Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đoạn 4

04 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 8176)
Đoạn 4

TRUYỀN TÂM PHÁP YẾU GIẢNG GIẢI

HT Thích Thanh Từ

ĐOẠN 4

CHÁNH VĂN:

Phàm nhân khi sắp mạng chung chỉ quán năm uẩn đều không, bốn đại vô ngã, chân tâm không tướng, chẳng đi chẳng đến, khi sanh tánh cũng chẳng đến, khi tử tánh cũng chẳng đi, yên lặng tròn bặt, tâm cảnh nhất như. Chỉ hay quán như thế liền đó chóng liễu ngộ, chẳng bị ba đời ràng buộc bèn là người xuất thế.

GIẢNG:

Người tu thiền khi sắp lâm chung phải làm sao? Ngài dạy chỉ quán năm uẩn đều không, bốn đại vô ngã như trong kinh Bát-nhã.

Chân tâm không tướng, chẳng đi chẳng đến, khi sanh tánh cũng chẳng đến, khi tử tánh cũng chẳng đi, yên lặng tròn bặt, tâm cảnh nhất như. Nói rằng quán năm uẩn đều không, bốn đại vô ngã điều này nhiều người quán được. Nhưng tới chân tâm không tướng, chẳng đi chẳng đến làm sao biết? Đã không biết vì sao nói chân tâm không tướng, chẳng đi chẳng đến, khi sanh tánh cũng chẳng đến, khi tử tánh cũng chẳng đi? Không biết mìnhchân tâmbảo quán chân tâm làm sao quán? Đó là một vấn đề.

Ai cũng nói có chân tâm, mà nó hiện lúc nào ra sao lại không biết. Khi đọc kinh sách tưởng như mình hiểu, thật ra chỉ hiểu trên danh từ thôi, chớ thực chất chưa nắm được. Quí vị muốn thấy chân tâm thì phải dùng trí tuệ sẵn có muôn đời của mình mà nhận. Thường mọi người luôn lấy ý thức sanh diệt làm tâm mình. Như vậy tất cả nghĩ phải nghĩ quấy, nghĩ hơn nghĩ thua, nghĩ tốt nghĩ xấu v.v… đều cho là tâm mình. Người nào nghĩ khéo, nghĩ trúng thì khen tâm họ sáng, ai nghĩ trật nghĩ sai thì nói tâm họ mù mịt, đần độn quá.

Trăm người như một đều nhận suy nghĩ phân biệt đối đãi làm tâm mình, không biết đó là tâm động, tâm sanh diệt. Nó đâu có nghĩ hoài một việc mà thay đổi luôn luôn. Nó là động, là sanh diệtchúng ta nhận là tâm mình, nhận thân tứ đại sanh diệt làm thân mình thì đang sống với cái gì? Sống với cái tạm bợ, hư dối sanh diệt. Đã lấy tạm bợ hư dối sanh diệt là mình, thì cái này hoại bám cái khác, cái khác hoại bám cái khác nữa, liên tục cho nên tiếp tục trong vòng sanh tử không cùng tận. Đó là nỗi khổ của chúng sanh, cứ như vậy triền miên sanh tử kiếp kiếp đời đời, không dừng được. Cho nên đức Phật hết sức thương xót.

Ngày nay chúng ta tu muốn thoát ly sanh tử, mà cứ bám vào thân tâm sanh diệt ấy, làm sao thoát ly được. Như người muốn qua sông lớn mà nương chiếc xuồng lủng, chiếc ghe bể thì sao? Thì chết chìm. Muốn qua sông lớn ít ra cũng có thuyền chắc hay tàu lớn, cái không bền chắc mà dùng vượt sông biển thì không thế nào được. Tu hành cũng vậy, chúng ta phải biết cái gì là chân tâm, cái gì là vọng tâm hư dối. Nắm vững để chúng ta không bị kẹt trong tướng sanh diệt, mà nhận lấy cái bất sanh bất diệt, nhà Phật gọi là Niết-bàn. Chân tâm là nhân của Niết-bàn sẵn có nơi mỗi người, mà không ai chịu nhận. Thật đáng tiếc.

Lục Tổ hỏi ngài Huệ Minh: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?” Đó là Ngài đã chỉ chân tâm cho Thượng tọa Minh rồi. Chúng ta cứ nói tâm chân, tâm vọng mà hỏi tâm là gì cũng không biết, cứ cho suy nghĩ hai bên là tâm. Sự thật ngài Khuê Phong định nghĩa rõ ràng “Tâm là cái biết”. Cái biết nào thuộc về hư dối sanh diệt gọi là biết vọng. Cái biết không sanh không diệt là biết chân. Cái biết nghĩ phải nghĩ quấy, nghĩ hơn nghĩ thua là cái biết sanh diệt. Không dùng cái biết sanh diệt, mình vẫn biết đó là chân.

chúng ta không gan dạ, không dám nhìn thẳng để nhận ra cái thật, cứ chạy theo những dấy nghĩ cho là tâm mình nên quên mất cái thường biết lặng lẽ. Như vậy có tủi không? Chúng ta quả tang là chàng bất hiếu cùng tử, ông cha sung sướng giàu có mà bỏ chạy tha hương, tới chừng thức tỉnh mới tìm trở về. Đâu phải cha đuổi mà chính mình bỏ nhà đi hoang. Cũng thế, chân tâm hiện giờ ai cũng có, mà không chịu nhận. Vì vậy chúng ta ngồi thiền để dừng nghĩ phải, nghĩ quấy, dừng vọng tâm. Vọng tâm dừng lúc đó chân tâm hiện ra. Biết tất cả đó là tâm, mà không động.

Các vị Tổ hồi xưa nói “đêm đêm ôm Phật ngủ”, ôm ông Phật ngủ mà không nhớ Phật, lại gác tay gác chân đè Phật, “ngày ngày cùng Phật đi”, mà không thèm ngó ngàng tới Phật, toàn là ngó theo chúng sanh. Thấy cây dù xanh lo nhìn cây dù xanh, thấy chậu hoa đỏ lo nhìn chậu hoa đỏ, cứ phân biệt theo cảnh bên ngoài, không nhớ mình có ông Phật đang đi theo đây. Bởi vậy đi đứng nằm ngồi không rời chân tâm, mà chúng ta lại không bao giờ nhận nó, cứ nhận cảnh vật bên ngoài, trách gì không luân hồi muôn kiếp. Bây giờ muốn dừng luân hồi phải nhớ mình có tâm chân thật. Đó là cái không nghĩ suy tính toán, lặng lẽ thường biết hiện tiền. Diễn tả nó làm sao? Nó không là gì hết, vì không có hình dáng. Có hình dáng là tướng vô thường sanh diệt. Nó không phải vô thường sanh diệt nên không hình dáng mà hằng tri hằng giác.

Mỗi ngày chúng ta ngồi thiền là để sống lại với tâm thật của mình, không tìm cầu bên ngoài. Nhưng khổ nỗi nhiều người ngồi thiền mong thấy hào quang, mà không biết chính tâm lăng xăng loạn tưởng dừng, luôn luôn tỉnh sáng, đó là tâm chân thật hiện tiền. Cho nên nói ôm tâm chờ ngộ là sai. Có gì đâu phải chờ, chỉ cho bọn giặc lặng xuống, đừng rối loạn lăng xăng nữa thì cái thật hiện ra. Thiền sư lúc sống với đạo thường như ngu như ngây, khờ khạo. Khờ khạo với lanh lợi phân biệt, nhưng biết thấu tột cả vũ trụ nhân sinh, thấy tường tận cội gốc của nó. Còn chúng ta ngày nay lanh lợi quá, chỉ biết chuyện hơn thua phải quấy thôi, nên tu hoài vẫn không hết vô minh phiền não.

Chúng sanh quá khờ dại, những chuyện không có quyền can thiệp, không có quyền xử sự mà cứ muốn biết, còn cái thật đang sống với mình lại bỏ qua, đáng thương không? Vì vậy chư Phật Bồ-tát thị hiện ra đời là vì chúng sanh, muốn độ chúng thoát ly sanh tử. Thoát ly sanh tử không phải thân này, không phải tâm hơn thua phải quấy. Thoát ly sanh tửnhận ra cái chân thật mà mình bỏ quên nên cứ trầm luân mãi. Phật thương nhắc đi nhắc lại không biết bao nhiêu kinh điển, mà nào có mấy người hưởng ứng? Như tôi nói pháp mười năm nữa cũng vậy thôi. Nói qua rồi quí vị quên, chỉ nhớ chuyện bên Tây bên Tàu, chớ không nhớ mình có ông Phật chân thật ngay đây. Tu như vậy tới gần chết quýnh lên không biết mình ra sao? Tại vì cứ bám vào thân sanh diệt, tâm sanh diệt cho là mình, tới khi nó sắp hoại mất thì sợ sệt hoảng hốt. Còn biết mình sẵn tâm chân thật rồi thì thân tạm bợ này hoại diệt có sao đâu, việc gì phải khổ.

Cho nên các Thiền sư cười trước khi chết, vì thấy thân là đồ bỏ không đáng giá chi, tạm mượn nó sống tu. Bây giờ hết duyên thì đi, các ngài xem nhẹ sự sống chết như thế. Chúng sanh ngược lại, cho thân là thật nên một lần mất nó là một lần đau khổ vô cùng. Chẳng những đau khổ vì mất nó, mà đau khổ không biết sẽ đi đâu. Tổ Qui Sơn nói: “Đường trước mờ mờ chưa biết về đâu?” Vì vậy chúng ta học đạo cốt để tu, đừng phụ bạc ông chủ mình nữa. Người nào đừng để tâm chạy ngược chạy xuôi, dừng nghỉ hết lăng xăng, tỉnh táo vui vẻ đó là người sống với chân tâm. Được như vậy người đó khi nhắm mắt đi với cái không sanh diệt tức là nhập Niết-bàn. Ngược lại cứ sống với phải quấy hơn thua thương ghét, thì đi với tâm sanh diệt tạo nghiệp, dẫn trong sáu nẻo luân hồi.

Bây giờ quí vị biết quán chân tâm là sao chưa? Quán chân tâm là biết rõ tất cả niệm khởi thuộc tướng sanh diệt, cái hằng giác hằng tri không dấy động là mình. Cứ nhớ bao nhiêu đó thì sống với ông chủ, ra đi tự tại, thảnh thơi biết mấy. Tổ bảo khi sắp mạng chung chỉ quán năm uẩn không thật, bốn đại vô ngã. Cái hằng tri giác không sanh không diệt nên khi sanh tánh nó không đến, khi tử tánh nó không đi, yên lặng tròn bặt, tâm cảnh nhất như.

Người nào quán được như vậy thì liền chóng liễu ngộ, chẳng bị ba đời ràng buộc, bèn là người xuất thế. Bao nhiêu kinh điển đều chỉ một đoạn này, người thấy được đường tu thì rất gần. Nếu người còn đa mang tâm sanh diệt, luyến tiếc tướng tứ đại thì đi theo chiều sanh diệt. Còn người biết những thứ đó hư giả, chỉ nhớ tâm hiện tiền hằng tri giác bất sanh bất diệt của mình, đó là người xuất thế tức giải thoát vậy.

CHÁNH VĂN:

Dù người không được ít phần thú hướng, nếu thấy tướng lành, chư Phật đến đón và các thứ hiện trước cũng không khởi tâm đi theo; nếu thấy tướng dữ và các thứ hiện trước cũng không sanh tâm kinh sợ; chỉ tự quên tâm đồng với pháp giới liền được tự tại, đây tức là điều thiết yếu vậy.

GIẢNG:

Chỗ này rất khó. Ai nhắm mắt gần chết, thấy Phật đến đón mà không mừng. Hầu như người tu nào cũng mơ ước được Phật đón. Nhưng ở đây dạy nếu thấy tướng lành chư Phật đến đón và các thứ hiện trước cũng không khởi tâm đi theo. Phật rước cũng không đi. Tại sao vậy? Vì muốn ra khỏi sanh tử nên không đi theo các tướng trạng bên ngoài, dù đó là tướng Phật. Nếu theo Phật cũng còn sanh trong hoa sen. Muốn đi thẳng tới chỗ vô sanh, thì không theo ai kể cả Phật, huống nữa là Thánh Thần hay những người thân yêu.

Các thứ hiện trước cũng không khởi tâm đi theo, các thứ hiện trước là thân tộc bà con, anh em cha mẹ đón cũng không đi. Điều này khó số một. Đa số quí vị thấy bà con thân tộc là mừng rỡ, nói gì đến đón mình. Cho nên nếu không khéo tu, lúc sắp mất đi theo những hình ảnh này là tiếp tục thọ thân sau, có khi ma quỉ giả hình, dẫn người chết đi vào cảnh giới của chúng, chịu khổ không thể lường.

Đến khó số hai. Nếu thấy tướng dữ và các thứ hiện trước cũng không sanh tâm kinh sợ. Thấy những tướng dữ tức như thấy cọp rượt, cá sấu đuổi v.v… cũng không sợ. Tóm lại thấy tướng lành không theo, thấy tướng dữ không sợ.

Chỉ tự quên tâm đồng với pháp giới liền được tự tại, đây tức là thiết yếu vậy. Quên tâm là quên tâm sanh diệt, tâm thương, tâm ghét. Nếu còn tâm ấy thì thấy thân nhân tới đón mừng nên đi theo, tâm sợ thì thấy quỉ sứ dọa nạt, chúng chỉ đâu liền hoảng sợ chạy theo đường đó. Thấy đồng pháp giới tức trùm khắp, bất sanh bất diệt liền được tự tại. Đây là thiết yếu, tức điểm then chốt của sự tu hành. Đó là những điều người tu phải biết, mới không sợ khi nhắm mắt bị rơi vào đường tà. Như vậy cả hai thứ, vui theo tướng lành thì sanh cõi lành, sợ tướng dữ chạy trốn thì bị sanh chỗ dữ, đều đi trong con đường sanh tử. Chỉ nhớ tâm thênh thang không hình không tướng, không sanh không diệt, không sợ hãi, luôn tỉnh táo sáng suốt thì giải thoát an vui.

CHÁNH VĂN:

Nói Hoá thành đó, Nhị thừaThập địa, Đẳng giác, Diệu giác, đều là giáo quyền lập để tiếp dẫn, thảy là Hoá thành.

GIẢNG:

Đây dẫn kinh Pháp Hoa, nói Hoá thành là chỉ cho Nhị thừa, Thập địa, Đẳng giác, Diệu giác, đi từng bậc từng bậc đều là giáo quyền lập. Giáo quyền lập là giáo lý tạm lập để tiếp dẫn người, có thứ bậc cho dễ đi, dễ tiến vậy thôi. Như Bộ Giáo Dục muốn thúc đẩy học sinh học cho giỏi nên mỗi năm tổ chức thi lên cấp. Từ cấp Tiểu học lên Trung học, Đại học rồi Tiến sĩ gì gì đó, ấy là thật lập hay quyền lập? Quyền lập như thế để đo sự hiểu biết của chúng ta qua những năm học, lập ra thứ bậc để thúc đẩy nhắc nhở sự tiến bộ trong học vấn, mục đích vì muốn chúng ta biết sâu hiểu rộng, làm lợi ích cho mọi người. Đó là mục đích phương tiện lập có thứ bậc.

Cũng vậy đạo Phật muốn dạy chúng sanh tu hành để được giác ngộ thành Phật. Giác ngộ thành Phật là thế nào? Là trở lại sống thật với tâm bất sanh bất diệt hằng tri hằng giác của mình, gọi là chân tâm hay Phật tánh. Sống được với chân tâm là bước vào cảnh giới chư Phật. Nhưng nói sống với chân tâm Phật tánh, người ta nghe cao xa quá, nên Phật dạy tu hạnh này được quả bậc Thanh văn, tu hạnh này được quả bậc Duyên giác, rồi giác được phần nào là Bồ-tát Sơ địa, Bồ-tát Nhị địa v.v… tới cuối cùng cũng trở lại chân tâm Phật tánh. Như vậy giáo lý đó là phương tiện quyền lập, còn chỗ chân thật không hai. Hiểu như vậy chúng ta mới thấy trong kinh Pháp Hoa nói Hoá thành là phương tiện quyền lập, nói Bảo sở là chỉ chân tâm Phật tánh. Chỗ đó không đối đãi nên nói không Phật, không chúng sanh, không còn tình lượng, không còn kiến lập. Nói Bảo sở là chỗ quí báu, tức chỉ thẳng chân tâm Phật tánh.

CHÁNH VĂN:

Nói Bảo sở đó là bảo chân tâm, bản Phật, tự tánh, cái bảo này không thuộc về tình lượng, không thể kiến lập, không Phật, không chúng sanh, không năng không sở, chỗ nào có thành? Nếu hỏi: đây đã là Hoá thành, chỗ nào là Bảo sở? Bảo sở không thể chỉ, chỉ tức có chỗ nơi, không phải là chân Bảo sở. Cho nên nói “ở gần” mà thôi. Không thể định lượng nơi đó, chỉ chính đây khế hội là phải.

GIẢNG:

Hỏi Bảo sở chỗ nào Phật nói “ở gần”, các Thiền sư nói ở dưới gót chân ông. Chữ Hoá thành trong kinh Pháp Hoa là chỉ cho tu hành có thứ bậc từ thấp lên cao, còn Bảo sởchỉ thẳng cho chúng ta biết cái thật nằm ngay nơi mỗi người, không ở đâu xa. Chúng ta tu là để trở về cái thật của mình, đây là con đường gần nhất. Nếu đi thứ bậc thì hơi xa, hơi quanh co. Bởi vậy chỗ thật này chỉ khéo khế hội là được.

CHÁNH VĂN:

Nói xiển đề đó, lòng tin không đủ vậy. Tất cả chúng sanh trong sáu đạo cho đến Nhị thừa không tin có Phật quả, đều gọi là đoạn thiện căn xiển-đề. Bồ-tát đó, tin sâu có Phật pháp không thấy có đại thừa, tiểu thừa. Phật cùng chúng sanh đồng một pháp tánh gọi là thiện căn xiển-đề.

GIẢNG:

Chữ “xiển-đề” là tiếng Phạn, nghĩa là người không đủ lòng tin. Không đủ lòng tin thế nào? Như những chúng sanh đi trong lục đạo luân hồi không đủ lòng tin mình có tánh Phật, cho tới hàng Nhị thừa không tin có Phật quả. Các ngài tu chứng Diệt tận định là nhập Niết-bàn, không nói lên Phật quả, cho nên những hạng này gọi là đoạn thiện căn xiển-đề, tức do không tin làm mất căn lành. Còn Bồ-tát tin sâu Phật pháp, không thấy có Tiểu thừa, Đại thừa riêng, thấy tất cả chúng sanh đồng có tánh Phật, đồng một pháp tánh gọi đó là thiện căn xiển-đề, nghĩa là không tin mà không tin do có căn lành.

CHÁNH VĂN:

Đại để, nhân nghe giáo mà ngộ gọi là Thanh văn, quán nhân duyên mà ngộ gọi là Duyên giác. Nếu không hướng trong tâm mình mà ngộ, tuy đến thành Phật cũng gọi là Phật Thanh văn. Người học đạo phần nhiều đối trên giáo pháp mà ngộ, không ở trên tâm pháp mà ngộ, tuy trải nhiều kiếp tu hành trọn không phải là bổn Phật. Nếu không nơi tâm mà ngộ, chỉ đối trên giáo pháp mà ngộ tức là khinh tâm trọng giáo, bèn thành theo khối (theo hình tướng) mà quên bản tâm. Cho nên chỉ khế hội bản tâm, chẳng cần cầu pháp, tâm tức là pháp vậy.

GIẢNG:

Chúng ta tu có hai cách. Một là y nơi pháp của Phật dạy, nghe quán chiếu rồi tu, gọi đó là Thanh văn. Thấy các pháp duyên sanh quán chiếu mà tu, gọi đó là Duyên giác. Nhưng nếu chỉ nương theo pháp của Phật dạy tu mà không nhận ra tâm mình, gọi đó là quên tâm cầu Phật, hay quên tâm phápchạy theo giáo pháp. Tu như vậy không thấy được ông Phật gốc của mình. Nếu không nơi tâm ngộ, chỉ đối trên giáo pháp ngộ tức là “khinh tâm trọng giáo”. Người khinh tâm trọng giáo là chạy theo hình tướng, quên mất bản tâm.

Cho nên chỉ khế hội bản tâm, chẳng cần cầu pháp, tâm tức là pháp vậy. Ai nhận được bản tâm, người đó trở lại gốc ngay nơi mình, không chạy ra ngoài. Đa số chúng ta ngày nay tu theo pháp, ít nhận tâm, vì vậy có lỗi khinh tâm trọng pháp. Mà pháp của Phật nói cốt chỉ cái gì? Chỉ tâm. Bây giờ mình trọng pháp quên tâm tức là chạy theo ngọn mà quên gốc.

Bao nhiêu kinh điển đức Phật dạy đều chỉ cho chúng ta nhận ra bản tâm là tánh giác hằng hữu của mình, từ đó tu mới thành Phật. Chúng ta không chịu nhận, chỉ chạy theo kinh điển học hết bộ này tới bộ nọ, khen bộ này hay bộ kia đặc biệt v.v… mà không biết tất cả bộ đều chỉ tâm của mình. Không nhận tâm lại đi nhận pháp, như vậy là khinh tâm trọng pháp. Trong kinh Phật dụ pháp như ngón tay chỉ mặt trăng. Mặt trăng là gì? Là chân tâm. Vì muốn chúng sanh nhận ra chân tâm nên Phật dạy giáo pháp, chúng sanh nương pháp để nhận. Bây giờ mình lại kẹt pháp không nhận ra tâm giống như người chỉ mặt trăng hướng tây, chúng ta không chịu ngó hướng tây để thấy mặt trăng, lại nhận đầu ngón tay, hài lòng với đầu ngón tay, cho đó là mặt trăng.

Người tu ngày nay giống hệt như vậy, thích tụng kinh, tụng bộ này qua bộ kia, như vậy là tu rồi đó. Phật dạy chúng ta tu để trở về tâm, không chịu trở về tâm cứ lấy kinh đọc hoài, không khác người muốn thấy mặt trăng mà chỉ quí ngón tay, không nhìn đúng mặt trăng. Tu như vậy chừng nào thành Phật? Nói thẳng mếch lòng, mà không nói thì tội nghiệp. Gốc ở chỗ đó mà không chịu nhìn, chỉ bám ngọn ngành, phương tiện làm sao tu hành đến nơi đến chốn được.

Phật dạy cho mình nhận ra bản tâm để không còn chấp thân này là thật ngã, tâm chạy theo bóng dáng sáu trần là thật tâm. Nhờ không chấp thân, chấp tâm mới trở về với thể thật sẵn có. Bây giờ cứ đọc hoài, nhưng hỏi kinh dạy gì thì không biết. Chỉ biết tụng kinh có phước vậy thôi, chớ không biết mìnhcùng tử đã bỏ cha đi, bây giờ còn lang thang chưa nhận được cha già. Ông cha là chỉ tánh giác hằng hữu của mình. Quên tánh giác chạy theo sáu trầncùng tử nên khổ sở nghèo nàn. Khi hối hận trở về tìm cha, về tới nhà rồi cũng không dám nhận cha nữa. Cũng thế, chúng ta tu pháp gì nhỏ nhỏ lần lên, chớ không dám đi thẳng. Đó là diễn đạt người mê quên mình theo cảnh vật. Nếu trở về thì chính cha đang sẵn chờ, nhưng gã cùng tử lại không dám nhận. Như chúng taPhật tánh sẵn mà lại than mất Phật. Có cái chân thật không chịu nhớ, rồi than sao sống khổ quá, chịu không nổi. Nhiều khi tâm suy nghĩ lanh lợi quá, hết nghĩ cái này tới nghĩ cái kia, tới giờ ngủ cũng cứ nghĩ hoài, ngủ không được than khổ quá. Tại sao khổ như vậy? Tại vì chạy theo nó quen rồi, bây giờ muốn dừng nghĩ không được, ngồi thiền bữa nào cũng nghĩ bậy nghĩ bạ. Tại sao nghĩ? Vì chứa chấp, nếu buông hết thì ngồi lại chỉ còn một tâm thanh tịnh sáng suốt, khoẻ biết chừng nào. Sửa soạn ngủ thì buông hết mọi việc, ngủ cho an ổn. Tất cả nỗi khổ là vì chúng ta đuổi theo vọng tưởng sanh diệt, bám vào bóng dáng sáu trần. Bây giờ buông hết trở về bản tâm tức là Niết-bàn bất sanh bất diệt, không tìm chỗ nào hết.

CHÁNH VĂN:

Phàm nhân phần nhiều bị cảnh ngại tâm, sự ngại lý, thường muốn trốn cảnh để an tâm , đuổi sự để còn lý, không biết chính là tâm ngại cảnh, lý ngại sự. Chỉ khiến tâm không, cảnh tự không, chỉ khiến lý lặng, sự tự lặng, chớ dụng tâm lộn ngược. Phàm nhân phần nhiều không chịu không tâm, sợ rơi vào không, chẳng biết tâm mình vốn không.

GIẢNG:

Chỗ này có một số người đang mắc kẹt, cứ cho rằng cảnh ngại tâm. Ở chùa đông người, kẻ hơn người thua kẻ phải người quấy, phiền nhiễu quá nên kiếm hang hốc chui vô tu một mình cho yên. Vì quí vị ấy nghĩ cảnh ngại tâm, nên tìm chỗ không có cảnh, tu sẽ hết ngại. Nào ngờ vô trong hang hốc lại có chướng ngại của hang hốc. Bây giờ hết gạo làm sao đây? Xách dù xuống núi, xin một ít gạo về, xin một lần đủ chưa? Chưa, lại xin nữa. Có gạo thì phải có nồi, có củi… đủ thứ hết. Chừng đó gặp cảnh không? Trên núi thiếu nước, không lẽ mình xách từ hũ từ hũ uống, thôi mua cái lu lớn chứa khá một chút. Lu lớn thì nhiều người khiêng, rủ bà con phụ đưa lên, từ đó lần lần họ tới thăm nom. Nhờ Phật tử tới có tiền mua gạo, thôi cũng tiếp. Bỏ cảnh chùa nhiều người, lên núi ở một mình, té ra càng nhiều hơn. Ở chùa chia ra mười người, mình mất thì giờ chỉ một. Còn vô núi mình lãnh trọn cả mười, chừng đó phiền hơn nữa. Từ chấp cảnh tịnh biến thành trở ngại, ban đầu thấy dường như hay sau thành quá dở. Đó là chỗ lầm lẫn lớn.

Đến phần sự và lý. Nhiều người tu sợ sự ngại lý nên đuổi sự giữ lý. Vậy lý là gì, sự là gì? Thế gian thường thường ai nói chuyện nhiều, mình bảo người đó lý sự quá. Ví dụ tôi nói đồng hồ này đẹp xấu, vuông tròn… đó là nói về sự, về hình tướng. Còn lý của đồng hồ là gì? Có hai trường hợp, lý thường và lý đạo. Lý thường là đồng hồ không quí ở hình vuông hay tròn, mà quí ở chỗ nó chạy đúng giờ, nhờ đồng hồ chúng ta biết giờ. Lý đạo là đồng hồ giả tướng, do nhân duyên hợp tạm có, lý thật của nó là không. Cho nên Không chính là lý đạo.

Muốn tìm lý không, từ đâu mà tìm? Ngay nơi tướng đồng hồ thấy được lý không của nó, như vậy tướng đồng hồ có ngại gì lý đồng hồ? Tướng cái nhà có ngại gì lý cái nhà, tướng người ngại gì lý người. Ngay nơi sự mình thấu lý thì ở đâu cũng không ngại. Còn bỏ sự để tìm lý làm sao tìm được, như lý nhân duyên mà bỏ sự tướng làm sao biết nhân duyên. Phải ngay nơi sự nhận ra lý, đó là người khéo tu, còn sợ chạy trốn là không khéo. Người tu thường có hai bệnh, thứ nhất là sợ cảnh làm nhiễu loạn tâm, thứ hai sợ sự làm chướng ngại lý, nên bỏ sự tìm lý. Như vậy đều không thực tế, đều lầm cả.

Chỉ khiến tâm không, cảnh tự không, chỉ khiến lý lặng, sự tự lặng, chớ dụng tâm lộn ngược. Chỉ cần tâm không chạy theo cảnh thì ở đâu cũng là cảnh tốt, không có gì chướng ngại, chớ chẳng phải trốn vô hang sâu mới tốt. Thời này người thích làm Phật sự thì ở thành thị, người muốn tu rục ưa chui vô hang ở một mình. Cả hai đều là bệnh. Chúng ta biết tu là tạo duyên cho mình nghiền ngẫm, thấu triệt lý đạo, thấu triệt lẽ chân thật của Phật dạy, đó là gốc. Tâm không dính với cảnh thì cảnh làm gì ngại tâm. Nếu tâm như như thì lý sự đâu chướng ngại nhau. Người bỏ cái này cầu cái kia là dụng tâm lộn ngược.

Phàm nhân phần nhiều không chịu không tâm, sợ rơi vào không chẳng biết tâm mình vốn không. Đây là bệnh của người tu. Nhiều người ngồi thiền tới lúc tâm bặt hết lăng xăng, đâm hoảng không biết tâm mình đâu mất rồi. Tâm chân thật vốn không có lăng xăng, khi lăng xăng lặng thì tâm thật hiện tiền. Chúng ta thấy lăng xăng lặng, sao lại nói không tâm? Ngồi yên thấy rõ tâm lăng xăng đang bặt, tai vẫn nghe, mắt vẫn thấy, tại sao nói không tâm? Người hoảng lên nói mất tâm rồi, là vì không biết được lẽ thật. Cho nên nói chẳng biết tâm mình vốn không.

CHÁNH VĂN:

Người ngu trừ sự không trừ tâm, người trí trừ tâm không trừ sự.

GIẢNG:

Người ngu trừ sự không trừ tâm, người trí trừ tâm không trừ sự. Nhiều người nói nghe thấy thương, như bảo tôi tu rồi không đồng hồ, không cần giường tốt, không cần đồ mới, thành ra ai cho đồ mới thì bỏ không mặc. Đó là chấp hình tướng, là trừ sự không trừ tâm. Đây thuộc người ngu không phải người trí. Người trí trừ tâm không trừ sự. Đừng để tâm mình nhiễm tốt xấu, không mong mỏi quí tiện, cái gì cũng được hết. Ai cho thì nhận, cần xài cứ xài, không nói quí tiện, đó là trừ tâm không trừ sự. Đây mới gọi là người trí.

Người biết tu rồi thì tùy duyên, cái gì đến thì nhận, tâm không mong cầu, không sợ không chê. Ai cho cái xấu không chê, cho cái tốt cũng không sợ, tâm an nhiên bình thường, như vậy mới đúng. Còn sợ cái này cầu cái kia là mắc kẹt, vì vậy Tổ quở người ngu trừ sự không trừ tâm. Người trí mặc áo tốt tâm không hãnh diện, không khoe với thiên hạ, nên không có lỗi. Nếu mặc áo rách để người ta thấy mình tu khổ hạnh, tu giỏi, đó là lỗi.

đời người ta thường nhìn tướng mà không hiểu tâm. Người tu phải hiểu tâm mình, sự tướng bên ngoài không quan trọng. Đừng để tâm đòi hỏi cái tốt, cũng không có tâm sợ sệt cái tốt. Đừng để tâm khoe cái xấu, cũng đừng có tâm sợ cái xấu. Được lành mặc lành, được rách mặc rách, không để ý gì hết. Vô tâm như vậy sống thế nào cũng không tội. Nếu hữu tâm dụng ý thì có tội.

CHÁNH VĂN:

Bồ-tát tâm như hư không, tất cả đều xả, làm việc phước đức đều không tham trước.

GIẢNG:

Tâm Bồ-tát như hư không rỗng rang vì tất cả đều xả, hơn thua phải quấy khen chê… xả hết. Làm việc phước đức đều không khoe, không chấp, đó là không tham trước.

CHÁNH VĂN:

Nhưng xả có ba bậc: trong ngoài thân tâm tất cả đều xả, ví như hư không, không có chỗ thủ trước, nhiên hậu tùy phương tiện làm lợi ích chúng sanh, năng sở đều quên, ấy là đại xả.

GIẢNG:

Xả có ba bậc: đại xả, trung xả và tiểu xả. Người làm tất cả việc tốt mà tâm như hư không, không chấp trước, năng sở đều quên đó là đại xả. Trong kinh thường gọi bố thí tam luân không tịch, người thí, vật thí, kẻ thọ thí đều không chấp, được vậy gọi là đại xả.

CHÁNH VĂN:

Nếu một bên hành đạo bủa đức, một bên lại xả không có tâm mong cầu, ấy là trung xả.

GIẢNG:

Trường hợp này là một bên hành đạo bủa đức, tức làm lợi ích cho mọi người, một bên xả hết, không có tâm mong cầu. Đó là trung xả.

CHÁNH VĂN:

Nếu rộng tu các việc thiện có chỗ mong cầu, nghe pháp biết không, nên mới không trước, ấy là tiểu xả.

GIẢNG:

Người rộng tu các việc thiện, mong được phước đời sau, đó là mong cầu. Nhưng nghe pháp biết không nên như thế, mới không tham trước. Nghe pháp biết tất cả pháp tánh là không, không chấp trước. Nghĩa là ban đầu có mong cầu, sau tỉnh mới bỏ, đó là tiểu xả.

Đối với chúng ta, trong ba thứ tiểu xả còn khó huống là đại xả. Nên người học đạo tu hành phải biết thật kỹ, trên đường tu chúng ta đến đâu, làm gì cho hợp đạo lý. Đừng để tu mà đi trên đường không đúng chánh pháp.

CHÁNH VĂN:

Đại xả như cây đuốc sáng để ở trước, lại không có mê ngộ. Trung xả như cây đuốc sáng để một bên, hoặc sáng hoặc tối. Tiểu xả như cây đuốc sáng để phía sau, không thấy hầm hố. Cho nên, Bồ-tát tâm như hư không tất cả đều xả; quá khứ tâm không thể được là quá khứ xả, hiện tại tâm không thể được là hiện tại xả, vị lai tâm không thể được là vị lai xả. Nên nói “ba thời đều xả”.

GIẢNG:

Cây đuốc sáng để ở trước nên không có phía nào tối, đó là Đại xả. Cây đuốc để một bên thì sáng được bên này, bên kia tối, đó là Trung xả. Cây đuốc để đàng sau, mình đi tới không thấy đường có thể trật chân. Vì còn đắm trước danh văn lợi dưỡng, tuy sau thức tỉnh, nhưng cũng muộn. Nên nói cây đuốc đốt để phía sau, có thể sụp hầm hố, đó là Tiểu xả.

Cho nên, Bồ-tát tâm như hư không tất cả đều xả; quá khứ tâm không thể được là quá khứ xả, hiện tại tâm không thể được là hiện tại xả, vị lai tâm không thể được là vị lai xả. Nên nói “ba thời đều xả”. Quá khứ, hiện tại, vị lai tâm không thể được thì còn chấp gì nữa, rỗng rang sáng suốt nên “ba thời đều xả”. Được vậy là đại xả.

CHÁNH VĂN:

 Từ đức Như Lai trao pháp cho Tổ Ca-diếp đến nay, lấy tâm ấn tâm, tâm tâm không khác. Ấn (con dấu) in trong hư không thì in không thành dấu. Ấn in nơi vật tức ấn không thành pháp. Cho nên lấy tâm ấn tâm, tâm tâm không khác. Năng ấn và sở ấn đều khó khế hội nên người được ít. Song, tâm tức vô tâm, được tức không được.

GIẢNG:

Chỗ này nói thẳng về các Tổ Thiền tông. Từ đức Phật trao pháp cho Tổ Ca-diếp là lấy tâm ấn tâm. Ấn như con dấu, nếu con dấu ấn trong hư không thì không thành dấu. Ấn tâm là sao? Tâm của người đệ tử thế nào, vị thầy thấy đúng như thế, đó là thừa nhận, là ấn tâm. Như vậy cái ấn ấy không phải in vào cây cối, mà in hẳn trong tâm. Ví dụ trong sinh hoạt, chúng ta hay nói “tôi đang suy tính việc này mà chưa ra, giờ muốn bàn với huynh đệ giúp đỡ”. Khi đó có người đưa ra cách giải quyết đúng ý mình, chúng ta vui vẻ nói “đúng ý tôi rồi”, đó cũng là ấn tâm, nhưng ấn tâm sanh diệt, không phải ấn tâm chân thật.

Tổ Huệ Khả sau khi được Tổ Bồ-đề-đạt-ma dạy biết lối vào, Ngài tự tu cho tới một hôm trình với Tổ Đạt-ma: “Bạch Hòa thượng, con dứt hết các duyên.” Tổ Đạt-ma sợ Ngài lầm chỗ không tâm nên nói “coi chừng rơi vào không”. Ngài liền nói “rõ ràng thường biết làm sao không được”. Tổ bảo “chỗ đó chư Phật như thế, ta như thế, ông cũng như thế”, đó là ấn tâm. Ấn chứng như vậy là dùng tâm ấn tâm, ấn mà không có năng ấn, sở ấn. Ngài nói: Cho nên lấy tâm ấn tâm, tâm tâm không khác. Tâm thầy và tâm trò không khác nhau.

Năng ấn và sở ấn đều khó khế hội nên người được ít. Vì năng ấn và sở ấn cũng không có, không thể được, chỉ hai bên in hệt nhau vậy thôi. Không phải thầy là năng ấn trò là sở ấn, vì nếu có năng cũng như có dấu ấn, có sở như có tờ giấy trắng để in xuống, chỗ này không năng sở gì hết. Đệ tử trình bày đúng như cái thấy của thầy. Thừa nhận như vậy là truyền tâm pháp ấn.

CHÁNH VĂN:

Phật có ba thân: pháp thân nói pháp tự tánh rỗng suốt, báo thân nói pháp tất cả thanh tịnh, hóa thân nói pháp lục độ vạn hạnh. Pháp thân nói pháp không thể dùng ngôn ngữ âm thanh hình tướng văn tự mà cầu, không có nói, không có chứng, tự tánh rỗng suốt mà thôi. Cho nên nói “không pháp có thể nói, ấy gọi là nói pháp”.

GIẢNG:

Kinh Kim Cang nói “không pháp có thể nói, ấy gọi là nói pháp” là chỉ cho pháp thân.

CHÁNH VĂN:

Báo thân, hóa thân đều tùy cơ cảm mà hiện, có nói pháp cũng tùy sự hợp cơ để vì nhiếp hóa đều không phải là chân pháp.

GIẢNG:

Báo thân, hóa thânphương tiện tùy cơ, không phải là chân pháp.

CHÁNH VĂN:

Cho nên nói: “Báo, Hoá không phải chân Phật, cũng không phải nói pháp.”

GIẢNG:

Như vậy báo thân, hóa thân nói pháp không phải là chân Phật, vì không thể nói thẳng được pháp thân.

CHÁNH VĂN:

Nói “đồng là một tinh minh phân làm sáu hòa hợp”. Một tinh minh là một tâm. Sáu hòa hợp là sáu căn. Sáu căn này mỗi cái cùng trần hợp. Mắt cùng sắc hợp, tai cùng tiếng hợp, mũi cùng mùi hợp, lưỡi cùng vị hợp, thân cùng xúc hợp, ý cùng pháp hợp. Khoảng giữa sanh sáu thức là mười tám giới. Nếu rõ mười tám giới không thật có, trói sáu hòa hợp làm một tinh minh. Một tinh minh là tâm vậy. Người học đạo đều biết cái này. Chỉ không thể khỏi cái hiểu “một tinh minh và sáu hòa hợp”, bèn bị pháp trói không thể khế hội bản tâm. Như Lai ra đời muốn nói nhất thừa chân pháp, ắt chúng sanh không tin sanh ra hủy báng chìm trong biển khổ, nếu hoàn toàn không nói thì mắc lỗi san tham, chẳng vì chúng sanh chỉ dạy diệu đạo. Ngài bèn lập phương tiện nói có ba thừa, thừa có đại tiểu, được có cạn sâu đều không phải là bản pháp. Cho nên nói “chỉ có đạo nhất thừa, có hai chẳng phải chân”. Nhưng, vẫn chưa có thể hiển bày một tâm pháp, cho nên triệu Ca-diếp đồng trong pháp tòa riêng trao một tâm pháp rời nói năng, một nhánh pháp này khiến riêng thực hành. Nếu người hay khế ngộ liền đến Phật địa.

GIẢNG:

Nói một tinh minh sanh sáu hòa hợp, đó là dẫn trong kinh Lăng Nghiêm. Phật dạy, chúng ta có tâm trong sáng, hiện ra ở mắt gọi là cái thấy ở mắt, hiện ra ở tai gọi là cái thấy ở tai v.v… Cái chân thật đều hiển lộ qua các căn. Cho nên ở đây bảo trói sáu căn trở về với một tinh minh, tức gom sáu căn về một tinh minh. Chỗ này nếu nói một tinh minh sanh sáu hòa hợp thì bị pháp trói không thể khế hội bản tâm. Vì vậy chúng ta phải trói sáu hòa hợp thành một tinh minh. Chỗ này hết sức quan trọng, trên ngôn ngữ nghe thường nhưng trên sự tu lại tối quan trọng, trói lục hòa hợp thành nhất tinh minh. Đó là mình trói pháp, không để pháp trói mình.

Làm sao trói sáu hòa hợp thành một tinh minh? Khi mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm v.v… mỗi cái đều theo trần cảnh, vừa thấy liền khởi thức phân biệt, thành ra sáu căn, sáu trần, sáu thức hợp lại. Bây giờ trói sáu căn trở về một tinh minh là thấy nghe… sáu cái đều hoạt động, nhưng không cho dính cái gì hết. Chỉ sống với một tinh minh là thấy nghe đủ cả mà liễu liễu thường tri. Không để thức phân biệt cái này dính cái kia, như vậy là trói lại. Nếu trói sáu căn trở về một tinh minh là đến chỗ chân thật. Tinh minh thì đâu phải vô tri giác. Tổ Huệ Khả nói “tâm con dứt hết các duyên”, là không dính các pháp bên ngoài tức Ngài trói sáu căn, không cho dính với sáu trần. Từ trói sáu căn không dính với sáu trần bị Tổ Đạt-ma nói “coi chừng rơi vào không”, Ngài thưa “con rõ ràng thường biết, làm sao không được” tức là nhận một tinh minh rõ ràng thường biết, chớ đâu phải không.

Chúng ta ngày nay thích trói sáu căn hay thích thả sáu căn. Như ở đây nghe đàng kia có hoa thơm thì chịu ngồi đây hay đi tìm hoa. Hoặc đang ngồi đây mà nghe đàng kia có tiếng nhạc hay, lúc đó ngồi yên hay chạy lại coi nhạc gì vậy. Rõ ràng chúng ta thả sáu căn để cho sáu trần xỏ mũi dẫn đi. Nếu ngồi đây nghe mùi hoa thơm, nghe tiếng nhạc hay vẫn rõ ràng thường biết, không thèm dính không thèm chạy, đó là trói sáu căn trở về nhất tinh minh, hay trói sáu hòa hợp trở về nhất tinh minh. Nó hay chạy theo, bây giờ cột lại không cho chạy, đó là trói. Chúng ta tu là trói lục hòa hợp để trở về nhất tinh minh. Một tinh minh tức là một tâm. Nếu chúng ta nói một tinh minh sanh ra lục hòa hợp, đó là chạy theo pháp, bị pháp trói rồi.

Tất cả kinh điển đều là do chư Phật lập phương tiện nói có ba thừa. Thừa lại có đại thừa tiểu thừa, được có cạn sâu đều là chẳng phải là bản pháp. Bản pháp là trói lục hòa hợp trở về nhất tinh minh.

Cho nên dẫn kinh Pháp Hoa nói “chỉ có đạo nhất thừa, có hai chẳng phải chân”. Chân là chỉ có cái chân thật, còn thấy hai là đối đãi không phải chân. Trong bài “Tín Tâm Minh” Tổ Tăng Xán kết thúc “tín tâm bất nhị, bất nhị tín tâm”, nếu tin tâm thì không hai, có hai là chưa tin tâm. Ở đây nói còn hai thì không phải chân. Chúng ta thấy kinh Phật với lời Tổ không khác, khít khao, rõ ràng nhưng vì chúng ta không hiểu nên chấp câu chấp lời, cho rằng Tổ dạy khác, Phật dạy khác, thật sự không phải như vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25650)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37865)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19581)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18662)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14254)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20093)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9499)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14366)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35561)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10652)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19698)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23196)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13358)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10744)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20213)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10599)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9959)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14874)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17650)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17594)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13185)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31158)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25747)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13978)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17502)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10971)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12288)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10465)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12266)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11756)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9612)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12351)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9195)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8491)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9954)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9755)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12028)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14413)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9899)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11203)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8294)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10968)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14082)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9905)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15203)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13036)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23074)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23984)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12566)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15423)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17782)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15047)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16549)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16089)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17634)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11588)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11616)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17823)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10777)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10518)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11321)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12077)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11045)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36412)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8959)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9676)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34708)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17260)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10240)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10468)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12197)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13631)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14661)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9147)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24802)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11635)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10314)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15937)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15567)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14517)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13002)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12444)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14577)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18353)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9569)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18514)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18583)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19015)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18833)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11829)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13337)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47985)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11063)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13546)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13035)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11061)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12552)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11050)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31768)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11662)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant