Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

[181 - 190]

12 Tháng Hai 201200:00(Xem: 15711)
[181 - 190]

DẠO BƯỚC VƯỜN THIỀN

(333 Câu Chuyện Thiền)

Đỗ Đình Đồng góp nhặt


181. TẠI SAO CÁC THIỀN SƯ TRẢ LỜI BẰNG GiỌNG KHÓ ƯA?

 Có người hỏi lão sư Kapleau:

- Tại sao các Thiền sư không buồn giải thích cho người hỏi những vấn đề cho thấy thực sự làm phiền họ? Thay vào đó các sư trả lời bằng giọng khinh xuất hay gắt gỏng khó ưa?

 Lão sư:

- Nếu anh đang đói mà tôi chỉ cho anh tờ thực đơn, anh có thỏa mãn không?

Nguời hỏi:

 - Dĩ nhiên là không. Sao lão sư hỏi vậy?

Lão sư:

 - Mọi giải thíchchi tiếtvi tế đến đâu đều là nhìn từ một khía cạnh nhỏ mà ở đó có những chiều hướng vô hạn. Đó tôi lại thêm cho anh một cái đầu vào cái đầu anh đã có sẵn.

 Người hỏi:

 - Thấy chưa, đấy đúng là những gì tôi muốn nói là khó ưa.

 Lão sư:

 - Chắc là anh đang đùa.

 Người hỏi:

 - Không, tôi nghiêm chỉnh mà.

 Lão sư:

- Có lần một đệ tử hỏi thầy, “Phật là gì?” Sư đáp, “Ông là ai?” Anh cho đó là câu trả lời khó ưa?

 Người hỏi:

 - Hẳn rồi.

 Lão sư:

 - Giả sử tôi bảo anh rằng người đệ tử đã ngộ trong vấn đáp này. Anh vẫn còn tìm thấy lỗi nơi câu trả lời?

 Người hỏi:

- Phải. Không những chỉ lời nói mà còn cả giọng điệu của lão sư nữa--tôi cho là nó phản ảnh giọng điệu của Thiền sư--khiến nó thành câu trả lời khó ưa. Thiền sư có thể diễn đạt ý của ông ta bằng cách khác dễ thương hơn nếu ông ta muốn tỏ ra lịch sự.

 Lão sư [vung tay lên cười]:

- Thiền chẳng phải cho anh, anh bạn ơi!

  (Thiền: Đông Tây Hợp Lưu)

182. CÁI GÌ THỰC SỰ CÓ

 Có người hỏi lão sư Kapleau:

- Nếu tôi không hiểu lầm, tôi nghĩ lão sư đã dẫn lời Phật khi nói rằng không có gì hiện hữu.

 Lão sư:

- Anh không nắm được trọn vẹn. Tôi đã dẫn lời Phật khi nói rằng sự vật chẳng phải có cũng chẳng phải không. Đó hoàn toàn khác với điều anh vừa nói.

 Người hỏi:

- Được rồi, tôi chịu sửa sai. Nhưng nếu sự vật chẳng phải có cũng chẳng phải không, vậy cái gì là thực, cái gì thực sự có?

Lão sư:

 - Xin hãy bước lên đây.

[Người hỏi bước lên sàn. Lão sư nghiêng qua thì thầm vào tai anh ta. Cả hai cười và bắt tay nhau]

Chỉ cái đó là thực sự có.

  (Thiền: Đông Tây Hợp Lưu)

183. THẾ NÀO LÀ PHẬT TÂM?

Một hôm, có ông tăng hỏi Thiền sư Đạo Hạnh (tịch năm 1115):

- Đi, đứng, nằm, ngồi đều là Phật tâm, thế nào là Phật tâm?

Sư nói kệ đáp:

Có thì có tự mảy may,

Không thì đến cả thế gian này cũng không.

Ví như bóng nguyệt lòng sông,

Ai hay không có, có không là gì.

 

Sư lại tiếp:

Nhật nguyệt tự đầu non,

Người người tự mất châu.

Kẻ giàu sẵn ngựa mạnh,

Bộ hành chẳng ngồi xe. 

 (Thiền Sư Việt Nam)

 184. KHÔNG CÓ THIỀN SƯ

 

 Có người hỏi lão sư Kapleau:

- Câu hỏi này không có ý thô lỗ, nhưng lão sư có thể cho chúng tôi biết một vị sư hay Thiền sư có những phẩm chất như thế nào?

 Lão sư:

- Tôi không phải là Thiền sư, càng chẳng phải là một vị sư, nên tôi không biết.

 Người hỏi:

 - Nếu chẳng phải dạy thì lão sư đang làm gì bây giờ?

 Lão sư:

- Thực ra người ta có thể dạy gì cho ai không? Nghĩ như vậy có thể xem là lừa gạt đó.

Người hỏi:

- Lão sư đang làm việc ấy có vẻ hay lắm.

 Lão sư:

- Trong sách Vô Môn Quan có câu kệ nói rằng:

Chưa bước chân đi đã đến rồi,

Môi chưa hé động mà lời đã xong.

Hiểu không?

 Người hỏi:

 - Không. Câu đó có nghĩa là gì?

 Lão sư:

 - Nếu không có gì ở bên ngoài ta, có chỗ nào để đi, có gì để hiểu?

 Người hỏi:

- Nhưng không phải lão sư dạy các đệ tử của mình tại trung tâm ở Rochester sao ?

 Lão sư:

 - Tôi chỉ chia sẻ những gì tôi nghiêm túc làm cho chính mình.

Ngừời hỏi:

- Còn các vị thầy của lão sư thì sao? Trong cuốn Ba Trụ Thiền, lão sư nói rằng lão sư coi ba Thiền sư là ba vị thầy của mình. Họ không dạy gì cho lão sư sao? Lão sư đã ở lại với họ, tôi nghĩ là mười ba năm. Lão sư ắt phải cảm thấy mình học được cái gì đó mới ở lâu như vậy.

Lão sư:

- Nếu tôi có học được điều gì nơi họ thì đó chính là không có gì để học. Như vậy tôi đâu có học, tôi không học. Tôi chẳng được, tôi đã mất--một lô những hỗn loạn tâm trí, những quan niệm hư ngụy.

 Người hỏi:

 - Tôi vẫn không hiểu tại sao lão sư bảo mình chẳng phải là thầy.

 Lão sư:

- Câu chuyện sau đây có thể giúp anh hiểu. Một Thiền sư danh tiếng có lần nói với các đệ tử, “Tất cả các ông toàn là lũ ăn hèm; nếu cứ đi quanh quẩn như thế này, bao giờ mới đến đó? Các ông không biết cả nước Tàu này chẳng có Thiền sư?”

Một ông tăng hỏi, “Sao hòa thượng nói chẳng có Thiền sư trong khi có cả ngàn tăng nhân ở vô số chùa?”

“Tôi chẳng nói không có Thiền, chỉ là không có sư.”

 Người hỏi:

 - Đó có phải là một công án?

 Lão sư:

- Phải, của anh đó!

 (Thiền: Đông Tây Hợp Lưu)

185. THIỀN ĐỊNH SIÊU VIỆT: AI SIÊU VIỆT CÁI GÌ?

 Có người hỏi lão sư Kapleau:

- Lão sư nghĩ thế nào về Thiền Định Siêu Việt [Transcendental Meditation]?

 Lão sư:

 - Anh có tập Thiền Định Siêu Việt không?

 Người hỏi:

 - Tôi quan tâm đến nó.

 Lão sư:

- Cho đến giờ, nó như thế là được--duy có điều nó chẳng đi được xa lắm.

Người hỏi:

 - Có thể đi đến ngộ bằng Thiền Định Siêu Việt không?

[Lão sư mỉm cười]

 Người thứ hai nói:

- Tôi đọc trong tạp chí Khoa học [Science, January 1976] nói rằng một nhóm các nhà tâm lý học của viện Đại học Washington ở Seattle đã làm thí ngiệm với năm thiền giả, bốn trong số năm người đó là những người dạy Thiền Định Siêu Việt, và họ thấy rằng trong khoảng nửa thời gian thiền định các thiền giả đều ngủ cả, chẳng phải thiền định.

 Người thứ ba [hướng về người thư nhì] :

- Một thí nghiệm đơn độc có thể kết luận được sao? Những thí nghiệm khác cho thấy giá trị của Thiền Định Siêu Việt. Dù sao anh ngủ gục trong lúc thiền định là vì cơ thể anh cần ngủ.

 Lão sư:

 - Điều đó hoàn toàn đúng. Nhưng tại sao nó cần ngủ?

 Người thứ ba:

 - Bởi vì mệt mỏi.

 Lão sư:

- Tại sao anh trở nên mệt mỏi và buồn ngủ? Thường là vì mắt nhắm và không ngồi trong tư thế ổn định, thẳng đứng, không thở đúng cách, không sử dụng tâm đúng. Ngồi đúng cách, thiền định làm ta tươi trẻ lại, không làm ta kiệt sức. Tâm trở nên bén như dao cạo, với cảm giác trực thức cao độ. Thân nặng nề, mềm nhão làm tâm đù đờ, buồn ngủ. Nói tôi nghe, anh đã thực hành Thiền Định Siêu Việt bao lâu rồi?

 Người thứ ba:

 - Khoảng một năm.

 Lão sư:

- Vậy thì anh có thể trả lời câu hỏi này: Trong Thiền Định Siêu Việt, ai siêu việt cái gì?

[Không trả lời]

  (Thiền: Đông Tây Hợp Lưu) 

186. MÁY ĐIỀU KHIỂN TÂM SINH LÝ: THIỀN ĐIỆN TỬ?

 Có người hỏi lão sư Kapleau:

- Lão sư có biết loại máy điều khiển tâm sinh lý không [Biofeedback machines]? Tôi nghe người ta gọi nó là “Thiền điện tử.” Loại máy ấy tác dụng như thế nào?

Lão sư:

- Khái niệm về máy điều khiển tâm sinh lý, theo những người bảo trợ nó, là dạy người ta ý thức về các kiểu sóng não của mình bằng cách quan sát chúng trên sơ đồ hoặc nghe chúng được chuyển dịch thành âm thanh, bằng cách này, biết làm sao phát ra các nhịp sóng alpha theo ý muốn, được bảo là có tính chất thư tháian tĩnh. Nhưng các làn sóng alpha có gì đặc biệt? Chúng ta biết rằng các làn sóng alpha sản sinh trong bất cứ hoàn cảnh thông thường nào: nghe nhạc gợi cảm hoặc bất cứ sinh hoạt nào khác bám lấy anh. Nhưng Thiền còn hơn sự sản sinh ra các làn sóng alpha nhiều. Nếu anh trở nên nghiêm chỉnh dấn thân vào Thiền, anh sẽ kinh nghiệm một sự chuyển hóa và thanh tẩy toàn triệt toàn bộ con người anh.

 Người hỏi:

- Trong giờ giải lao tôi có nói chuyện với một môn sinh của lão sư về máy điều khiển tâm sinh lý. Anh ấy nói lão sư đã có kinh nghiệm lý thú với loại máy này. Lão sưvui lòng cho chúng nghe không?

 Lão sư [ngần ngừ]:

 - Chuyện xảy ra khá lâu rồi.

Người hỏi:

 - Chúng tôi không thể nghe được sao?

 Lão sư:

- Được rồi, chuyện ấy xảy ra tại một hội nghị quốc gia của Hội Tâm Lý Học Nhân Đạo ở Florida, tôi được mời tổ chức một cuộc hội thảo về Thiền. Một trong những môn sinh của tôi, một nhà tâm lý bệnh học, nói rằng anh ta có người bạn thân là một kỹ sư rất thích tôi trắc nghiệm chiếc máy điều khiển tâm sinh lý do anh bạn thiết kế vừa mới đưa ra thị trường. Vì thế chúng tôi đến một căn phòng riêng, ở đó đã có khoản mười hay mười lăm người đang chờ xem trắc nghiệm. Thiết bị nhỏ cỡ vừa bàn tay và bán, tôi nghĩ chừng hai trăm đô la. 

 Họ đeo chiếc đai da, có gắn những điện cực, quanh đầu tôi và gắn vào người tôi. Rồi họ đeo thêm ống nghe vào tai tôi. Tôi liền nghe tiếng, “bíp, bíp,” ban đầu thình lình, sau đó thấp đều. Tôi đi vào một trạng giống như nhập định, rồi kế đó tôi nghe giọng cảm thán, “Tại sao, ông ta đã ra khỏi máy! Trước đây chưa bao giờ xảy ra như vậy.” Sau khi tháo gỡ tôi ra, anh kỹ sư và những người phụ tá tỏ vẻ buồn bã, nói: “Hãy trở lại với bàn vẽ vậy!”

 Tôi do dự kể chuyện này bởi vì nghe có vẻ khoa trương, nhưng những gì xảy ra với tôi chẳng có gì phi thường--nó có thể xảy ra với bất cứ một hành giả thiền định nào có kinh nghiệm, và thực tế đã xảy với một người khác đã trắc nghiệm tôi.

 Người hỏi:

 - Lão sưcảm thấy thư thái không?

 Lão sư:

- Hẳn rồi, nhưng sau khi ngồi hai vài ba chục phút, ai chẳng cảm thấy như vậy? Với tọa thiền anh có thể đạt được thư thái và còn hơn xa nữa--mà chẳng phải tốn hai trăm đô la cho cái máy đồ chơi. Đồ chơi dành cho con nít chẳng phải cho người lớn!

 Người thứ hai nói:

- Tôi đọc ở đâu đó nói rằng sự phản xạ làn sóng não chỉ trong vài tuần hay một tháng sẽ mang lại kết quả tương tương đòi hỏi nhiều năm nỗ lực trong Thiền.

 Lão sư [cười]:

- Chắc là anh đùa chứ gì! Quả quyết rằng sự thức tỉnh tâm linhchuyển hóa nhân cách tất cả được hoàn tất --nói vắn tắt--một cách đơn giản là chỉ cần mang cái máy ấy vào thì thật là ngây thơ đến buồn cười. Dù cho mang vào một lúc có thể làm cho người ta dễ đi vào thư thái, cũng khó mà đem lại được yên tĩnh sâu xa hay an tâm lâu dài; nó không trả lời được những vấn đề nền tảng của tồn sinh; nó không chuyển hóa được cuộc sống con người; sự giác ngộ trong Thiền làm được tất cả.

 Cùng một cách thức ấy, một nhà tâm lý học đã chứng minh một cái máy điều khiển tâm sinh lý cỡ lớn chủ ý dùng cho những bệnh nhân được điều trị ở bệnh viện hoặc bệnh nằm liệt giường, giúp giảm huyết áp cao hoặc các chứng bệnh khác. Dường như đó là cách dùng có giá trị của máy điều khiển tâm sinh lý.

Có người gửi cho tôi một bài báo viết về các loại máy điều khiển tâm sinh lý dẫn lời bác sĩ Frederick Gibbs, thuộc viện Đại học Y khoa Illinois, nói rằng cái “cao” của máy điều khiển tâm sinh lý bằng sóng alpha là sự “thủ dâm trí não”--thực là một diễn đạt thích đáng. Một người đều đặn mang cái máy để được thư thái sẽ mất khả năng hành động bằng các nguồn năng lực sâu nhất của mình và thay vì làm chủ cái máy lại trở thành tên nô lệ của nó. Đấy không phải là Thiền. Thiền phát triển sự tự do, không phải phát triển sự tùy thuộc thần kinh loạn.

  (Thiền: Đông Tây Hợp Lưu)

 187. TÔI CÓ THỂ VỪA TU THIỀN VỪA LÀ MỘT TÍN ĐỒ DO THÁI GIÁO HAY KY-TÔ GIÁO TỐT KHÔNG?

 Có người hỏi lão sư kapkeau:

- Tôi là một tín đồ Do thái giáo và tôi hãnh diện điều đó. Tôi có thể vừa tu Thiền vừa là tín đồ Do thái giáo tốt không?

 Lão sư:

 - Trước khi làm tín đồ Do Thái giáo, anh là gì?

 Người hỏi:

 - Tôi không biết.

 Lão sư:

- Hãy tìm xem! Rồi anh sẽ thấy cái tính Do Thái trong tâm trí anh không còn cao tột nữa.

 Người hỏi:

- Tìm bằng cách nào?

 Lão sư:

- Hãy tự hỏi ngày đêm với khát vọng muốn biết và tin quyết rằng mình có thể biết. Hãy học sống theo cách con cá bơi, con chim bay - không biết có ta. Hãy tỉnh táo và nhạy bén. Cái gì tay phải tìm được thì tay trái cũng dự vào. Tránh những phán quyết không cần thiết. Hãy khiêm tốn và không võ đoán; chỉ đưa ý kiến khi nào có người hỏi. Hãy quên điều tốt mình làm và sám hối điều xấu. Phải luôn luôn liên hệ kết quả với nguyên nhân gây ra nó.

 Người hỏi:

- Là một tín đồ Do Thái, tôi thể làm tất cả những điều ấy không?

Lão sư:

 -Nếu anh làm được thì tốt. Nếu không. . .

 Có người khác hỏi:

 - Tôi có thể vừa tu Thiền vừa là một tín đồ Ky-tô giáo tốt không?

Lão sư:

- Nếu chỉ tu Thiền thì anh có thể, còn nếu tu Thiền Phật giáo thì không.

 Người hỏi:

 - Tại sao không?

Lão sư:

- Tu Thiền Phật giáo có nghĩa là vượt qua cái ta của anh, vượt qua cái ta có nghĩa là quên cái ta. Khi điều đó xảy ra, anh chẳng phải là tín đồ Ky-tô giáo tốt cũng chẳng một Phật tử Thiền tốt.

 Người hỏi:

 - Vậy tôi là cái gì?

 Lão sư:

 - Phải, vậy anh là cái gì?

  (Thiền: Đông Tây Hợp Lưu)

188. THẾ NÀO LÀ NGỘ?

 

 Có người hỏi lão sư Kapleau:

 - Ngộ là gì?

 Lão sư:

- Khi có người hỏi một Thiền sư, “Thế nào Phật pháp?” Sư đáp, “Tôi không hiểu Phật pháp.” Còn tôi, tôi không hiểu ngộ.

 Người hỏi:

 - Nếu lão sư không hiểu, ai hiểu?

 Lão sư:

-Sao anh không hỏi người nào nói, “Tôi ngộ rồi?”

  (Thiền: Đông Tây Hợp Lưu)

 189. LÃO SƯ ĐÃ NGỘ CHƯA?

 Có người hỏi lão sư Kapleau:

 - Lão sư đã ngộ chưa?

 Lão sư:

- Nếu tôi nói, “Tôi ngộ rồi,” trong các anh có người biết sẽ buồn nôn mà bỏ đi. Nếu tôi nói, “Tôi chưa ngộ,” trong các anh có người hiểu lầm sẽ thất vọng bỏ đi.

 Vậy . . .

(Thiền: Đông Tây Hợp Lưu)

190. NGỘ GIỐNG CÁI GÌ?

 Vào thời nhà Nguyễn, Đăng Long Hầu biên thơ sai người đem tới hòa thượng Thạch Liêm ở chùa Thiên Mụ (Huế), hỏi: “Thiền đạo là giống gì? Giác ngộ là lý làm sao?”

Sau đây là đoạn trích từ bức thư sư viết trả lời:

Đến như nói một chữ “ngộ” (biết, giác ngộ). Ví dụ: Như người kia có việc sinh tử tương quan đến người khác, hẹn nhau đến chỗ nào đó, thương lượng, mới có thể ổn thỏa được. Đương lúc mới mờ mờ sáng, ngủ dậy rửa mặt chải đầu, lấy bít tất mang vào, trong lúc bối rối cấp bách, mang bít tất vào một chân rồi, còn một chiếc nữa chưa thấy; bèn tìm khắp trong tủ rương, lục soát hết các gian buồng, dưới giường trên vách, không chỗ nào không tìm, tìm đâu cũng chẳng thấy; tức quá ngồi lại suy nghĩ. Nghĩ mãi nghĩ hoài, moi óc nghĩ đến chỗ sâu sắc, vẫn nghĩ chẳng ra. Bỗng cúi đầu ngó xuống, thấy hai chiếc tất mang vào một chân! Bèn lột ra mang qua chân khác và vô cùng khoan khoái. Mới biết chiếc tất ngay ở chân mình, biết (ngộ) thì cũng dễ dàng như thế. Cho nên người ta bảo rằng:

 Giày sắt bước mòn tìm chẳng thấy,

 Tìm ra chẳng phí chút công phu.

(Thiền Sư Việt Nam)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31788)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10567)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11287)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12815)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10863)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16764)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10861)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 23031)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12114)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11545)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10745)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12392)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11239)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10070)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10362)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11967)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10746)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12412)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9863)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11316)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13876)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9617)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12679)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9728)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10496)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10614)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10370)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9950)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11095)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12042)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10185)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10816)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9586)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9942)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8837)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9534)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14574)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8816)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12611)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10469)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9129)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10610)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9371)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8830)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10563)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9247)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8394)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12081)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9742)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10250)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10266)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19213)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9455)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 9027)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9609)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9033)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14810)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10127)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8402)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8983)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 9023)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8771)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9408)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14656)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9062)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8816)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9072)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10574)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8674)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 10039)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24375)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10220)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11077)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9052)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9515)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8035)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9314)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15415)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10380)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9608)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17494)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21507)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12206)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10267)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19334)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26122)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 8009)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14874)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10672)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11396)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9560)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18760)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12412)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11940)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10798)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13384)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10043)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9300)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9425)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15952)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant