Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Dudjom Rinpoche

21 Tháng Tư 201200:00(Xem: 33119)
Dudjom Rinpoche

DUDJOM RINPOCHE

dudjomrinpoche-1 

Kyabje Dudjom Rinpoche (1904 – 1987) – một trong các yogi, học giảđạo sư thiền định lỗi lạc của Tây Tạng. Ngài được công nhậnhóa thân của Đức Dudjom Lingpa (1835 – 1904), các hóa thân đời trước gồm có các đạo sư, yogi và học giả vĩ đại nhất như ngài Shariputra [Xá Lợi Phất], Saraha và Khye’u Chung Lotsawa. Được coi là Đại diện của Đức Liên Hoa Sinh, ngài là tác giả lớn và một người phát lộ “kho báu” (terma) được chôn giấu bởi ngài Liên Hoa Sinh. Là một tác giả lớn và một học giả cẩn thận, ngài Dudjom Rinpoche viết hơn 40 bản, trong đó nổi tiếng nhất là tác phẩm đồ sộ Những nguyên tắc và Lịch sử của truyền thống Nyingma.

Trong hơn 10 năm cuối đời, ngài giành rất nhiều thời gian để giảng dạy ở phương Tây, nơi ngài giúp đỡ thiết lập truyền thống Cổ Mật, thành lập các trung tâm lớn ở Pháp và Mỹ.

Đức Pháp vương Dudjom Rinpoche, Jigdral Yeshe Dorje, là một trong các bậc yogi, học giảđạo sư thiền định xuất chúng nhất của thời hiện đại, người đã đem đến sự kính phục cho những người đã gặp, mà còn là lòng sùng mộ và yêu mến sâu sắc. Sau cuộc bỏ chạy của những người Tây Tạng đến vùng lưu vong, chính Đức Dudjom Rinpoche là đạo sư đầu tiên phù hợp với chức vị Lãnh Đạo Tối Cao truyền thống Nyingma của Phật giáo Tây Tạng, truyền thống “cổ nhất” được đưa đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8 bởi Đức Đạo sư Liên Hoa Sinh.

Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh. Ngài được nhận rahóa thân của Đức Dudjom Lingpa (1835 – 1904), một vị terton nổi tiếng – người phát lộ những kho báu terma, đặc biệt là những terma liên quan đến thực hành Vajrakilaya. Đức Dudjom Lingpa đã có ý định viếng thăm miền Nam Tây Tạng để phát lộ vùng đất Pemako linh thiêng, nhưng bởi ngài không thể làm như vậy, ngài đã tiên đoán rằng người kế nhiệm sẽ sinh ra ở đó và phát lộ vùng đất.

Thời trẻ, Đức Dudjom Rinpoche đã học với các đạo sư vĩ đại nhất của thời đó. Ngài bắt đầu việc nghiên cứu với Khenpo Aten ở Pemako, trước khi tham gia vào một số học viện tu sĩ lớn ở miền trung Tây Tạng – như là Mindrolling, Dorje Drak và Tarje Tingpoling – và miền Đông Tây Tạng – như Kathok và Dzogchen. Nhưng chính Mindrolling là nơi ngài quay trở về để hoàn thiện kiến thức của ngài về truyền thống Nyingma. Nổi tiếng nhất trong các đạo sư của ngài là Đức Phungong Tulku Gyurme Ngedon Wangpo, Jedrung Trinle Jampa Jungne, Gyurme Phendei Ozer và Minling Dordzin Namdrol Gyatso.

Vùng hoạt động chính của Dudjom Rinpoche là miền trung Tây Tạng, nơi ngài duy trì truyền thống Mindrolling, và đặc biệt là ở Pema Choling và các trụ xứ khác của ngài ở Kongpo và Puwo ở miền Nam Tây Tạng. Ngài trở nên nổi tiếng khắp Tây Tạng với sự chứng ngộ tâm linh sâu sắc, cũng như trí tuệ vô song.

Rất đặc biệt khi nhận được trao truyền của toàn bộ các giáo lý đang tồn tại của truyền thống Nyingma rộng lớn, Dudjom Rinpoche đặc biệt nổi tiếng là một terton vĩ đại, với các terma được giảng dạy và thực hành rộng rãi hiện nay, và là đại diện tiêu biểu của Dzogchen, giáo lý tối thượng của Phật giáo Tây Tạng. Trên tất cả, ngài được coi là hiện thân của Đạo sư Liên Hoa Sinh và các đại diện của ngài trong thời điểm này. Một đạo sư của các đạo sư, ngài được công nhận bởi các đạo sư Tây Tạng xuất chúng trong thời đại của ngài là sở hữu sức mạnh và sự gia trì lớn lao nhất trong việc liên hệ với bản tánh của tâm, và các ngài thường giới thiệu đệ tử đến Rinpoche khi chuẩn bị cho sự trao truyền “tâm trực tiếp.” Trên thực tế, Dudjom Rinpoche là bậc đạo sư gốc của rất nhiều các vị thầy xuất chúng nhất hiện nay.

 dudjomrinpoche-2-content

Ngài còn rất nổi tiếng là một tác giảhọc giả cẩn thận. Các trước tác của ngài nổi tiếngkiến thức rộng lớn mà chúng hiển bày với mọi truyền thống khác nhau của việc nghiên cứu Phật giáo, bao gồm cả thơ, lịch sử, dược, chiêm tinh và triết học. Một tác giả của các bài thơ đầy cảm xúc với vẻ đẹp hấp dẫn, ngài có trí tuệ đặc biệt trong việc diễn tả ý nghĩa và sự chứng ngộ Dzogchen với sự minh triết tuyệt vời như pha lê.

Trong số các tác phẩm được đọc nhiều nhất, có cuốn Truyền thống Nyingma của Phật giáo Tây Tạng, Những nguyên tắc cơ bản và Lịch sử, được ngài biên soạn ngay sau khi đến Ấn Độ tỵ nạn và đã được dịch sang tiếng Anh. Lịch sử đồ sộ của truyền thống Cổ Mật là tác phẩm lớn, lần đầu tiên giới thiệu một lượng tài liệu lớn về sự phát triển của Phật giáoTây Tạng và sẽ là một tác phẩm đáng tin cậy về chủ đề này.

Với lời thỉnh mời của Đức Đạt Lai Lạt Ma, ngài Dudjom Rinpoche cũng viết một cuốn về lịch sử Tây Tạng. Một công trình quan trọng khác là bản chỉnh sửa của rất nhiều các bản văn cũ và mới, bao gồm Giáo lý Kinh điển của truyền thống Nyingma (Nyingma Kama), một sự đầu tư lớn mà ngài bắt đầu ở tuổi 74. Thư viện riêng của ngài chứa đựng một bộ sưu tập lớn nhất các bản thảo và sách quý giá bên ngoài Tây Tạng.

Sau khi rời khỏi Tây Tạng, đầu tiên ngài định cư ở Kalimpong, Ấn Độ, và sau đó là Kathmandu, Nepal. Đã có thời điểm dường như có sự đe dọa về việc biến mất nền văn hóa, ngài đã đóng vai trò quan trọng trong việc phục hồi văn hóa Tây Tạng trong cộng đồng lưu vong, thông qua cả giáo lý và các trước tác. Ngài đã thành lập các cộng đồng hành giả quan trọng ở Ấn Độ và Nepal, như là Zangdok Palri ở Kalimoing, Dudal Rapten Ling ở Orissa và các tu viện ở Tsopema và Boudhanath. Ngài khuyến khích mạnh mẽ sự nghiên cứu truyền thống Nyingma ở Học viện Tây Tạng nghiên cứu cao cấp ở Sarnath, và tiếp tục giảng dạy theo truyền thống terma của riêng ngài, cũng như ban rất nhiều các quán đảnh và trao truyền quan trọng, bao gồm Nyingma Kama, Nyingma Tantra [Mật điển Nyingma] và Kho tàng Terma quý báu (Rinchen Terdzo).

Khi Dudjom Rinpoche 8 tuổi, ngài bắt đầu học cuốn Bodhicharyavatara [Nhập Bồ-đề hành luận] của ngài Shantideva với vị thầy của ngài, Đức Orgyen Chogyur Gyatso, một đệ tử của Đức Patrul Rinpoche. Khi các ngài hoàn thành chương đầu tiên, vị thầy cho ngài một vỏ ốc và bảo ngài thổi nó về bốn phương. Âm thanh đến phương Đông và Bắc khá ngắn, phương Nam dài và Tây thì còn dài hơn. Điều này ám chỉ đến nơi các hoạt động của ngài sẽ hiệu quả nhất sau đó. Kham, một tỉnh ở miền Đông Tây Tạng, là nơi sinh ra của đức Dudjom Lingpa, người đã hoạt động tích cực ở vùng đó. Ở miền Nam, trong khắp vùng Hi Mã Lạp Sơn ở Bhutan, Sikkim, Nepal, Ladakh, ngài Dudjom Rinpoche có hàng ngàn đệ tử; vào một dịp khi ngài ban các giáo lý ở Kathmandu, với ý định chỉ giành cho vài Lama, từ 25 đến 30 ngàn các đệ tử đã đến từ khắp Ấn Độ và vùng Hi Mã Lạp Sơn.

Trong mười năm cuối cùng, dù sức khỏe giảm dần theo thời gian, ngài vẫn giành nhiều thời gian cho việc giảng dạy ở phương Tây, nơi ngài đã thành công trong việc thiết lập truyền thống Nyingma với sự thích thú đang phát triển của những người ở đây. Ngài thành lập rất nhiều trung tập chính bao gồm, Dorje Nyingpo và Orgyen Samye Choling ở Pháp, Yeshe Nyingpo, Urgyen Cho Dzong và nhiều trung tâm khác ở Mỹ. Trong giai đoạn lịch sử này, ngài đã không ngừng ban các giáo lýquán đảnh, dưới sự chỉ dạy của ngài, rất nhiều học trò phương Tây đã bắt đầu nhập thất lâu dài. Dudjom Rinpoche đã đến châu Á, và ở Hồng Kông, ngài cũng có rất nhiều đệ tử, với một trung tâm phát triển nơi ngài đến thăm ba lần.

Vào các năm 1972, 1976 và 1979, ngài đến thăm Luân Đôn theo lời thình mời của Sogyal Rinpoche, người đã đi cùng ngài trong các chuyến viếng thăm châu Âu như là người thông dịch và thị giả. Năm 1979, ngài giành tháng Năm ở trung tâm Dzogchen Orgyen Choling ở miền Tây Bắc Luân Đôn, sau này trở thành Rigpa. Ngài ban các buổi Pháp thoại cộng đồng, các quán đảnhgiáo lýtrung tâm Luân Đôn và các chỉ dẫn Dzogchen đặc biệt cho các nhóm nhỏ. Chính trong thời điểm này, một bộ phim độc đáo dài 16 phút được làm về ngài khi giảng dạy thực hành thiền định.

Các năm sau đó, Đức Dudjom Rinpoche xây dựng một số trung tâm nhập thất mùa hè ở Urgyen Samye Cholong ở Pháp. Cuối cùng, “Kẻ lang thang, Dudjom”, như rất nhiều lần ngài dùng để nói về mình, đã định cư ở vùng Dordogne, Pháp và ở đây vào tháng Tám, 1984, ngài ban các giáo lý cộng đồng rộng lớn cuối cùng.

Không nghi ngờ gì, Đức Dudjom Rinpoche là một đạo sư hoàn toàn chứng ngộ, tuy nhiên, mỗi ngày ngài vẫn dạy trước lúc bình minh để thực hành; mỗi buổi sáng ngài cầu nguyện cho tất thảy những ai đã quy y với ngài và buổi tối ngài cầu nguyện cho những người đã khuất. Ngài không ngừng cầu nguyện cho tất cả những người đã gặp ngài, nghe ngài nói và có liên hệ với ngài hay thậm chí là nghĩ về ngài có thể thoát khỏi khổ đau. Ngài luôn làm cho mình có thể được tiếp cận bởi mọi người từ mọi giai cấp, và bất kỳ ai may mắn gặp ngài chắc chắn sẽ cảm động vì sự ấm áp, giản đơn và khướu hài hước của ngài, cũng như họ đều kính phục bởi sự hiện diện, trí tuệ sâu sắc và việc nghiên cứu rộng lớn của ngài.

 

Việt dịch: Hạnh Phúc – Nhóm Thuận Duyên.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11559)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13559)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14129)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10313)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10792)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11342)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11287)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11443)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10178)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9970)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10718)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11321)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42233)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10494)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11866)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10024)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10468)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10640)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45794)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32131)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11339)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10708)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11335)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10638)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13462)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12383)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11048)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10630)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12333)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11178)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11852)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29290)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9222)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10555)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10247)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10600)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10912)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10813)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32164)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27412)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17814)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11883)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12293)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10449)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11706)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10439)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10795)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28097)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10164)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10292)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10659)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10775)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11237)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10404)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10697)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11481)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18272)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10531)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12859)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11757)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29212)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28615)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28312)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13333)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22792)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13449)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11585)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13832)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25737)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26092)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22327)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14493)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12077)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11816)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11694)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11497)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33208)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31860)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12045)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39644)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22511)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11966)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14249)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13353)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14310)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12077)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10416)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11239)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13332)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34547)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12637)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12239)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13536)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12631)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12990)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16313)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11761)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27405)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28444)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 13433)
Phật là hoa sen, hoa sen là Phật. Khi Ngài sinh ra bước đi trên bảy đóa hoa senhình ảnh biểu đạt con đường đi đến thăng chứng qua bảy giai trình tu tập...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant