Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

[101 - 110]

12 Tháng Hai 201200:00(Xem: 15239)
[101 - 110]

DẠO BƯỚC VƯỜN THIỀN

(333 Câu Chuyện Thiền)

Đỗ Đình Đồng góp nhặt


101. ÔNG PHẬT SỐNG VÀ NGƯỜI ĐÓNG THÙNG GỖ

Các Thiền sư cho đệ tử độc tham, hay sự hướng dẫn cá nhân trong phòng riêng. Không ai được vào đó trong khi thầy và trò đang đối diện nhau.

Mặc Lôi là Thiền sư của chùa Kiến Nhân ở Kyoto, thường thích nói chuyện với thương nhân, nhà báo cũng như với đệ tử. Có một người đóng thùng gỗ hầu như mù chữ. Anh ta thường hay hỏi những câu ngốc nghếch về Mặc Lôi, uống trà, rồi bỏ đi.

Một hôm trong khi người đóng thùng gỗ đang có mặt ở đó, Mặc Như Lôi muốn cho một đệ tử độc tham, vì thế sư yêu cầu người đóng thùng gỗ đợi sư ở một phòng khác.

Người đóng thùng gỗ phản đối, “Tôi biết ông là một ông Phật sống. Ngay cả mấy ông Phật đá trong chùa cũng không bao giờ từ chối nhiều người tụ tập trước mấy ổng. Vậy tại sao tôi lại bị đuổi đi.”

Mặc Lôi phải ra bên ngoài gặp người đệ tử.

  (Thiền Cốt Thiền Nhục)

102. BA LOẠI ĐỆ TỬ

Nguyệt Am (Gettan) là một Thiền sư sống vào những năm cuối thời Đức Xuyên. Sư thường nói, “Có ba loại đệ tử: Những người truyền Thiền cho kẻ khác, những người giữ chùa và bàn thờ, rồi những cái bị gạo và những cái mắc áo.”

Nga Sơn cũng diễn tả cùng một ý ấy. Khi sư tu học dưới sự hướng dẫn của Tích Thủy, thầy của sư rất nghiêm khắc. Đôi khi Tích Thủy đánh cả sư. Các đệ tử khác không chịu nổi loại giáo lý này nên bỏ đi. Nga Sơn ở lại và nói: “Một đệ tử tồi lợi dụng ảnh hưởng của thầy. Một đệ tử khá ngưỡng mộ lòng tốt của thầy. Một đệ tử giỏi phát triển mạnh dưới kỷ luật của thầy.”

 (Thiền Cốt Thiền Nhục)

103. BỐN HẠNG NGƯỜI TU

Đại sư Tường Quan Chiếu Khoan (1741-1830) là truyền nhân đời thứ năm phái Liên Tông (dòng Lâm Tế). Khi sắp tịch, sư gọi đệ tử lớn là Từ Tánh bảo, “Ta từ bé đến già chuyên tâm tiến đạo, nay ta sắp ra đi, hãy nghe ta nói kệ”:

  Người bậc nhất tu pháp vô vi,

 Người bậc nhì phước huệ đầy đủ,

 Người bậc ba làm thiện chừa ác,

 Người bậc tư tam tạng tinh thông.

Nói xong, sư ngồi yên viên tịch.

  (Thiền Sư Việt Nam)

104. ĐỐI THOẠI THIỀN

Các Thiền sư huấn luyện cho các đệ tử trẻ của họ tự diễn đạt ý mình. Hai ngôi chùa Thiền, mỗi chùa có một chú sa di. Một chú mỗi sáng đi mua rau, gặp chú kia trên đường đi.

“Chú đi đâu đó?” chú thứ nhất hỏi.

“Chân tôi bước đâu thì tôi đi đó,” chú kia trả lời.

Câu trả lời làm rối trí chú thứ nhất nên chú đến nhờ thầy giúp đỡ. Thầy chú dạy: Sáng mai, khi con gặp chú bạn nhỏ, hãy hỏi cùng câu hỏi đó. Chú ta sẽ trả lời câu đó, rồi con hỏi: “Giả sử chú không có chân thì chú đi đâu?” thì hắn sẽ chịu thua ngay.

Sáng hôm sau hai chú bé lại gặp nhau.

“Chú đi đâu đó?” chú thứ nhất hỏi.

“Gió thổi đâu thì tôi đi đó,” chú kia đáp.

Câu đáp này lại làm chú bối rối nữa. Chú mang chuyện bị đánh bại đến gặp thầy.

“Hãy hỏi hắn nếu không có gió thì hắn đi đâu,” ông thầy gợi ý.

Ngày hôm sau hai chú lại gặp nhau lần thứ ba.

“Chú đi đâu đó?” chú thứ nhất hỏi.

“Tôi đi chợ mua rau,” chú kia đáp.

  (Thiền Cốt Thiền Nhục)

 105. CÁI CỐC CUỐI CÙNG

Tangen đã tham học với Thiền sư Tiên Nhai từ lúc còn bé. Đến năm hai mươi tuổi Tangen muốn từ giả thầy đi thăm viếng các nơi để so sánh sở học, nhưng Tiên Nhai không cho phép. Cứ mỗi lần Tangen gợi ý, Tiên Nhai liền cho Tangen một cái cốc lên đầu.

Cuối cùng, Tangen nhờ một sư huynh đồng môn dụ Tiên Nhai cho phép mình đi. Người sư huynh làm xong và báo cho Tangen biết: “Sắp xếp xong rồi. Tôi chuẩn bị cho chú khởi hành ngay lập tức.”

Tangen đến cảm ơn Tiên Nhai vì đã cho phép. Tiên Nhai trả lời Tangen bằng một cái cốc đầu nữa.

Khi Tangen kể lại cho sư huynh nghe chuyện như vậy, người sư huynh nói: “Việc gì thế ? Hòa thượng không có chuyện cho phép rồi lại đổi ý. Tôi sẽ nói với hòa thượng vậy." Rồi người sư huynh đi gặp Tiên Nhai.

Tiên Nhai nói: “Tôi không hủy bỏ sự cho phép của tôi. Tôi chỉ muốn cốc đầu anh ta một cái để khi anh ta trở về thì ngộ rồi, và tôi không còn trách mắng anh ta được nữa.”

 (Thiền Cốt Thiền Nhục)

106. THIỀN CHIẾC KẸP GẮP THAN

Thiền sư Bạch Ẩn thường nói với môn đệ về một bà lão chủ quán trà, ca ngợi sự hiểu Thiền của bà. Các đệ tử không chịu tin lời sư nói, đến quán trà để tìm hiểu hư thực thế nào.

Khi nào thấy họ đến bà lão hỏi ngay họ đến để uống trà hay để xem Thiền của bà. Trong trường hợp đầu, bà tiếp đãi họ thật tử tế. Trong trường hợp sau, bà ra dấu gọi họ đến phía sau cái màn. Ngay lúc họ vừa vào, bà liền đánh họ bằng chiếc kẹp gắp than.

Chín phần mười bọn họ không thoát được tay bà.

  (Thiền Cốt Thiền Nhục)

107. THIỀN CỦA NGƯỜI KỂ CHUYỆN

Encho là một tay kể chuyện hay lừng danh. Những câu chuyện tình của anh ta làm rung động trái tim người nghe. Khi anh ta kể chuyện chiến tranh, người nghe tưởng như chính họ đang ở trên chiến trường.

Một hôm Encho gặp Sơn Cương Thiết Chu, một cư sĩ hầu như đã nắm vững được Thiền. Sơn Cương nói: “Tôi hiểu anh là người kể chuyện hay nhất nước và anh có thể làm người ta cười hay khóc tùy ý. Hãy kể tôi nghe chuyện Thiện Tài đồng tử đi, tôi thích nghe chuyện này nhất. Khi còn bé tôi thường ngủ bên cạnh mẹ tôi, bà thường kể câu chuyện huyền thoại này. Cứ đến giữa chuyện là tôi ngủ mất tiêu. Hãy kể y như mẹ tôi vậy.”

Encho không dám thử vụ này. Anh ta yêu cầu thời gian để nghiên cứu. Mấy tháng sau anh ta đến nói với Sơn Cương: “Xin cho tôi cơ hội kể chuyện ông nghe.”

Sơn Cương đáp: “Để hôm khác đi.”

Encho rất thất vọng. Anh ta nghiên cứu và thử lại. Sơn Cương từ chối anh ta nhiều lần. Khi Encho bắt đầu kể thì Sơn Cương chận lại, nói: “Anh kể chưa giống mẹ tôi.”

Encho mất năm năm mới có thể kể được cho Sơn Cương nghe câu chuyện truyền kỳ giống như mẹ của Sơn Cương kể.

Sơn Cương đã truyền Thiền cho Encho bằng cách này.

  (Thiền Cốt Thiền Nhục)

108. LÁ THƯ GỬI NGƯỜI HẤP HỐI

Thiền sư Bạt Tụy (Bassui) viết lá thư sau đây gửi đến một trong những đệ tử của sư sắp chết:

“Yếu tánh của tâm ông không sinh, vì vậy nó sẽ không chết. Nó không hiện hữu cũng không biến mất. Nó chẳng phải là hư không. Nó không có sắc cũng không có hình. Nó không hưởng thụ khoái lạc cũng không chịu đựng đau khổ.

Tôi biết ông bị bịnh nặng. Ông đang đối diện trọn vẹn với chứng bệnh như một Thiền sinh giỏi. Có thể ông không biết chắc ai là kẻ đang đau khổ, nhưng hãy tự hỏi: Yếu tánh của tâm này là gì. Chỉ nghĩ đến điều này thôi. Rồi ông sẽ không cần gì nữa. Đừng ham muốn gì cả. Chung cuộc của ông thì vô cùng, giống như tuyết tan trong không khí trong lành.”

 (Thiền Cốt Thiền Nhục) 

 109. LỜI DẠY TỐI HẬU

Ngày xưa ở Nhật người ta dùng lồng đèn làm bằng sườn tre phất giấy, bên trong đốt đèn cầy. Một đêm nọ, một người mù đến thăm bạn, khi ra về người bạn đưa cho anh ta một cái lồng đèn để đi đường.

Người mù nói: “Tôi không cần lồng đèn đâu. Đối với tôi tối với sáng cũng như nhau.”

Người bạn đáp: “Tôi biết anh không cần lồng đèn để thấy đường, nhưng nếu anh không có một cái, người khác có thể chạy tông vào anh. Vì vậy anh phải cầm nó.”

Người mù ra đi với cái lồng đèn trong tay và đi chưa được bao xa bỗng có người chạy đâm sầm vào anh ta.

“Coi kìa, anh đi đâu vậy!” anh mù kêu lên với người lạ. “Anh không trông thấy lồng đèn của tôi sao?”

“Đèn cầy của anh tắt queo rồi anh ơi,” người lạ đáp.

(Thiền Cốt Thiền Nhục)

110. KHÔNG RÀNG BUỘC

Kitano Gempo là trụ trì chùa Vĩnh Bình. Sư qua đời lúc chín mươi hai tuổi vào năm 1933. Cả đời, sư không muốn bị ràng buộc vào bất cứ điều gì. Năm hai mươi tuổi, là một khất sĩ hành cước, sư bỗng gặp một lữ khách hút thuốc lá. Khi họ cùng nhau thả bộ xuống một con đường núi, họ dừng lại nghỉ dưới một gốc cây. Lữ khách mời sư hút thuốc. Sư nhận lời vì lúc ấy đói quá.

“Thuốc này hút thích lắm,” sư phê bình. Lữ khách tặng sư một ống điếu và một ít thuốc lá, rồi họ chia tay.

Kitano cảm nghĩ: “Những vật thích thú như thế này có thể quấy rầy sự thiền định. Trước khi đi quá xa, mình phải dừng lại ngay bây giờ.” Vì vậy sư liệng thuốc và ông điếu đi.

Năm hăm ba tuổi sư nghiên cứu Kinh Dịch, học thuyết sâu xa nhất về vũ trụ. Lúc đó trời mùa đông, sư cần một ít quần áo dày. Sư viết thư cho thầy, cách xa hàng trăm dặm, nói những thứ mình cần, và nhờ một lữ khách đưa hộ thư. Hầu như mùa đông đã gần hết mà quần áo cũng như thư trả lời đều chẳng thấy. Vì vậy, sư nhờ vào sự tiên đoán của Kinh Dịch, vì kinh này cũng dạy nghệ thuật bói toán, để quyết đoán thư có bị lạc hay không. Sư thấy rằng thư đến nơi. Sau đó có thư của thầy sư đến nhưng không nhắc đến chuyện quần áo.

Kitano cảm thấy: “Nếu cứ xem quẻ quyết đoán như thế này với Kinh Dịch, ta có thể chểnh mảng tọa thiền.” Vì thế sư bỏ giáo lý huyền diệu này và không bao giờ nhờ đến quyền năng của nó nữa.

Năm hăm tám tuổi, sư học thư pháp và thi ca Trung quốc. Sư trở thành rất điêu luyện trong các nghệ thuật này và thầy sư đã ca ngợi sư. Kitano ngẫm nghĩ: “Nếu bây giờ không dừng lại, ta sẽ thành thi sĩ chứ chẳng phải Thiền sư.” Vì thế, sư không bao giờ làm thơ nữa. 

(Thiền Cốt Thiền Nhục)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31784)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10567)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11286)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12814)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10858)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16759)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10861)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 23031)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12107)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11545)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10744)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12388)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11236)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10064)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10359)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11965)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10743)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12412)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9861)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11315)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13876)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9614)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12678)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9727)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10496)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10611)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10370)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9949)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11094)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12042)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10184)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10816)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9584)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9939)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8833)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9534)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14574)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8814)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12605)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10468)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9129)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10609)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9369)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8830)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10554)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9247)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8394)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12081)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9740)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10250)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10265)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19208)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9454)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 9026)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9607)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9033)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14810)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10127)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8401)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8982)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 9023)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8770)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9403)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14655)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9062)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8816)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9070)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10572)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8673)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 10038)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24369)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10220)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11075)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9052)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9515)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8035)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9309)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15410)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10377)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9607)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17494)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21491)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12206)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10267)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19332)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26120)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 8009)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14873)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10671)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11394)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9560)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18756)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12410)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11939)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10798)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13383)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10043)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9300)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9425)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15951)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant