rechungpa, một trong hai bậc thầy chính nắm giữ dòng truyền thừa của các giáo huấn Milarepa.

Kyabje Dorzong Rinpoche được hạ sinh vào một sáng bình minh đầu hè. Một đám mây nhẹ đã mang đến cơn mưa phùn tươi tốt và cầu vồng xuất hiện ngay trên nóc nhà gia đình Ngài trú ngụ. Trước những điềm cát tường đó, mọi người dân trong ngôi làng Ngeyul đều dám chắc đứa trẻ chính là một vị hóa thân. Cũng sáng hôm đó, một hình hoa sen đã xuất hiện trên bề mặt của bốn trong số 7 bát cúng dường trong phòng thờ của gia đình Ngài. Bức hình in đậm và không thể tẩy được dưới đáy chiếc bát làm từ chiếc chuông bằng kim loại. Những tài sản quý giá của gia đình đều đã bị phá hủy hết từ thời Cách mạng Văn hóaTây Tạng.

Lại cũng sáng hôm đó, một cặp quạ bỗng dưng xuất hiện và đậu trên mái nhà. Chúng lưu lại đó cho đến lúc cậu bé Kyabje Dorzong Rinpoche được đưa tới tu viện của mình. Sau đó người ta mới phát hiện ra rằng chúng chính là đôi quạ thường sống tên mái nhà của các vị hộ pháp của Gonkhang tại tu viện Dorzong ở Gon Jo đã biến mất vào thời điểm Dorzong Rinpoche chào đời. Tu viện Dorzong được thành lập dưới thời Ngài Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 4, theo lời thỉnh cầu có được một tu viện mới trên lãnh địa của người dân vùng Gon Jo. Tu viện mới mất chừng hai ngày đi ngựa từ Ngeyul.

Kyabje Dorzong Rinpoche đăng quang từ năm ba tuổi và Ngài bắt đầu tu học từ năm lên 5. Ngài chứng tỏ năng khiếu của mình trong các bài đọc, bài viết và học thuộc lòng. Năm lên 7, Ngài viếng thăm tu viện Khampagar và hạnh ngộ Kyabje Khamtrul Rinpoche đời thứ 8. Vào thời điểm này, “ Đại Pháp Hội Liên Hoa Sinh” đang được thực hành tại Tu viện Khampagar. [Pháp hội thực hành] Nghi quỹ này 12 năm mới diễn ra một lần và kéo dài trong một tháng. Ngài Kyabje Dorzong Rinpoche trẻ tuổi đã tham dự pháp tu và hoàn thành nghi lễ nhờ vào trí nhớ của mình. Đông đảo mọi người chứng kiến điều kỳ diệu này đều có cảm giác vị Rinpoche trẻ thật đặc biệt.

blank

Kể từ đó, Kyabje Dorzong Rinpoche bắt đầu thọ nhận các quán đỉnh, giáo lý và các pháp tu cao hơn của Drukpa Kagyu từ Kyabje Khamtrul Rinpoche. Năm 8 tuổi, Ngài được tiếp thu giáo huấn của tất cả các truyền thống, đặc biệtĐại Thủ ẤnĐại cứu cánh từ Kyabje Ragtul Rinpoche, vị Lạt ma dòng Nyingma vô cùng được sùng kính bởi các bậc thầy của tất cả các trường phái. Cũng vào lúc này, Ngài bắt đầu học những giáo lý và luận điển cơ bản của Phật giáo về ba giới nguyện. Ngài nghiên cứu các luận điển của Tịch Thiên và các vị Bồ Tát khác, đồng thời nghiên cứu về ba bộ luận chính của Trung Quán Tông cùng các vị hóa thân Đại Đức Tashi Namgyal và Drayab Khenpo Lodru, một trong số Khenpo nổi tiếng nhất của dòng Sakya lúc bấy giờ ở tỉnh Kham.

Bước lên 9, Ngài thọ nhận các Pháp Thiền siêu việt Đại Thủ ẤnĐại cứu cánh đồng thời được Kyabje Ragtul Rinpoche (một trong những bậc thầy bất bộ phái đáng kính nhất thời đó) đích thân hướng dẫn và còn được thọ nhận trọn bộ kho tang các giáo huấn Mật điển của dòng Kagyu ( Kagyu Ngag Dzod) cũng như tất cả các trao truyền của các terma Namchoe khác. Ngoài ra, Ngài còn nhận được ba Pháp tu chính của dòng Nyingma, các Pháp Hộ pháp của Đức Liên Hoa Sinh được phát hiện từ thế kỷ 11, và trọn bộ giáo huấn từ Ngài Tsele Natsog Rangdol. Cùng lúc, Ngài còn thọ nhận 100.000 giáo huấn Mật điển cổ truyền của truyền thừa Nyingma (Nyingma rgyud ‘bum) từ Đại Đức Rongmi Lama Gedun.

Năm 14 tuổi, Ngài bước vào bậc học cao hơn tại Viện nghiên cứu của Tu viện Khampagar, tại đây Ngài đã theo học dưới sự dìu dắt của Khenpo Perma Tharchin đến từ Kathog, một tu viện Nyingma cổ. Dưới sự chỉ dạy của vị Khenpo lỗi lạc, Ngài được học về Đại Thủ Ấn và hai luận điển Câu xá Tông chính, cũng như các giáo lý triết học Phật giáo củai Kyanje Mipham Rinpoche. Ngài luôn xuất sắc đứng đầu lớp trong mọi kỳ thi.

blankblank

(Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 cùng với ngài Drugu Choegyal Rinpoche ở Bồ Đề Đạo Tràng)

 (Rinpoche đi bộ gần sông Naranjana, trong chuyến hành hương, năm 1999)

Có lần Kyabje Dorzong Rinpoche được người dân xứ Rongmi mời tới thăm vùng đất của họ gần tu viện gốc Dorzong. Ở đấy có dãy núi Yongten Ritra trùng điệp (Ngọn núi công đức rực rỡ) và rất nhiều hồ được đồn đại là nơi chôn giấu các kho tàng giáo lý của Đức Liên Hoa Sinh. Đoàn dừng lại trên một cánh đồng cỏ, nơi những người du mục cúng dường các Ngài sữa chua và sữa. Bầu trời trong và xanh. Nhưng khi các Ngài bắt đầu cất lời cầu nguyện thì bỗng dưng hai đụn mây xuất hiện trên khoảng trời ngay trên đầu họ. Sau đó, từ hai đụn mây lớn kia lần lượt tách ra từng làn mây nhỏ bồng bềnh trôi đến nối đuôi nhau làm nên chín dải mây dài tuyệt hảo. Người dân tụ tập ở đó đều hết sức kinh ngạc. Sau hồi lâu tĩnh lặng chìm trong ngạc nhiên, chín dải mây lại tan ra về quy tụ trong đụn mây. Hai đụn mây lại nhập vào nhau, và rồi những hồi sấm vang rền kèm theo sau đó là một trận mưa. Các bậc cao niên du canh du cư đều thừa nhận rằng trong suốt cả cuộc đời mình các vị chưa từng được chứng hiện một hiện tượng nào kỳ lạ đến vậy. Khi nghe câu chuyện, một trong những vị thầy gốc đầu tiên của Kyabje Dorzong Rinpoche, Kyabje Ragtul Rinpoche đã giảng giải rằng bởi lẽ các vị thần địa phương, những người coi giữ các giáo lý của Đức Liên Hoa Sinh có mối liên kết với Kyabje Dorzong Rinpoche đời quá khứ nên những đám mây này, như chiếc khăn mà chín vị hộ thần nơi đây cúng dường lên để chào đón chuyến viếng thăm đầu tiên của vị hóa thân trẻ.

Năm 1958, Kyabje Khamtrul Rinpoche quyết định rời Tây Tạng đến Ấn Độ và đề nghị Kyabje Dorzong Rinpoche, lúc bấy giờ 15 tuổi, đi cùng Ngài. Trong cuộc hành trình băng qua Lhasa, họ đã có cơ duyên hạnh ngộ Đức Đạt lai Lạt ma. Tiếp sau đó, họ hành hương đến các thánh địa ở miền Trung Tây Tạng trước khi qua Sikkim và đến dừng chân tại Ấn Độ. Kể từ năm 1959, họ lưu lại tại Kalimpong. Tại đây, Kyabje Khamtrul Rinpoche đã xây dựng nên ngôi đền Zandok Palri với sự đóng góp, hỗ trợ từ người dân Sikkim, Bhutan và Tây Tạng để có thể lại tiếp tục thực hành các giáo Pháp, bao gồm cả các vũ điệu Lạt ma.

Kyabje Dorzong Rinpoche lập tức nối lại quá trình học tập của mình về triết học, Kinh điển Phật giáo và các mật điển với ba vị Hòa thượng, Khenpo Thupchoe và Khenpi Tsondue của trường phái Nyingma và Khenpo Rinchen trường phái Sakya. Cho đến tận khi thành lập Tashi Jong năm 1969, Kyabje Dorzong Rinpoche vẫn phải đi lại giữa Kalimpong, Dalhousie và Kangra. Trong thời gian này, Ngài thọ nhận các quán đảnh, giáo lý Đại Thủ Ấn cũng như chỉ dẫn từ Kyabje Khamtrul Rinpoche đời thứ 8. Ngài còn nhận được vô số các quán đỉnh, giáo lýchỉ dẫn từ Đức Pháp Vương Karmapa đời thứ 16 và Kyabje Dilgo Khyentse Rinpoche. Năm 1969, Ngài trở thành một Khenpo (tu viện trưởng của viện giáo dục tu sĩ) của tu viện Drukpa Kagyu tại Tashi Jong.

Năm 1971, do lịch làm việc quá ngặt nghèo cùng các vấn đề về sức khỏe của Kyabje Khamtrul Rinpoche, người dân vùng Tashi Jong đã đề nghị Kyabje Dorzong Rinpoche lên làm Phó hiệu trưởng của Tu viện Khampagar và Phó Chủ tịch Cộng đồng người dân Tashi Jong. Khi Kyabje Khamtrul Rinpoche viên tịch năm 1980, Ngài được bầu giữ chức Hiệu trưởng.

blank

 (Hạnh ngộ với đức Đạt Lai Lạt Ma)

blank

 (Giảng Pháp ở Lhasa, Tây Tạng)

 

Tại vị trí đó, cùng với Pháp Vương Karmapa đời thứ 16 và Kyabje Dilgo Khyentse Rinpoche, Ngài thưc hiện tất cả các cuộc tham vấn và sắp xếp cho việc thừa nhận sự tái sinh của Kyabje Khamtrul Rinpoche đời thứ 9. Lễ đăng quang được tổ chức năm 1983. Với cương vị là Nhiếp chính vương của Kyabje Khamtrul Rinpoche đời thứ 8 kiêm Hiệu trưởng của Tu viện Khampagar ở Ấn Độ đồng thời là Chủ tịch Cộng đồng người Tây Tạng ở Tashi Jong, Kyabje Dorzong Rinpoche đã cống hiến suốt 21 năm với lòng bi mẫn, trí tuệnăng lượng vĩ đại cho sự tiến bộ của tu viện và cộng động cư sĩ. Cùng với việc củng cố các trung tâm nghệ thuật thủ công và các hoạt động văn hóa, Ngài còn lập nên trung tâm y tế, trường mẫu giáo và Viện nghiên cứu cho các bậc học cao hơn. Vào những năm 1990, Ngài thọ nhận trọn vẹn các quán đỉnh của truyền thừa Drukpa từ Đức Kyabje Trulsik Adeu Rinpoche đời trước.

Song song với các hoạt động trên, Kyabje Dorzong Rinpoche luôn chú tâm thực hành thiền định và các giáo lý truyền thừa một cách miên mật, thuần tịnh và không gián đoạn. Tất cả những điều đó đã cấu thành nên tư cách một bậc thầy đích thực, người nắm giữ truyền thừa Drukpa Kagyu.

Năm 1984, Kyabje Dorzong Rinpoche có cơ hội trở về Tây Tạng và thăm lại tu viện của mình. Tại đó, Ngài được mời thuyết Pháp tại các tu viện của tất cả các trường phái của Phật Giáo Tây Tạng. Ngài đã giúp đỡ các hành giả rất nhiều thông qua việc ban truyền quán đảnhgiáo lý mà họ bị gián đoạn trong thực hành.

Ngài còn đi đến nhiều nước để thuyết giảng, từ đó dần hình thành nên một số cộng đồnghành giả đáng chú ý.

 

Bên cạnh việc thực hành giáo lý của truyền thừa Drukpa, Rinpoche còn thực hành nhiều giáo lý của các dòng truyền thừa Phật giáo Tây Tạng khác. Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng còn tại thế hiện nay. Ngài là một trong số các bậc thầy nắm giữ truyền thừa, là bậc tôn quý đáng kính nhất của Drukpa Kagyu bởi những cống hiến của Ngài tại quê nhà cũng như cả khi lưu vong.

blank

(Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ tám cùng với ngài Drugu Choegyal Gyamtso Rinpoche và ngài Drubwang Tsoknyi Rinpoche – bên phải ngoài cùng, năm 2008).

Nguồn: http://www.dorzongrinpoche.org/8drzng.htm

Việt dịch: Nhóm Thuận Duyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10119)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
(Xem: 10520)
Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người... Nguyện san Chánh Pháp - Số Xuân 2014
(Xem: 10139)
Thi hào Vương Duy (701-761) cùng với Đỗ Phủ (712-770) và Lý Bạch (701-762) là ba thi nhân cự phách dưới triều đại của Đường Huyền Tông (685-762)... Hoang Phong
(Xem: 20418)
Trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “đau khổ” được dùng để chỉ trạng thái bất như ý, khó chịu và buồn phiền cùng cực... Nguyễn Hữu Đức
(Xem: 11658)
Thiền không xa lạ đối với giới Phật học trong suốt hơn hai ngàn năm qua. Cá nhân tôi, trong những năm gần đây cũng áp dụng Thiền song song với thuốc cần thiết để chữa bệnh, kết quả rất tốt... Hồng Quang
(Xem: 13798)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 19143)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 46722)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12098)
Thiền cứu tôi từ tuyệt vọng hơn một lần. Trong những giai đoạn bệnh hoạn trầm trọng nhất, tôi đã được cứu bằng nhận thức rằng kinh nghiệm đau đớn chỉ là nhất thời... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 11677)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 23094)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 17859)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10163)
"Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên, Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền." Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 17770)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13941)
“Nếu chúng ta chia quả đất này thành từng mảnh nhỏ như những hạt cỏ, số lượng những mảnh này không lớn bằng số lượng lần mà mỗi chúng sanh đã là cha mẹ ta”... Karen Villanueva, Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 14053)
"Một lòng kính lạy Phật Đà, Ngàn đời con nguyện ở nhà Như Lai, Con hằng mặc áo Như Lai, Con ngồi pháp tọa Như Lai muôn đời"... Tịnh Bình
(Xem: 15114)
Càng lớn con càng thương Mẹ hơn, Tình dâng cao vút đỉnh liên sơn, Tháng năm đời có thêm cay đắng, Mẹ gánh oằn vai chút chẳng sờn... Thích Minh Tuệ
(Xem: 20310)
Thời gian trôi, tiếng đồn về Mẹ ngài bèn gửi thư đi cho ngài: "Con ơi! Mẹ nghĩ kỹ rồi Hiến mình cho Phật, cho nơi đạo mầu
(Xem: 18301)
Thiền sư bước đến lặng yên, Rồi dùng thiền trượng gõ lên quan tài Người ta nghe tiếng của ngài...
(Xem: 17426)
Khuyên con chữ hiếu lo tròn Không thời quả báo sẽ luôn dữ dằn Từ đây kính mẹ, ăn năn Ai hơn mẹ quý, ai bằng tình thâm
(Xem: 18182)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 12730)
Một thời đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật gần thành Vương Xá nước Ma Kiệt với mấy nghìn Tỳ Kheo, mấy vạn Bồ Tát, và vô số trăm nghìn Chư Thiên rải hoa trỗi nhạc cúng dường Phật... Toàn Không
(Xem: 12866)
Những lời khuyên này, ta muốn nói với Dagmema. Hãy bình tâm, đừng trộn lẫn tâm ấy với những gì thế tục. Hãy đánh thức sự kiên địnhbuông bỏ niềm đau.
(Xem: 13431)
Xuân qua thu lại, cùng thời gian này vào năm tới, vô số người sẽ gặp phải cái chết của mình. Ai có thể quả quyết rằng bạn không phải là một người trong số đó?
(Xem: 17046)
Đây là một cuốn sách quý, đúc kết kinh ngiệm trên 25 năm giảng dạy Phật pháp và hướng dẫn hành thiền của Thiền sư Ajaham tại Úc và các nước Đông Nam Á...
(Xem: 11489)
Tinh yếu của thiền trước tiên là quay cái nhìn vào bên trong tự thể. Muốn như thế chúng ta cần phải biết sử dụng 3 phương tiện...
(Xem: 18299)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 18606)
Đạo sư Padma nói: Hãy thực hành Pháp thập thiện và hãy có niềm tin vào cái nên tránh và cái nên làm theo các loại hậu quả trắng và đen của những hành động ấy.
(Xem: 21392)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 22177)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 16885)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
(Xem: 12568)
Mỗi năm gần đến ngày Phật đản, Phật tử chúng ta lại có dịp suy ngẫm về bối cảnh lịch sử - xã hội, trong đó Đức Phật thị hiệnđạo Phật ra đời...
(Xem: 15338)
Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn. Nhất thiết thế gian, Sinh lão bệnh tử... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 24628)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 14240)
Ý nghĩa ra đời của Thái tử là một hàm ý trọng đại xác định Phật tính trong mỗi chúng sanh khi đã hoàn giác thì cái “duy ngã” đó là một tối thượng...
(Xem: 11650)
Thiền Và Chỉ Quán - Nguyên tác: Thiên Thai Trí Khải, Paul L. Swanson biên soạn, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
(Xem: 19747)
Pháp bản như vô pháp, Phi hữu diệc phi vô, Nhược nhân tri thử pháp, Chúng sanh dữ Phật đồng... Thiền sư Huệ Sinh
(Xem: 13429)
Đức Phật, vô cùng thực tếthiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại.
(Xem: 22814)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thươnglòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
(Xem: 19010)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
(Xem: 18467)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệtừ bi...
(Xem: 21631)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 20534)
Hương quyện của đất trời, sắc màu của trần gian, hai bờ của phân ly, hai ngã của mê ngộ, một sự thảnh thơi nhẹ bước...
(Xem: 20040)
Thực hành Bổn tôn là phương pháp đặc biệt và lớn lao để nhanh chóng chuyển hóa những sự hiện hữu thế tục mê mờ thành sự giác ngộ.
(Xem: 14082)
Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma...
(Xem: 15012)
Sau khi định tâm, tôi nhắm mắt tưởng nhớ đến Thánh: “Hôm nay con thấy vô cùng hạnh phúc được đặt chân lên Tu viện, nơi Thánh Trulshik và các vị đạotu hành...
(Xem: 13802)
Phật tử nên tin sâu vào nhân quả, tin vào đạo lý vô thường, duyên sinh, huyễn mộng của các pháp... Thích Thông Huệ
(Xem: 15116)
Khác với Trung Quốc và một số quốc gia khác, rồng không hiện hữu nơi niềm tin của người Ấn... Nghiệp Đức
(Xem: 17247)
Theo những nghiên cứu lâu dàicẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal).
(Xem: 15302)
Nụ cười của Ngài cũng là sự thể hiện hai đức hạnh quý báu trong đạo Phật, đó là hỷ, xả. Có hỷ, xả chúng ta mới nở nụ cười vui tươi chân thật, hạnh phúc, an lạc.
(Xem: 12822)
Những lời thuyết giảng của vị sư già đã mang lại cho chị một tâm hồn phong phú, bén nhạy và nhiều yêu thương hơn.
(Xem: 15891)
Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên.
(Xem: 13010)
Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu...
(Xem: 13141)
Những người mới bắt đầu nên tập trung vào việc chắc chắn rằng động cơ của họ là thanh tịnh, và cầu nguyện chí thành đến vị thầy gốc. Đây là thực hành tốt nhất.
(Xem: 15030)
Mùa xuân gần kề với niềm tin sức sống mới. Hãy tu để chuyển nghiệp! Đức Phật đã dạy như vậy! Bất kỳ hoàn cảnh nào chúng ta cũng có thể tu được...
(Xem: 22660)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 7166)
An-ban thiền được thành lập trên nền tảng là kinh An-ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập. Ngài An Thế Cao dịch có kinh An-ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập chuyên nói về thiền định...
(Xem: 19370)
Tara là hiện thân lòng từ bi của chư Phật ba thời, quá khứ, hiện tạivị lai. Bà là vị Thánh nữ có khả năng thực hiệnhoàn thành mọi hoạt động giác ngộ của chư Phật.
(Xem: 37716)
Thật ra, là hoàn toàn sai lầm khi nói rằng tôn nam này kết hợp với tôn nữ kia. Đúng ra phải nói rằng trong Tự Tánh hiển lộ ra một hình tướng bất nhị.
(Xem: 9183)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầu thiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinh điển thiền ngữ”
(Xem: 8688)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 17907)
Không tách lìa hiện tướngtánh không. Đây chính là chánh kiến, chẳng còn gì sở đắc được hơn.
(Xem: 14878)
Thiền là một con đò dùng để đưa người rời bỏ bờ khổ đau và vô minh để tới bờ của an lạcgiải thoát...
(Xem: 27064)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 19954)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15277)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15490)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26798)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 14572)
Nếu ta tiếp cận Pháp như những đứa trẻ con, ta có thể nhớ lại giây phút đầu tiên ta gặp Giáo Pháp, nó trở nên quan trọng đối với ta ra sao...
(Xem: 19718)
Mục đích chính yếu của sự hóa hiện của một vị tái sanh là để tiếp tục công việc chưa hoàn tất của vị tiền nhiệm để hộ trì Giáo pháp và [hóa độ] chúng sinh.
(Xem: 14641)
Đức Tara nhanh chóng giúp bạn thành công trong việc đạt được hạnh phúc tối hậu của giác ngộ. Bạn nhận lãnh rất nhiều công đức tốt lành, hay nguyên nhân của hạnh phúc...
(Xem: 18664)
Mắt mở nửa chừng, hãy dịu dàng cảm nhận từng hơi thở vào và ra. Và cảm nhận rằng toàn thân bạn đang dịu dàng thở.
(Xem: 15940)
Nếu giáo Pháp của Đức Phật vẫn còn hiện hữu và con có một niềm tin vững chắc thì đơn giản con đã tích lũy rất nhiều công đức trong quá khứ.
(Xem: 16359)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19376)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19744)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19911)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18612)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 29840)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 14585)
Tôi thấy thầy trao cho Út Huy gói quà, thằng nhóc vừa đưa tay nhận lấy, thầy lại móc túi áo lấy ra một chai dầu nóng dúi vào tay nó. Xong, thầy xoa đầu nó âu yếm...
(Xem: 17771)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
(Xem: 32442)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 15278)
Quán các pháp chẳng thường chẳng đoạn, cũng chẳng phải có, chẳng phải không, chỗ tâm hành diệt, ngôn thuyết cũng bặt dứt. Đó gọi là quán sâu xa thanh tịnh.
(Xem: 17316)
Quyển "Thiền tông quyết nghi tập" này do thiền sư Đoạn Vân Trí Triệt soạn vào đời Nguyên, được ấn hành vào niên hiệu Khang Hi thứ 6 (1667) đời Thanh...
(Xem: 29778)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31556)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 64724)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 32816)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 20242)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 18535)
Hiện tại chúng ta đang sở hữu thân người quý giá và đã gặp được giáo lý Phật Đà. Nhờ sự gia trìlòng từ ái của chư đạo sư, chúng ta có thể thọ nhận, nghiên cứuthực hành giáo pháp.
(Xem: 30828)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 19931)
Thực hành Kim Cương thừa được bắt đầu thông qua một quán đảnh. Để hiệu quả, quán đảnh đòi hỏi sự chứng ngộ của đạo sư, bậc trao truyền nó, cũng như sự tin tưởngtrí thông minh của đệ tử nhận nó.
(Xem: 45913)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 32606)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39365)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40463)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 50155)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 19104)
Hệ thống Phật giáo Đại thừa được hình thành vào khoảng trước sau thế kỷ thứ nhất ở những vùng Nam Ấn Độ với chủ trương “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”...
(Xem: 18566)
Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi.
(Xem: 20698)
Việc chúng ta được sinh ra làm người mang lại cho ta cơ hội và thuận lợi để thực hành Pháp và cho ta con đường dẫn tới truyền thống bao lasâu xa của Phật Pháp.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant