Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ánh sáng tháng Tư

03 Tháng Năm 201200:00(Xem: 21089)
Ánh sáng tháng Tư

anhsangthangtu-hanhchieu

Tháng Tư đi qua cuộc đời Đức Phậttrở thành lịch sử. Dòng thời gian tỏa sáng, cung thành Ca-tỳ-la-vệ tỏa sáng, trần gian tỏa sáng… Và tháng Tư lừng thơm những vòng hoa Giới Định Tuệ được kết nên từ công phu tu tập của chư Thánh đệ tử, dâng lên cúng dường mười phương Như Lai, gọi là chút báo đáp từ ân.

Tháng Tư vì thế là tháng vô cùng trọng đại của những người con Phật. Nhiều mùa hạ đi qua trong đời Thế Tônchúng Tăng, để lại những dấu ấn khó phai. Đó là công đức giáo hóa của Như Lai, là niềm vui tinh khiết, niềm khinh an lớn nhất của chư Tăng từ sự ứng dụng giáo pháp Phật dạy. Vâng lời Như Lai, tất cả chư Thánh đệ tử ở yên một chỗ trong ba tháng mùa mưa, nỗ lực thiền định, thành tựu Thánh quả, cứu mình cứu người ra khỏi trầm luân sanh tử. Tháng Tư trở thành tháng của ánh sáng giác ngộ, tháng của những mùa hạ ngạt ngào hương sen vươn lên từ đất bùn hôi tanh.

Năm ấy, mùa hạ thứ 9, Đức Phật cùng chư Tăng đi đến Kosambi, an cư tại tinh xá Ghositārāma. Māgandiyā vốn chờ đợi Thế Tôn ở đây từ trước. Bà hận Phật. Bởi vì Thế Tôn đã nói lên một sự thật, tuyệt sắc giai nhân cũng chỉ là đãy da hôi thối. Thứ hậu cho mướn côn đồ mắng chửi Đức Phật khi Ngài vào thành khất thực. Thế Tôn vui vẻ im lặng và bảy ngày sau mọi chuyện đều qua đi. Hùng lực của vô thinh đã khiến cho mọi âm thinh tan biến vào hư không. Diệu lực của từ tâm đã giúp cho những con người cùng khổ nhận ra được đâu là chốn nương về. Bằng tình thương, Thế Tôn đã hóa giải hận thù, đem niềm vui đến cho mọi người, dù người có biết hay không. 

Đức Phật tu tập thành tựu được nhất thiết trí, bỏ hết gánh nặng, bỏ cả lời khen tiếng chê. Phật mà còn bị miệng đời thị phi, huống là chúng ta? Cho nên đừng mong muốn quá phước lượng của mình. Chúng ta muốn nhẹ thì phải bỏ hết gánh nặng. Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái, thành thuyền pháp, đánh trống pháp, dựng cờ pháp. Muốn thành thuyền pháp, đánh trống pháp là phải nhổ tên tà và đoạn dứt khát ái. Bởi vì chính ái dụcnguyên nhân dẫn chúng sanh đi trong luân hồi sanh tử, do đó Phật bảo người xuất gia giữ giới trọng nhất là giới dục. Hàng cư sĩ tại gia có thể thư thả qua lại trong ba đường lành, đừng đi ba đường dữ, còn người xuất gia nhất định phải dứt khát ái.

Chữ “ái” trong nhà Phật gồm luôn cả hai nghĩa thương và ghét. Lục Tổ nói: “Tắng ái bất quan hoài, trường thân lưỡng cước ngọa”, nghĩa là “Thương ghét đừng để lòng, duỗi thẳng hai chân ngủ”. Chúng ta muốn khỏe thì đừng để lòng chuyện thương ghét, được mất, hơn thua. Biết khổ, muốn ra mà chưa ra nổi còn có thể tha thứ, biết khổ mà vẫn không chịu ra mới là kỳ! Cho nên ngài Triệu Châu nói chúng sanh “biết mà cố phạm”. Nghiệp lực chúng ta mạnh quá cho nên không đủ sức thắng. Biết đối đãinguyên nhân dẫn chúng sanh đi trong luân hồi sanh tử nhưng lúc nào chúng ta cũng sống trong đối đãi. Nên nói chúng sanh không ngăn lấp đường tà, không mở đường chánh, còn Đức Phật và các vị Bồ-tát thắng được nghiệp lực, làm chủ thân tâm, tự do tự tại nên lìa các nghiệp ác, thành tựu vô lượng phước đức.

Đức Thế Tôn suốt 49 ngày đêm ngồi dưới cội bồ-đề, đêm cuối cùng là lúc quyết định. Thời gian ấy so với một đời người thật là ngắn. Thế mà Thế Tôn đã hoàn thành đại nguyện viên mãn, thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thật ra không phải Đức Phật chỉ tu một đời này, mà đã nhiều đời nên bây giờ mới đạt đạo quả nhanh chóng như vậy. Có thể chúng ta cũng đã tu nhiều đời, tuy nhiên mình tu không nghiêm túc như Đức Phật. Một quãng nào đó bỏ tu đi chơi, quậy phá người ta nên bây giờ bị quậy phá lại. Tuy nhiên sự rong chơi nào cũng chỉ tạm thời thôi, rồi ta cũng trở về nhà, trở về nguyên bản gốc của mình. Gốc của mình là gốc Phật. Cho nên chúng ta hãy tự vui lên, tự quyết định đời mình. Mê là chúng sanh, ngộ là Phật.

Trong kinh Pháp hoa, phẩm Đề Bà Đạt Đagiai thoại Long nữ dâng châu thành Phật như thế này: Ngài Xá Lợi Phất không tin Long nữ có khả năng thành Phật, vì Long nữ là rồng cái. Rồng thuộc về súc sanhnữ giới có năm điều chướng: Một chẳng được làm Phạm Thiên vương, hai chẳng được làm Đế Thích, ba chẳng được làm Ma vương, bốn chẳng được làm Chuyển luân Thánh vương, năm chẳng được làm Phật. Thế mà Long nữ lại tuyên bố với Xá Lợi Phất tôi có thể thành Phậtthành Phật rất mau nữa là khác. Khi Long nữ dâng hạt châu lên Đức Phật, Đức Phật nhận hạt châu. Long nữ hỏi Xá Lợi Phất rằng:

- Tôi hiến châu báu, Đức Thế Tôn nạp thọ, việc đó có mau chăng?

Đáp:

- Rất mau.

Long nữ nói:

- Lấy sức thần của các Ngài xem, tôi thành Phật lại mau hơn việc đó.

Nói xong, Long nữ chuyển nữ thành nam, liền bay qua nước Vô Cấu ở phương Nam, ngồi tòa sen báu thành bậc Đẳng Chánh Giác.

Có khi nào chuyện Long nữ thành Phật không phải chờ bay qua nước Vô Cấu, vì như vậy cũng mất một vòng, chưa thể gọi là “rất mau”. Lúc dâng hạt châu Phật nhận, ngay khi đó đã xong hết rồi. Có thể vì giải nghi cho Tôn giả Xá Lợi Phất trên tướng nam nữ không thể thành Phật, nên buộc lòng Long nữ phải bay qua nước Vô Cấu chuyển thân nam thành Phật. Một vòng như vậy cũng là phương tiện mà thôi. Đi một vòng để thấy được diệu dụng của một chúng sanh khi đã thành tựu Vô thượng Bồ-đề, trong sạch làu làu, không chút bợn nhơ (vô cấu). Bấy giờ muốn hiện nam thì hiện nam, cần hiện nữ thì hiện nữ, chứ việc thành Phật đâu có tướng nam nữ.

Chuyện ấy chẳng lẽ bậc đại trí như Tôn giả Xá Lợi Phất không biết sao? Không phải. Tôn giả thị hiện vấn nạn như thế để răn nhắc những chúng sanh nghiệp chướng còn nhiều phải thận trọng, nhất là trong công phu tu hành. Người nữ nếu không khéo tu thì sẽ bị chính nghiệp chướng của mình làm trở ngại con đường tiến đạo. Công phu chưa tới nơi mà lòng đã tự mãn tự đại là một điều tối kỵ đối với hành giả tu Phật. Kẹt ở nạn này thì khó thành tựu được giác ngộ giải thoát. Vì vậy thánh nhân thường đưa ra những lý do khiến người nữ khó thành Phật, để giúp nữ nhân bỏ đi những tập khí nhỏ nhen chấp chặt của mình, mở rộng tâm lượng trượng phu. Tâm lượng trượng phu không phải là của nam hay nữ, mà là tâm lượng rộng lớn. Nhưng vì người nữ thường hay mang tâm lượng ích kỷ hẹp hòi nên các ngài phá tâm ấy.

Khả năng giác ngộ của chúng sanh bình đẳng, nhưng vì nghiệp lực sai biệt nên kết quả cũng sai biệt. Do đó Phật đưa ra nhiều pháp môn tu tập, tùy căn cơchúng sanh chọn pháp tu thích hợp để đạt được kết quả tốt đẹp nhất. Song dù tu bất cứ pháp môn nào, đạo Phật cũng lấy trí tuệ làm gốc. Bởi vì nó là thứ vũ khí sắc bén nhất. Tuy nhiên kiếm dù bén đến đâu mà không chịu dùng, không bao giờ cầm tới thì có khác gì thanh thép lụt. Gươm trí tuệ cầm rồi cũng không chịu chém thì chặt đứt được cái gì? Học pháp, hiểu pháp mà không ứng dụng pháp vào trong cuộc sống thì học để làm chi? Cho nên bắt buộc người tu phải thường xuyên dùng trí tuệ quán chiếu.

Nhờ trí tuệ mà ta buông tất cả để được an lạc. Trí tuệ chiếu soi tới đâu, bóng tối si mê tan tới đó. Có siêng năng dùng trí tuệ quán chiếu thì phiền não nghiệp chướng mới lui tan. Nếu chúng ta không siêng, tuy học pháp, hiểu Phật, nhưng năng lực công phu không có. Gặp cảnh chạy theo cảnh quên tâm, như vậy hiểu mà không có lợi ích, không thể gọi là người trí tuệ. Phật dạy không buông lung, tức là siêng năng tỉnh giác. Nếu thường tỉnh là rút ngắn thời gian trôi giạt trong sanh tử. Ngay khi không phiền não, tâm bình an như nhiên, thấy được vậy là thấy Phật.

Và như thế những tháng Tư đi qua cuộc đời Phật lịch sử là những tháng Tư đi qua cuộc đời của chúng ta. Ánh sáng tỏa chiếu chan hòa, cả trần gian là tòa Kim cương báu, cung đón vô lượng vô lượng đấng Như Lai cùng nhau xuống trần.

Hạnh Chiếu
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25659)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37875)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19595)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18672)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14261)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20104)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9506)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14377)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35570)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10655)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19706)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23204)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13362)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10747)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20226)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10606)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9969)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14879)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17658)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17606)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13191)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31170)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25764)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13982)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17509)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10979)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12295)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10472)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12274)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11760)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9615)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12356)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9199)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8495)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9962)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9758)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12037)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14423)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9904)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11207)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8297)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10969)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14088)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9907)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15207)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13040)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23079)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23990)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12574)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15429)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17790)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15056)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16558)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16092)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17642)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11596)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11622)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17829)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10782)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10521)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11322)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12086)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11049)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36419)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8961)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9679)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34716)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17268)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10244)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10472)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12199)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13636)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14673)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9150)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24808)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11639)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10316)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15945)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15576)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14519)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13004)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12451)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14580)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18360)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9572)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18522)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18589)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19021)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18835)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11831)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13346)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47991)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11067)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13550)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13040)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11062)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12555)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11052)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31776)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11671)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant