Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

A. Ngài Nguyên Tíntư tưởng Tịnh Độ

16 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 12007)
A. Ngài Nguyên Tín và tư tưởng Tịnh Độ
TƯ TƯỞNG TỊNH ĐỘ TÔNG

HT Thích Như Điển biên soạn


IV. TỊNH ĐỘ TÔNG CỦA NHẬT BẢN

Trung Hoa là một lục địa lớn và ngày xưa gọi là Trung Quốc. Người Trung Hoa hay tự hào về nền văn hóa 5.000 năm của họ; nên thường hay cho các dân tộc lân bang là rợ Hồ hay Hung Nô. Ý để ám chỉ cho những dân tộc thua kém mình. Vì thế chữ Trung Quốc cũng có nghĩa là nước ở giữa; nước trung tâm; nước nằm lên trên những nước khác v.v… Ý nghĩ ấy dường như đến thế kỷ thứ 21 nầy người Trung Hoa vẫn còn dùng đến.

Vì những nước có địa lý nằm sát với Trung Quốc như Việt Nam, Đại HànNhật Bản; nên có một sự giao thương, một sự liên đới cận kề bắt buộc phải trao đổi để tự tồn; nếu không sẽ bị cô lập hoặc bị chiếm làm thuộc địa như Việt Nam (3 lần Bắc thuộc) và bị xâm chiếm thời Mông Cổ ở thế kỷ thứ 13 (như Đại Hàn, Nhật Bản, Việt Nam). Riêng các dân tộc khác cũng nằm gần biên giới Trung Hoa như: Lào, Ấn Độ, Pakistan, Mông Cổ, Tây Tạng, Nga Sô v.v… nhưng những quốc gia nầy nhờ dãy núi Hy Mã Lạp Sơn ngăn cách cũng như thuộc nền văn hóa khác; cho nên người Trung Hoa thời xưa không dễ dàng gì vượt qua núi rừng, đèo ải để chiếm những nước nầy làm thuộc địa. Đây có thể là cái vinh dự của những dân tộc kia chăng?

Riêng Việt Nam, Đại Hàn, Nhật Bản mãi cho đến thế kỷ thứ 20, 21; nhưng chữ Hán vẫn là ngôn ngữ thường dùng trong các chùa tại các nước trên. Tuy tiếng Đại Hàn; tiếng Nhật đã có cách riêng phát âm và cách viết theo văn tự của mình; nhưng chữ Hán vẫn còn giữ phần quan trọng trong 50% cách viết và cách nói.

Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 đã dùng chữ La Mã thay thế hoặc phiên âm chữ Hán để đọc; nhưng mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20, triều đình nhà Nguyễn; vẫn còn dùng Hán văn để ra đề thi cho các thí sinh thi Hương (Tú Tài) và thi Hội (Cử Nhân) và thi Đình (Tiến Sĩ).

Việc học ngoại ngữ ngày nay, vào thế kỷ thứ 21 nầy ở từng quốc gia trên 5 châu lục là chuyện bình thường. Lý do duy nhất là để ngoại giao, tìm hiểu, nghiên cứu. Còn ở những thế kỷ trước, chủ nghĩa thực dân của những nước lớn đi xâm chiếm các nước nhỏ để làm thuộc địa lại có ý nghĩa khác. Đầu tiên họ muốn khai hóa dân tộc ấy, phải cho dân tộc bị trị kia học ngôn ngữ tiếng “mẫu quốc” của họ trước. Ví dụ như thuộc địa của Trung Hoa thì cho học chữ Hán; thuộc địa của Pháp cho học tiếng Pháp; thuộc địa của Anh cho học tiếng Anh; thuộc địa của Hòa Lan cho học tiếng Hòa Lan v.v…

Chữ thực dân viết bằng chữ Hán có nghĩa là một dân tộc bị xâm lược. Chữ thực nầy gồm 2 bộ. Đó là bộ mộc và bộ trực. Bộ mộc có nghĩa là cây, mà đã là cây thì phải có rễ, rễ ấy mọc thẳng vào đất; nên trở thành chữ thực. Vậy, những nước lớn đi chiếm những nước nhỏ đều có những ý đồ mong cho cấy được rễ ngôn ngữvăn hóa vào đó thì họ mới cai trị được. Đây là một cái ách bị khống chế trong bao đời mà nhiều dân tộc trên thế giới đã bị trải qua.

Riêng Nhật Bản là một quốc gia đảo quốc gồm 4 đảo lớn và vô số đảo nhỏ sắp dài từ Bắc chí Nam là: Bắc Hải Đạo (Hokkaido); Bổn Châu (Kyushu). Viết bằng chữ Hán; nhưng phát âm theo lối Nhật. Điều ấy cũng dễ hiểu. Vì viết và nói cho người Nhật nghe; chứ không phải cho người Trung Quốc nghe. Việt Nam chúng ta có chữ Nôm và Hán Việt; Đại Hàn có chữ Hán Hàn và chữ Đại Hàn. Đây là sự nỗ lực của các dân tộc bị nền văn hóa Hán tộc chi phối; nhưng họ đã vươn lên để thoát ra sự bị trị và tạo thế đứng cho dân tộc của mình.

Người Nhật Bản trong thời gian Đệ nhất và Đệ nhị thế chiến (1914-1918) và (1939-1945) họ đã chiếm Đài LoanĐại Hàn làm thuộc địa; nên những nhà viết sử Nhật Bản đa phần né tránh ít hoặc không đề cập đến Đại Hàn, vốn là nơi Phật Giáo đã trực tiếp truyền vào Nhật Bản. Sau nầy vào đời nhà Đường mới có những nhà Sư Trung Hoa trực tiếp sang Nhật Bản truyền giáo như Ngài Giám Chân Hòa Thượng (Kanlin) và vào thế kỷ thứ 13 cũng có một số chư Tăng Nhật Bản sang Trung Quốc du học như Ngài Đạo Nguyên (Dogen); nhưng thuở ban đầu sự giao thương giữa Đại HànNhật Bản bằng đường biển qua các thương thuyền và Phật Giáo đã được truyền vào đây từ thế kỷ thứ 4, thứ 5; để đến thế kỷ thứ 6 là một thế kỷ thật đặc biệt. Vì Phật Giáo được chính nhà Vua, là Thánh Đức Thái Tử (Sotoku Taisi) chủ trương mang Phật Giáo vào nhân gian và mỗi ngày trước khi lâm triều, nhà Vua đều hướng về xứ Ấn Độ để lễ bái chư Phật và các vị Tổ Sư Truyền Thừa.

Nara (Nại Lương) là kinh đô cũ của Thánh Đức Thái Tử trị vì. Sau đó mới dời về Kyoto (Kinh Đô) và đến thời Minh Trị Thiên Hoàng (Meiji Tenno) vào năm 1868 Thủ Đô đã được dời về Tokyo (Đông Kinh) cho đến ngày hôm nay.

Khi Phật Giáo được du nhập vào nước Nhật, bất kể là từ Trung Hoa, Đại Hàn hay Ấn Độ, là Phật Giáo của người Nhật, chứ không còn nguyên chất là Phật Giáo của các xứ được truyền đến nữa. Ví dụ như khi người ta nghe Chado (Trà Đạo); Kendo (Kiếm Đạo); Judo (Nhu Đạo); Karate (Không Thủ); Ikebana (Trì hoa); Shodo (Thơ Đạo); Zen (Thiền) v.v… người ta hiểu ngay là của người Nhật; mặc dầu tất cả những ngành nghề, nghệ thuật ấy đều từ Trung Quốc được truyền sang. Bất kể là do các vị Sư Đại Hàn, Trung Quốc mang đến hay chính họ sang Trung Hoa, Đại Hàn để học tập, tu niệm và sau đó mang về lại quê hương của họ; nó đã biến thái một cách tài tình, thích nghi với nền văn hóa tại đây, để người dân cùng an hưởng thọ nhận, vui đạo mà tu, để được lợi lạc cho mình và cho người.

Ví dụ như nhìn thấy kiến trúc tự viện của Nhật Bản thì chúng ta biết ngay không phải là của Đại Hàn hay của Trung Quốc. Vì lẽ kiến trúc của Nhật ít màu sắc hơn Trung Quốcthanh nhã hơn Đại Hàn. Nhìn mái cong bằng đồng của một ngôi chùa Nhật Bản, bất cứ thuộc Tông Phái nào, chúng ta sẽ liên tưởng ngay đến sự độc lập dân tộc, cao vút lên tận hư không. Các chéo góc vươn cao như những cánh Phượng hoàng tung bay vào gió nhẹ, giống như tinh thần Võ Sĩ Đạo của quốc gia nầy, mà điều ấy ngay cả quê hương gốc của nó xuất phát từ Trung Hoa vẫn không đào ra được tinh thần dân tộc cao cả như vậy.

Nhật Bản là xứ động đất quanh năm; nên chùa chiền được xây dựng bằng những loại gỗ quý đặc biệt, không giống như cách xây dựng của Trung QuốcViệt Nam. Bây giờ nếu có ai đó đến chùa Pháp Long (Horyu) hay chùa Đông Đại (Todaiji) tại Nara (Nại Lương) thì sẽ vô cùng kinh ngạc. Vì không hiểu rằng ngày xưa người ta chưa phát triển về kiến trúc, tại sao họ đã xây dựng được những ngôi chùa vĩ đại như vậy? Đến đây để chỉ cúi đầu thán phục cho ý chítâm nguyện của người xưa; ngoài ra không thể phẩm bình gì khác hơn nữa.

Những ngôi tháp bằng gỗ xây 3 từng, 5 từng, 7 từng hay 9 từng v.v… cũng là cách kiến trúc rất đặc biệt. Nó không là những Stupa của Ấn Độ; không giống những Đại Tháp của Trung Hoa hay những Phù Đồ của Việt Nam. Tất cả đều làm bằng gỗ; lớp nầy chồng lên lớp khác; mối nầy ăn khớp với mối kia và hầu như không có một cây đinh nào được xử dụng vào đó cả. Rồi những tượng Phật bằng gỗ hay bằng đồng được điêu khắc và chạm trổ cách hơn 1.500 năm về trước vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Quả là những tuyệt tác nghệ thuật của Phật Giáo tại quê hương xứ mặt trời nầy vậy.

Trước khi đi vào Tịnh Độ Tông của Nhật Bản chúng ta nên tìm hiểu về cuộc đờitư tưởng của Thánh Đức Thái Tử, để từ đó, chúng ta có một cái nhìn tổng quát và khách quan hơn về Phật Giáo tại đảo quốc nầy.

“Thánh Đức Thái Tử - Sotoku Taishi (572-621). Cũng gọi là Cứu Độ Hoàng Tử, Phong Thông Nhĩ Mệnh, Thượng Cung Thái Tử, Thánh Vương.

Vị Hoàng Tử thứ hai của Thiên Hoàng Dụng Minh, Nhật Bản. Ông bẩm sinh thông minh, là nhiếp chính của Thiên Hoàng Suy Cổ. Ngoài Nho học, Phật học, ông còn thông suốt cả Lịch học, thiên văn, địa lý… Ông từng phái học sinh đến du học tại Trung Quốc vào thời Tùy, tận lực du nhập văn hóa Trung Quốc vào Nhật Bản. Ông đặt ra 12 bậc quan (603) và 17 điều Hiến Pháp (604) làm nồng cốt cho nền nhân chính ở Nhật Bản. Điều thứ 2 trong Hiến Pháp nầy quy định lòng tin chân thành đối với Tam Bảo. Bình sinh, ông tin thờ Phật Pháp, tận lực phát huy tinh thần Đại Thừa. Ông thường giảng 3 bộ kinh Pháp Hoa, Duy Ma và Thắng Man, kiến lập các viện Bi Điền, Kính Điền, phát triển sự nghiệp cứu tế toàn dân. Ông xây dựng 4 ngôi chùa lớn là chùa Tứ Thiên Vương, chùa Pháp Long, chùa Quảng Long và chùa Pháp Hưng, đặt vững nền tảng cho sự truyền bá Phật Giáo tại Nhật Bản để điều hòa văn hóa Trung Quốcvăn hóa Nhật Bản.

Ông mất năm 612 (có thuyết nói 622), hưởng dương 49 tuổi, được an táng tại Ki Trường, Đại Phản (Osaka), Nhật Bản. Truyện ký của ông được ghi trong “Thượng Cung Thánh Đức Pháp Vương Đế Thuyết” và trong “Nhật Bản thư kỷ”. Vào thời Bình An (Heian) và Liêm Thương (Kamakura) rất thịnh hành truyện tranh về Thái Tử Thánh Đức. Trong dân gian và các chùa miếu cũng phổ biến việc thờ chân dung hoặc tượng khác của Thái Tử”.

(Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 5291). Xem Thánh Đức Thái Tử truyện lịch quyển hạ, Nhật Bản thư kỷ quyển 21; Nguyên hanh thích thư).

Qua Tiểu Sử đơn giản của Thánh Đức Thái Tử như trên, chúng ta thấy được những điểm chính như sau:

Ông là một vị Vua, một Phật Tử; không phải là một Tăng sĩ; nhưng đã có công giúp cho Phật Giáo đương thời được hưng thịnh qua việc giảng kinh, xây chùa và lấy giáo lý Phật Giáo san định thành Hiến Pháp để cai trị nhân dân, trong đó điều thứ 2 của Hiến Pháp 17 điều gần giống như là những biểu ngôn được khắc trên các trụ đá của Vua A Dục khi ông ta còn tại vị tại Ấn Độ. Đây là cái trí của một bậc minh chúa, muốn đem cái hay cái đẹp của Đạo giáo ứng dụng vào lòng người. Có như vậy dân mới được an cưlạc nghiệp. Từ đó sự cai trị của ông càng dễ dàng hơn.

Kinh Pháp Hoa vốn được xiển dương mạnh mẽ tại Trung Hoa và Việt Nam, Đại Hàn qua nhiều thời đại khác nhau và ở Nhật kinh Pháp Hoa đã được Ngài Nhật Liên Thánh Nhơn (Nichiren Shonin) tạo thành một Tông Phái riêng biệt gọi là Nhật Liên Tông vào thế kỷ thứ 13; nhưng ở vào thế kỷ thứ 6; nghĩa là trước 700 năm Thánh Đức Thái Tử đã giảng kinh nầy tại chùa Horyu (Pháp Long) tại Nara rồi. Kế tiếpgiảng kinh Duy Ma Cật tượng trưng cho tinh thần Bồ Tát hiện thân qua một Cư sĩ namgiảng kinh Thắng Man hiện thân qua một Cư sĩ nữ. Tất cả xuất giatại gia đều hòa quyện lại với nhau để hộ trì và phát triển Phật Pháp.

Điều đặc biệt khác là nhà Vua đã điều hòa văn hóa Trung Quốcvăn hóa Nhật Bản để người Nhật Bản tiêu thụ nền văn hóa Khổng Mạnh nầy chứ không phải bị đồng hóa như tại Việt Nam - thuở ấy là bị Bắc thuộc lần thứ 2 (năm 44 trước Tây lịch đến năn 938 sau Tây lịch). Đây là tấm gương sáng cho Vua Minh Trị sau nầy. Ông Thiên Hoàng nầy duy tân cải cách đất nước của ông vào năm 1868 theo lối học thuật của Tây phương; nhưng hoàn toàn không bị văn hóa Tây phương áp đảo. Trong khi đó Việt Nam cũng vào năm nầy những tiếng đại bác của người Pháp đã nã vào Đà Nẵng và bắt buộc triều đình nhà Nguyễn lúc ấy phải ký kết những hiệp định đầu hàng để trở thành thuộc địa của Pháp cho đến năm 1945.

Ông cho những người dân học giỏi sang Anh quốc học về thương mại, qua Pháp học về ngoại giao, qua Đức học về giáo dục v.v… Sau khi tốt nghiệp các trường tại các xứ Tây phương nầy, Vua Minh Trị đón họ về nước để phục vụ cho quê hương Nhật Bản và kể từ đó họ đã đứng ngang hàng với những cường quốc như Hoa Kỳ, Nga Sô, Đức quốc vào những năm tháng ở cuối thế kỷ thứ 20, đầu thế kỷ thứ 21 nầy.

Tại Trung Hoa, Phật Giáo đã có chia Tông Phái tương đối rõ ràng rồi; nhưng ở Nhật đến thế kỷ thứ 13 mới là thế kỷ hoàn chỉnh nhất. Riêng về Phật Giáo tổng quan thì chúng ta có thể điểm qua thời kỳ đầu đến thời kỳ phân chia bộ phái tại Nhật (từ thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ thứ 13, để chúng ta có được một cái nhìn cụ thể hơn.

“Todaiji – Chùa Đông Đại cũng gọi là Hoa Nghiêm tự, Hằng Thuyết Hoa Nghiêm tự,Thành Đại tự, Tổng Quốc Phần tự, Kim Cang Minh Tứ Thiên Vương Hộ Quốc tự.

Chùa nằm ở thành phố Nara (Nại Lương) Nhật Bản, là Tổng Bổn Sơn của Tông Hoa Nghiêm.

Muốn thế giới Liên Hoa Tạng được thực hiện ngay ở cõi đời nầy và muốn Phật Pháp được hưng thịnh, vào năm Thiên Bình thứ 10 (738) Thiên Hoàng Thánh Vũ ban lệnh kiến tạo chùa Đông Đại, đúc tượng Phật Tỳ Lô Giá Na bằng đồng, được hoàn thành vào năm Thái Bình Thiên Bảo thứ 4 (752), là một trong bảy ngôi chùa lớn ở Nam Đô.

Năm Trị Thừa thứ 4 (1180) Chùa bị quân lính của Bình Trọng Hoành thiêu hủy trong chiến tranh. Về sau Ngài Tuấn Thừa kiến thiết lại với sự giúp đỡ của Nguyên Lai Triều. Năm Vĩnh Lộc thứ 10 (1567) chùa lại bị binh hỏa Tam Hảo, Tùng Vĩnh đốt cháy. Đến thời đại Nguyên Lộc (1688-1703) Ngài Công Khánh lại trùng tu; tức là điện Đại Phật thờ tượng Bổn Tôn hiện nay.

Điện Đại Phật là kiến trúc bằng gỗ lớn nhất thế giới, làm theo kiểu 2 tầng 4 mái và một dãy hành lang bao quanh. Những cánh sen trên tòa cao của Đức Phật Bổn Tôn Lô Xá Na được làm vào thời kỳ sáng lập chùa nầy, là thế giới Liên Hoa Tạng được chạm trổ rất nhỏ, bộ phận đầu được tu bổ vào thời đại Giang Hộ (Edo). Các cánh cửa của chiếc lồng đèn bằng đồng hình tám góc ở trước Đại Điện là nghệ thuật thuộc thời Thiên Bình, trên có những bức chạm nổi rất tinh vi. Cổng lớn ở hướng chính Nam của chùa là kiến trúc thuộc thời kỳ Liêm Thương (Kamakura), tiêu biểu cho kiểu kiến trúc Ấn Độ. Tượng lực sĩ Kim Cương ở hai bên Đại Điện là kiệt tác bằng gỗ lớn nhất do Vận KhánhKhoái Khánh chạm trổ. Tam Nguyệt Đường (Pháp Hoa Đường) ở chân núi phía Đông điện Đại Phật có niên hiệu xưa hơn chùa Đông Đại, gọi là chùa Kim Chung, Viện Quyên Sách.

Nhìn từ ngoài thì Bổn Đường (Chánh Điện) của thời kỳ Thiên BìnhLễ đường thuộc thời đại Liêm Thương hài hòa với nhau thành một thể. Tượng Đức Bổn Tôn Nguyên Sách Quan Âm (bằng sơn khô), tượng Nhật Quang, Nguyệt Quang (tượng đắp) và Tứ Thiên Vương, đều là những tượng được tạo vào thời Thiên Bình. Ngoài ra còn nhiều tượng Phật khác nữa.

Phiá sau nhà bếp có thờ tượng Bí Phật chấp kim cương thần. Ở khoảng giữa nhị nguyệt đường và Phật điệnKhai Sơn đường (Lương Biện Đường), lầu chuông, Tam Muội Đường (Tứ Nguyệt Đường) v.v… đều là những kiến trúc nổi tiếng của thời đại Liêm Thương.

Viện giới đàn ở phía Tây điện Đại Phật là một trong ba giới đàn. Tượng Tứ Thiên Vương (tượng đắp) là tác phẩm tiêu biểu cho nghệ thuật điêu khắc của thời đại Thiên Bình. Bát Cước môn ở góc Tây Bắc của Chuyển Hại Môn là kiến trúc ở thời Thiên Bình. Viện Chính Thương ở phía Bắc cũng nằm trong phạm vi của chùa Đông Đại.

Về phương diện chạm trổ thì có 8 lá phướn hình vị Tăng, tượng Phật Thích Ca Đản Sanh bằng đồng; về chân dung thì có tranh của Lương Biện và Thừa Tuấn.

Ngoài ra, Thư Viện chùa Đông Đại còn cất giữ nhiều thứ nhạc cụ, Câu Xa Mạn Đồ La, 55 cuộn tranh về kinh Hoa Nghiêm, Đông Đại tự yếu lục 10, văn thư xưa, kinh chép tay thời cổ, v.v…”. (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 1818 - 1819).

Cứ theo lịch sử chùa Đông Đại ở Nara như trên thì năm Thái Bình Thiên Bảo thứ 4 (752) là năm khánh thành chùa nầy. Đặc biệt trong lễ khánh thành nầy nhà Vua cũng như Triều đình đã thỉnh Ngài Bồ Đề Tiên Na (704-760) đến Nara để làm lễ khai nhãn cúng dường. Như vậy cho ta thấy rằng Vua Chúa và chư Tăng Nhật Bản lúc bấy giờ rất trọng vọng vị nầy. Vì Ngài là người Ấn Độ, đã đến Lâm Ấp (Việt Nam) và cùng với đệ tử là Ngài Phật Triết (người Việt) cùng đến Trung Quốc và sau đó đến Nhật Bản. Trong lễ khánh thành nầy có tấu những vũ nhạc như Truyền Bồ Tát Vũ, Bạt Đầu Vũ, Lâm Ấp Vũ v.v… những điệu múa nầy có liên quan đến Phật Giáo Lâm Ấp (Việt Nam) thuở ấy và hiện nay mỗi năm chùa Đông Đại nhân lễ Vu Lan vẫn còn cho múa những điệu múa xưa được truyền qua từ Lâm Ấp và trong lịch sử chùa Đông Đại bên trên cũng cho ta thấy rằng hiện nay (2011) Chùa vẫn còn gìn giữ những thứ nhạc cụ cổ xưa. Vì lẽ đây là chùa của Vua quan xây dựng và những lễ lớn như lễ khánh thành năm 752, chắc chắn phải có những Hoàng Hậu, Hoàng Phi, Công Chúa, Thái Tử đi cùng. Ngoài việc dự lễ Khai Quang ra, những vị nầy còn được xem những vị Tăng từ xa mang đến Nhật Bản những điệu vũ lạ mắt nữa và các Ngài đã tập cho người Nhật múa, để cho những người tham dự thưởng lãm.

Sau đây chúng ta tìm hiểu thêm về Ngài Bồ Đề Tiên Na và Ngài Phật Triết cũng như vị trí nước Lâm Ấp ngày xưa cũng như sự đóng góp của Phật Giáo Lâm Ấp (Việt Nam) cho Phật Giáo Nhật Bản từ thế kỷ thứ 8 đến nay, trải qua hơn 1.300 năm như thế. Để từ đó chúng ta có một cái nhìn có tính cách liên tục về lịch sử Phật Giáo Việt Nam sau nầy.

“Ngài Bồ Đề Tiên Na tên tiếng Phạn là Bodhisena. Dịch ý là Giác Quân. Ngài là người Nam Thiên Trúc, dòng Bà La Môn, họ Bà La Trì, tinh thần sáng suốt, tính tình điềm đạm. Do lòng ngưỡng mộ sự linh ứng của Bồ Tát Văn Thù ở núi Ngũ Đài mà đến Trung Quốc.

Năm Khai Nguyên 23 (735, có thuyết nói năm Khai Nguyên 18) Bồ Đề Tiên Na lại cùng với các Ngài Đạo Truyền và Phật Triết người nước Lâm Ấp vượt biển Đông sang Nhật Bản. Năm Thiên Bình Thắng Bảo thứ 3 (751, có thuyết nói năm thứ 2), Ngài nhậm chức Tăng Chính. Tháng tư năm Thăng Bình Thắng Bảo thứ 4 (752), tượng Đại Phật của chùa Đông Đại được hoàn thành, Ngài được các Sư Hành Cơ v.v… suy cử làm Đạo Sư trong lễ “Khai Nhãn cúng dường” (tức lễ Yểm tâm điểm nhãn).

Năm Thiên Bình Bảo Tự thứ 4, Ngài dặn dò các đệ tử rồi thị tịch trong tiếng niệm Phật, thọ 57 tuổi (760). Người đời gọi Ngài là Bà La Môn Tăng Chánh, Bồ Đề Tăng Chánh; hoặc gọi tắt là Bồ Đề”. (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 666).

(Xem Đại An tự Bồ Đề truyền lai ký; Đường Đại Hòa Thượng đông chinh truyện; Đông Đại tự yếu lục quyển 1, quyển 2, quyển 6; Nhật Bản Cao Tăng truyện yếu văn sao quyển 1).

Ở đây có nhiều vấn đề cần đặt ra. Ví dụ như nhân duyên nào mà Ngài Bồ Đề Tiên Na cùng với Ngài Đạo Tuyền và Ngài Phật Triết người Lâm Ấp (Việt Nam) đến Ấn Độ rồi Trung Quốc và qua Nhật Bản? Họ đến Việt Nam chăng? hay chỉ đi Trung Quốc và vị Sư Phật Triệt người Lâm Ấp ấy đóng vai trò gì trong lễ khánh thành chùa Đông Đại cũng như đối với văn học Phật Giáo Nhật Bản thuở bấy giờ? v.v…

“Theo Phật Quang Đại Từ Điển (trang 4293) cho biết thì Ngài Phật Triết hay Phật Triệt là danh Tăng người Lâm Ấp (Việt Nam) sống vào khoảng thế kỷ thứ 8.

Sư sang Thiên Trúc (Ấn Độ), thờ Ngài Bồ Đề Tiên Na làm Thầy, thông suốt mật chú. Sau, Sư theo Ngài Bồ Đề Tiên Na đến Trung Quốc. Năm Khai Nguyên 24 (736), hai Thầy trò cùng đến Nhật Bản, trọ ở chùa Đại An, dạy tiếng Phạn, rất được triều đình và dân chúng kính trọng.

Năm Thiên Bình Thắng Bảo thứ 4 (752) chùa Đông Đại cử hành nghi thức Khai Nhãn cúng dường Đại Phật, Sư tấu vũ nhạc, truyền Bồ Tát vũ, Bạt Đầu vũ, Lâm Ấp vũ…

Sư có tác phẩm: Tất Đàm Chương 1 quyển”.

Xem ra như vậy hai Thầy trò Ngài Bồ Đề Tiên Na và Ngài Phật Triệt đã có nhân duyên tại Ấn Độ. Vào năm nào thì sử không cho biết rõ; nhưng căn cứ theo năm sinh và năm tịch của Ngài Bồ Đề Tiên Na chúng ta có thể chia ra các giai đoạn như sau:

Giai đoạn một - từ năm 704-724 - Ngài Bồ Đề Tiên Na xuất giathọ giới Tỳ Kheo tại Ấn Độ.

Giai đoạn hai - từ năm 724-728 Thầy trò gặp nhau tại Ấn Độ, nhận nghĩa Thầy trò.

Giai đoạn ba - từ năm 728-730 hai Thầy trò đi bộ hoặc đi đường biển từ Ấn Độ về Lâm Ấp (Việt Nam).

Giai đoạn bốn - từ năm 730-735 đến và ở lại Ngũ Đài Sơn tại Trung Quốc để đảnh lễ Đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.

Giai đoạn năm - từ 735-752 lưu trú tại Nhật Bản để dạy tiếng Phạn và các điệu vũ Phật Giáo cũng như nhận chức Tăng Chánh từ Tông Hoa Nghiêm chùa Đông Đại và năm 752 chính thức làm Đạo Sư khai nhãn cúng dường Đại Phật tại đây.

Giai đoạn sáu - từ năm 752-760 giai đoạn cuối đời của Ngài Bồ Đề Tiên Na tại Nhật Bản.

Trên đây là cách chia theo lối nhìn của chúng tôi dựa theo lịch sử, chưa hẳn đã là đúng hoàn toàn. Tuy nhiên chúng tôi muốn dựa vào đây để làm rõ những sự kiện dã sử về Ngài Phật Triệt và tạo ra một sử thật, dựa theo năm tháng của Ngài Bồ Đề Tiên Na để điểm qua những điều quan trọng mà ngoài Ngài Bồ Đề Tiên Na đã đóng góp cho Phật Giáo Nhật Bản ra thì Ngài Phật Triết cũng đã đóng góp nhiều vấn đề không kém phần quan trọng cho Phật Giáo tại xứ nầy.

Cứ theo sử truyện bên trên thì Ngài Phật Triết đến Ấn Độ và thờ Ngài Bồ Đề Tiên Na làm Thầy. Dĩ nhiên là phải nhỏ tuổi hơn Ngài Bồ Đề Tiên Na và trai trẻ mới có đủ sức khỏe ra khơi từ Lâm Ấp để đi đến Ấn Độ. Trong sử không chép rõ Ngài Phật Triết sinh năm nào vào thế kỷ thứ 8 tại Lâm Ấp; nhưng có thể cho rằng Ngài Phật Triết nhỏ hơn Ngài Bồ Đề Tiên Na từ 5 đến 10 tuổi thì Ngài sinh độ năm 709-714 tại Lâm Ấp. Từ 15 đến 20 tuổi mới sang Ấn Độ. Lúc ấy Ngài Bồ Đề Tiên Na đã ở vào giai đoạn 2; tức giữa năm 724-728. Thời gian 4 đến 5 năm nầy để kết nghĩa Thầy trò tu họcdĩ nhiên họ nói chuyện với nhau bằng tiếng Phạn chứ không thể là một ngôn ngữ nào khác. Sau đó hai Thầy trò cùng xuống thuyền và chắc chắn phải ghé Lâm Ấp, quê hương của Ngài Phật Triết để nghỉ ngơi cũng như học hỏi thêm những điệu múa tại đây; sau đó giai đoạn bốn (730-735) đến và ở lại Trung Quốc để đảnh lễ Ngài Văn Thù. Từ năm 735 đến 752 là 17 năm họ cư trú tại Nhật Bản, dạy tiếng Phạn cho chư Tăngdĩ nhiên các Ngài phải học tiếng Nhật để đàm thoại nữa.

Năm 752 là năm khánh thành chùa Đông Đại và Ngài Bồ Đề Tiên Na ở cương vị Tăng Chánh thì Ngài Phật Triết không nhất thiết chỉ là một đệ tử theo hầu. Vì lúc đó Ngài đã trưởng thành và còn dạy tiếng Phạn cho chư Tăng cũng như Phật Tử nữa. Đến năm 760 thì Ngài Bồ Đề Tiên Na viên tịch tại Nhật, hưởng dương 57 tuổi. Trong khi đó thì không biết Ngài Phật Triệt còn ở lại Nhật bao lâu và viên tịch ở đâu. Do vậy chúng ta có thể tiên đoán rằng Ngài Phật Triệt còn ở lại Nhật Bản một thời gian dài sau đó để dạy tiếng Phạn và dạy những vũ điệu của Lâm Ấp cho người Nhật. Như vậy Sư có thể sinh vào giữa năm 609-614 và tịch vào khoảng 70. Nghĩa là năm 679 hoặc 684 chăng? Đây chỉ là giả thuyết do Tác giả tạo nên, để cho phù hợp với niên đại của Ngài Bồ Đề Tiên Na. Mong rằng về sau nầy sẽ có những sử liệu để soi sáng thêm.

Sau đây tìm hiểu một ít chứng cứ sử liệu về nước Lâm Ấp thời xa xưa đã có mặt trên bản đồ của thế giới; nhưng ngày nay thì không còn nữa.

“Lâm Ấp quốc là tên một nước xưa nằm ở đông bộ bán đảo Trung Nam, nay là vùng Trung và Nam bộ Việt Nam.

Vùng đất nầy vốn là căn cứ địa của dân tộc Chàm. Nhà Tây Hán đặt huyện Tượng Lâm, quận Nhật Nam, gọi là Tượng Lâm Ấp, gọi tắt là Lâm Ấp. Vào những năm cuối đời Đông Hán, có người tên là Khu Liêu, giết quan huyện, tự xưng là Lâm Ấp quốc vương. Từ đời nhà Tấn về sau, Lâm Ấp thường triều cống Trung Quốc. Khoảng năm Đại Nghiệp đời Tùy (605-616), tướng nhà Tùy là Lưu Phương đánh chiếm nước nầy đặt làm quận Lâm Ấp. Khoảng năm Chí Đức (756-757) đời Đường, đổi tên là Hoàn Vương, đóng đô ở Chiêm Thành (Cham thanh). Vì thế Lâm Ấp còn được gọi là Chiêm Ba (Champa); Chiêm Bà, Ma Ha Chiêm Ba, Chiêm bất lao (Champrura). Vào năm Thuần Hóa thứ 2 (791) đời Bắc Tống, vị Sa Môn nước nầy tên là Tịnh Giới đến Trung Quốc dâng ngọc như ý, chuông đồng và hương Long não.

Ngoài ra, cứ theo văn bia Nhật Bản, Nam Thiên Trúc Bà La Môn Tăng Chánh và Đại An tự Bồ Đề truyền lai ký trong Đông Đại tự (Todaiji) yếu lục quyển 2 ghi chép, thì vào năm Khai Nguyên thứ 18 (730) đời Đường Sa Môn nước Lâm Ấp tên là Phật Triết (Phật Triệt) cùng đi với Ngài Bồ Đề Tiên Na đến Nhật Bản, truyền vào vũ điệu Bồ Tát, Bạt Đầu, Nhạc Lâm Ấp, v.v… Đến đời Minh, Chiêm Thành bị Việt Nam thôn tính. Vào năm Quang Tự 12 (1886) thì trở thành thuộc địa của nước Pháp.

Phật Giáo được truyền vào Chiêm Thành thời nào không được rõ. Nhưng theo Tùy thư Nam man liệt truyện thứ 47, thì phần đông nhân dân nước nầy tin theo Phật Giáo, văn tự giống như văn tự Thiên Trúc (Ấn Độ). Còn cựu Đường thư Nam man liệt truyện quyển thứ 147 cũng cho biết, nhân dân đặc biệt tin Phật Pháp và rất nhiều người xuất gia. Như vậy ta có thể suy đoán trước thời Tùy, Phật Giáo đã được truyền vào Chiêm Thành rồi.

Ngoài ra, cứ theo Nam Hải ký quy nội Pháp truyện quyển 1, thì tại Chiêm Thành Phật Giáo Tiểu Thừa, đặc biệtKinh Lượng Bộ, rất thịnh hành”. (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 2731-2732).

(Xem Đại Đường Tây Vức ký quyển 10; Đại Đường cầu pháp Cao Tăng truyện quyển hạ; Phật Tổ thống ký quyển 42; Lương thư Chư dị biệt truyện thứ 48).

Căn cứ vào những sử liệu có thật của Trung QuốcNhật Bản bên trên thì có hai Thầy trò người Thiên Trúc tên là Bồ Đề Tiên Na và người Lâm Ấp (Việt Nam) tên là Phật Triết đã xuất hiện vào thế kỷ thứ 8. Tuy niên đại đến Trung QuốcNhật Bản có sai khác đôi chút; nhưng vào năm 752 tại chùa Todaiji ở Nara vẫn là một sự kiện lịch sử có thật và hai Thầy trò của Ngài đã đóng góp một vai trò chủ chốt trong lễ Khai Nhãn cúng dường tượng Đại Phật tại đó.

Theo sử thì người Trung Quốc gọi những dân tộc Nam Phương như: Việt Nam, Chiêm Thành, Thái Lan là Nam man; nghĩa là giống dân man di mọi rợ đến từ phía Nam. Còn các nước như Tây Vức, Mông Cổ v.v… là Tây Hồ; tức là những dân tộc kém văn hóa ở phía Tây. Nếu là Nam man mà làm được Tăng Chánh, chức nầy gần như là Quốc Sư của Triều đình Nhật Bản lúc bây giờ, quả thật nước Ấn Độ và Lâm Ấp cũng đáng nở mặt nở mày đấy chứ.

Từ thế kỷ thứ 15 trở đi, cả dãy đất miền Nam từ Quảng Nam trở xuống đều bị dân tộc Việt Nam chiếm cứ; cho nên Chiêm Thành, Phù Nam, Lục Chân Lạp v.v… đã trở thành quê hương của người Việt. Do vậy người Việt Nam cũng có thể nói rằng Ngài Phật Triết cũng là người Việt Nam, người có công rất lớn trong thời gian đầu mang những lễ nhạc, các điệu vũ và tiếng Phạn đến dạy cho dân chúng cũng như chư Tăng tại đây. Điều quan trọng là mãi cho đến thế kỷ thứ 21, chùa Todai vẫn còn tại Nara và những bài múa nhân lễ Vu Lan từ Lâm Ấp truyền đến Nhật vào thế kỷ thứ 8 vẫn còn biểu diễn trong những ngày lễ trọng đại của Phật Giáo Nhật.

Ba, bốn quốc gia có mặt trên bản đồ thế giới từ những thế kỷ đầu dương lịch. Thế mà đến thế kỷ thứ 15 trở đi, không còn sót lại một chút dấu vết nào trên bản đồ thế giới, quả là một việc thương tâm; nhưng cái mất, cái được lâu nay vẫn là chuyện thường tình trên thế gian nầy. Chỉ mong rằng những người cầm quyền và con cháu của các dân tộc nầy nếu còn tồn tại đâu đó cũng nên lấy một ngày nhất định để tưởng niệm về Tổ Tiên dòng giống của họ. Đây là điều nên làm dầu cho chính thể hay triều đại nào cũng nên nghĩ tới.

Ngày nay những thế hệ trẻ sinh ra sau nầy khi nói đến nước Lâm Ấp, Chàm, Phù Nam, Lục Chân Lạp v.v… họ không biết là những nước nào, và nằm ở đâu. Nhưng ngày nay nhờ các chứng cứ sử liệu của đời trước để lại, chúng ta đã rõ ràng như ban ngày và từ đó mỗi người trong chúng ta tự phải có bổn phận đối với quê hương đất nước của mình.

Ngài Giám Chân Hòa Thượng (687-763) người Trung Quốc cũng đã mang Luật Tông truyền vào Nhật Bản vào năm 753 và tiếp đó có nhiều chư Tăng từ Nhật Bản sang Trung Quốc du học và sau khi thành tựu những pháp tu, các Ngài về lại Nhật Bản mở các đạo tràng để cho dân chúng và Tăng Ni tu học.

 

A.- Ngài Nguyên Tín (Genshin) và Tư Tưởng Tịnh Độ

“Ngài sinh năm 942 và viên tịch năm 1017. Là Cao Tăng Nhật Bản thuộc tông Thiên Thai, Tổ của dòng Huệ Tâm, thường gọi là Huệ Tâm Tăng Đô, người Đại Hòa (huyện Đại Lương).

Sư lên núi Tỷ Duệ thờ Ngài Lương Nguyên làm Thầy, học rộng nhớ dai, được nhiều người kính phục. Về sau, Sư sáng lập ra dòng Huệ Tâm rất có thế lực.

Tác phẩm của Sư có đến hơn 70 bộ 150 quyển, trong đó, nổi tiếng hơn cả là Nhất Thừa yếu quyết, Vãng Sanh yếu tập, Quán Tâm Lược yếu tập… đều được thu vào Huệ Tâm Tăng Đô toàn tập.

Ngoài ra, trong những sách về mỹ thuật Tịnh Độ giáo, tương truyền có rất nhiều tác phẩm của Sư; nhưng không có chứng cứ để khảo sát.

thị tịch vào niên hiệu Khoan Nhân năm đầu (1017) hưởng thọ 76 tuổi. (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 3534).

(Xem Thủ Lăng Nghiêm viện Nguyên Tín Tăng Đô truyện; Huệ Tâm Tăng Đô hành trạng ký; Đại Nhật Bản quốc Pháp Hoa kinh nghiệm ký quyển hạ).

 

Ngài Nguyên Tín được Tịnh Độ Chơn Tông Nhật Bản tôn xưng là Đệ nhất Tổ. Tuy rằng thời gian kế tiếp cả hơn 200 năm sau mới có Đệ nhị Tổ là Ngài Pháp Nhiên mới ra đời. Phật Giáo đồ Tông Tịnh Độ của Nhật họ hãnh diệnTịnh Độ Tông của họ có sự truyền thừa mạch lạc như sau:

- Đệ Nhất Tổ (Ngài Long Thọ người Ấn Độ)

- Đệ Nhị Tổ (Ngài Thế Thân người Ấn Độ)

- Đệ Tam Tổ (Ngài Đàm Loan người Trung Quốc)

- Đệ Tứ Tổ (Ngài Đạo Xước người Trung Quốc)

- Đệ Ngũ Tổ (Ngài Thiện Đạo người Trung Quốc)

- Đệ Lục Tổ và cũng là Sơ Tổ của Tịnh Độ Tông Nhật Bản (Ngài Nguyên Tín người Nhật)

- Đệ Thất Tổ và cũng là Đệ Nhị Tổ của Tịnh Độ Tông Nhật Bản (Ngài Pháp Nhiên người Nhật)

- Đệ Bát Tổ và cũng là Sơ Tổ của Tịnh Độ Chơn Tông Nhật Bản (Ngài Thân Loan người Nhật).

 

Nhưng theo Tiểu Sử của Ngài Nguyên Tín ở trên, chúng ta thấy Ngài tu theo phái Thiên Thai ở núi Tỷ Duệ. Vậy phái Thiên Thai là phái gì và tư tưởng của Ngài Nguyên Tínảnh hưởng gì với Tịnh Độ?

“Tông Thiên Thai Nhật Bản thì tôn Truyền Giáo Đại Sư Tối Trừng làm Sơ Tổ. Sư từng đến Trung Quốc vào đời Đường thụ pháp nơi các vị đệ tử Ngài Trạm Nhiên như Đạo Thúy, Hành Mãn… Sau khi trở về Nhật Bản, Sư khai sáng yếu chỉ nhất trí giữa 4 Tông: Viên Giáo, Thiền, Viên GiớiMật Giáo ở núi Tỷ Duệ, khác với Tông Thiên Thai của Trung Quốc. Rồi đệ tử của Ngài Tối Trừng là Sư Viên Nhânđệ tử của Ngài Nghĩa Chân là Sư Viên Trân cũng lần lượt đến Trung Quốc vào đời Đường thờ các Ngài Tông Dĩnh, Lương Tư làm Thầy, học giáo pháp Thiên Thai, lại còn thụ học các pháp bí yếu của 3 bộ Kim, Thai, Đại Pháp Tô Tất Địa và các kinh quảng tân dịch, làm cho giáo học Mật Giáo Thiên Thai được phát triển phổ biến. Đến thời Ngài An Nhiên thì tông Thiên Thai của Nhật Bản đã được Mật Giáo hóa một cách cực đoan.

Thiên Thai thống trị một tông; nhưng đến các Ngài Viên Nhân, Viên Trân trở đi thì pháp hệ tách ra làm hai. Đồ chúng của Ngài Viên Trân đi ra khỏi núi Tỷ Duệ, trụ ở chùa Viên Thành (Chùa Tam Tỉnh) gọi Tự Môn; núi Tỷ Duệ thì gọi là Sơn Môn. Sơn Môn đến thời Ngài Lương Nguyên, giáo học lấy Viên Giáo sẵn có làm tông chỉ, các đệ tử ưu tú xuất hiện rất đông và thế lực tông nầy nổi lên khá mạnh. Đệ tử Ngài Lương NguyênNguyên Tín thì cổ xúy tư tưởng Tịnh Độ, lập ra dòng Huệ Tâm; một vị đệ tử khác là Giác Vận thì lập dòng Đàn Na; gọi chung là “Huệ Đàn Nhị Lưu” (Hai dòng Huệ Đàn). Cộng chung, hệ thống Thai Mật (Mật Giáo thuộc Tông Thiên Thai) đến đời sau,có tất cả 13 dòng phái thuộc Tông Thiên Thai. Đến cuối thời kỳ Bình An về sau thì các dòng phái thuộc Tông Thiên Thai nói trên dần dần xem trọng khẩu truyền, do đó sinh ra chủ trương “khẩu truyền pháp môn”. Trái lại, phương tiện giáo học thì dần dần suy vi. Ngoài ra, sự vùng dậy của tăng binh, sự tranh cướp của chính quyền, cộng với việc đốt phá của Chức Điền Tín Trường… đều đã góp phần đưa núi Tỷ Duệ đến thời sụp đổ. Cho mãi đến thời đại Giang Hộ, núi Đông Duệ, núi Nhật Quang lần lượt được khai sáng mới phục hồi được sự hưng thịnh như xưa. Lại nhờ Mạc Phủ đương thời khuyến khích việc học vấn nên giáo học cũng dần dần phục hưng. Hiện nay có các Tông Phái như: Tông Thiên Thai (chùa Diên Lịch, núi Tỷ Duệ); Tông Thiên Thai Tự Môn (chùa Viên Thành); Tông Thiên Thai Chân Thịnh (chùa Tây Giáo) …

Giáo nghĩa của Tông Thiên Thai có thể lược chia ra các khoa: Tam Đế viên dung, Nhất niệm tam thiên, Nhất tâm tam quán, Lục Tức… Tông nầy lại dùng 5 thời 8 giáo để phán thích Thánh giáo một đời của Đức Phật.

Từ đời Dân Quốc (1912) về sau, Thiên Thai học được phục hưng nhờ sự nỗ lực của Đại Sư Đế Nhàn (1858-1932), Ngài sáng lập Quán Tông Nghiên Cứu Xã, chuyên môn giáo dục người học Thiên Thai, nhân tài xuất hiện rất nhiều, như các vị Tôn Túc: Nhân Sơn, Thường Tỉnh, Bảo Tỉnh, Tỉnh Tu, Đàm Hư, Thiên Định, Khả Đoan…”. (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 5764-5765).

(Xem Phật Tổ Thống Ký quyển 5-22; Thiên Thai Cửu Tổ truyện; Thiên Thai Sơn Phương ngoại chí; Bát Tông cương yếu quyển hạ; Yếu Giáo chưng thông lộ ký quyển 12). Xem thêm: Sơn gia Sơn ngoại; Ngũ thời Bát giáo; Thai Mật; Tam Đế; Nhất Niệm; Tam Thiên; Nhất Tâm Tam Quán; Lục Tức).

Sở dĩ phải trích lại đoạn trên có liên hệ với Tông Thiên Thai, vì lẽ ngay từ ban đầu núi Tỷ Duệ vẫn là nơi phát xuất 4 tông phái chính gồm: Viên Giáo, Thiền, Viên GiớiMật Giáo. Từ Viên Giáo, Ngài Lương Nguyên phát triển mạnh. Đệ tử Ngài Lương Nguyên là Ngài Nguyên Tín lại cổ xúy Tịnh Độ riêng biệt và từ đây trở thành tư tưởng chính của Ngài Nguyên Tín. Vì thế Tịnh Độ Tông Nhật Bản suy tôn Ngài là Đệ Nhất Tổ.

Ngài Nguyên Tín có bộ “Vãng Sanh yếu tập” làm tông chỉ cho sự tu hành; nên đây cũng có thể nói là tư tưởng về Tịnh Độ chính yếu thuở ban sơ ấy.

“Vãng Sanh yếu tập là một tác phẩm gồm 3 quyển; hoặc mỗi quyển chia phần đầu, phần cuối, cộng chung là 6 quyển, do Ngài Nguyên Tín, vị Tăng Nhật Bản soạn (984-985), được thu vào Đại Chánh Tạng tập 84.

Sách nầy được biên soạn theo thể tài vấn đáp, gom chép ý nghĩa vãng sanh trong hơn 160 bộ kinh điển, được chia ra làm 10 môn:

- Chán lìa cõi uế

- Thích cầu Tịnh Độ

- Chứng cứ Cực Lạc

- Niệm Phật chính tu

- Phương pháp trợ niệm

- Biệt thời niệm Phật

- Sự lợi ích của sự niệm Phật

- Chứng cứ của việc niệm Phật

- Các nghiệp vãng sanh và chọn lựa hỏi đáp.

 

Nhờ thấy lẽ vô thường của cuộc đời trước mắtphát nguyện sanh về Tịnh Độ; nếu muốn vãng sanh Cực Lạc thì phải xem việc niệm Phật là quan trọng nhất. Về việc niệm Phật thì lập ra 2 phương thức là Quán niệmXưng niệm. Ngài Nguyên Trí cho rằng: Quán niệm thù thắng hơn; còn Xưng niệm thì mọi người đều có thể thực hành được. (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 7059-7060).

Tư tưởng tín, nguyện, hạnh của pháp môn tu theo Tịnh Độ là một chủ trương chung, chứ không riêng biệt của một vị Sư nào. Ngay như Trung Hoa, Nhật Bản hay Ấn Độ cũng không được đặc biệt nhắc đến; nhưng khi Tông nầy được truyền sang Việt Nam; đây là một tiêu đề mà các vị giảng sư Phật học hay đề cập đến. Dĩ nhiên là nó không đi ra ngoài tôn chỉ của Tịnh Độ; nhưng nó không được một vị Tổ Sư nào chủ xướng cả.

Riêng Ngài Nguyên Tín tụng Vãng Sanh yếu tập đã làm sáng tỏ 10 vấn đề khi thực hành theo phép tu nầy và Ngài còn cho rằng pháp quán niệm nghĩa là vừa niệm Phật vừa quán tưởng thù thắng hơn. Quán tưởng ở đây có thể theo 16 phép quán trong kinh Quán Vô Lượng Thọ; hoặc giả quán cảnh giới Tịnh Độ theo kinh A Di Đà. Hành giả nào quán niệm được như vậy mới thù thắng. Còn xưng danh hiệu Phật và niệm lên thành tiếng thì ai cũng có thể thực hành được. Bất kể trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi gì con người tu theo Tịnh Độ cũng có thể hành trì một cách dễ dàng.

Ngài Nguyên Tín gom chép và biên soạn quyển “Vãng Sanh Yếu Tập” nầy trong hơn 160 bộ kinhliên quan về vấn đề Tịnh Độ thì phải nói rằng: Đây là một công trình nghiên cứu đồ sộ nhất, qua sự thể nghiệm bản thân của chính Ngài.

Đầu tiên là “chán lìa cõi ô uế”. Vì sao vậy? Vì đối lại với Tịnh Độ là cõi dơ uế. Cõi ấy chính là cõi 5 trược ác thế nầy. Nơi đây kẻ thân, người thù; kẻ giàu, người nghèo; kẻ trí, người ngu; kẻ ác, người hiền thường hay sống chung đụng với nhau trong một nhà, một xã hội, một quốc gia v.v… nên đã xảy ra không biết bao nhiêu là oan gia trái chủ. Do vậy phải có tâm chán ngánphát tâm lìa khỏi thế giới nầy sau khi mạng chung để sanh về thế giới Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà. Nơi ấy sẽ không còn ân, không còn oán, không còn sầu, không còn già, không còn chết nữa, thì làm gì có luân hồi sanh tử, để con người phải khổ đau tục lụy?

Điều thứ hai là ưa cầu sanh về Tịnh Độ. Khi đã có mục đích rõ ràng, thì hành giả cứ thế mà nhắm hướng lên đường. Con đường giải thoát sanh tử ấy Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã chỉ dẫn rõ ràngĐức Phật A Di Đà đang đứng chờ đợi chúng ta nơi ngưỡng cửa Tây Phương Cực Lạc ấy. Nếu ai vui ưa thì có thể xuống thuyền Bát Nhã để vượt sông mê và nương vào ánh sáng Vô Lượng Quang ấy để lần về giải thoát.

Điều thứ ba là chứng cứ Cực Lạc. Cõi nầy tự mắt phàm của chúng ta chẳng thấy được; nhưng qua lời dạy của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni qua kinh A Di Đà, kinh Vô Lượng Thọkinh Quán Vô Lượng Thọchúng ta tin rằng có một thế giới như vậy. Việc nầy do Đức Phật Thích Ca nói ra. Chúng ta tin tưởng tuyệt đối nơi Ngài, vì Ngài chẳng bao giờ nói lời hư dối với chúng sanh

Điều thứ tư là niệm Phật chính tu. Ai tu theo pháp môn nầy thì việc niệm Phật là việc chính của sự tu hành. Có thể niệm thành tiếng; cũng có thể niệm thầm; lại cũng có thể niệm trong vô niệm; hay ngồi trước tượng Phật để quán tưởng rồi niệm. Ngày xưa chưa phát minh ra tràng hạt thì niệm bằng cách bỏ hạt đậu vào trong hũ hay lấy hạt đậu từ hũ ra và căn cứ vào đó để đếm số. Ngày nay cả máy điện tử cũng có thể dùng cho việc nầy. Vì trong hiện tại có nhiếu cách tính đếm rất là tiện lợi.

Điều thứ năm là phương pháp trợ niệm. Một người sắp lâm chung, phải để thi thể họ chỗ thông thoáng, đầu xoay về hướng Bắc; mặt xoay về hướng Tây. Bên trên đầu của họ nên để một hình hay tượng Phật. Những người trợ niệm nên niệm lớn cho người sắp lâm chung nghe được để khiến cho người ấy chỉ tập trung nơi câu Phật hiệu A Di Đà, chờ Phật đến tiếp dẫn về Tây Phương; không còn việc gì khác phải bận tâm nữa. Trước giờ phút lâm chung, trong khi trợ niệm chư Tăng, Ni hay người thân cũng chỉ nên nói những điều vui, những việc tốt của người sắp mất, để thần thức của họ thấy cao hơn khi lìa thể xác; không nên nói cái gì vấn vương, buồn tẻ hay khổ đau cho họ nghe, hoặc giả cũng đừng nên chọc họ giận tức qua những người họ không ưa mà đến trợ niệm, có thể khiến cho họ dễ đi vào cõi thấp hơn. Điều ấy với những người trợ niệm cần nên lưu ý.

Điều thứ sáu là biệt thời niệm Phật. Nghĩa là niệm Phật trong một thời gian nhất định nào đó. Có thể là trong một ngày niệm mấy lần hay trong một tuần lễ, 14 ngày, 21 ngày, 49 ngày v.v… Biệt thời niệm Phật trở thành Thời Tông của Phật Giáo Nhật Bản sau nầy do Ngài Nhất Biến chủ xướng. (1239-1289).

Điều thứ bảy là sự lợi ích của sự niệm Phật. Khi chúng ta niệm Phật thì miệng đọc câu Phật hiệu, tâm nhớ nghĩ đến Đức Phật A Di Đà hoặc cảnh giới Tây Phương Cực Lạc, tay lần tràng hạt v.v… Như vậy thân, khẩu, ý đều thanh tịnh; khiến ta khó suy nghĩ hay thực hành những việc ác. Niệm quen trở thành thuần thục. Đây là một phản xạ có điều kiện, khi câu Phật hiệu được nghe đến bên tai mình. Do vậy, niệm Phật là một điều lợi ích vô cùng, khi còn sống cũng như khi lìa trần.

Điều thứ tám là chứng cứ của việc niệm Phật. Gương niệm Phật của người xưa để lại quá nhiều. Từ Tăng, Ni cho đến tục gia Phật Tử. Nhiều người đã vãng sanh nhờ niệm Phật. Đây là những chứng cứ để người đời sau theo đó mà tu hành. Vi dụ như người niệm Phật thường hay biết trước giờ lâm chung; khi chết thân thể mềm mại, thơm tho. Có ánh sáng từ Tây Phương rọi đến; trong nhà có mùi thơm; người chết hơi ấm còn tồn tại nơi đỉnh đầu v.v… Đây là những bằng chứng là hành giả niệm Phật ấy có thể vãng sanh.

Điều thứ chín là đới nghiệp vãng sanh. Cõi Tây Phương Cực Lạccõi Phàm Thánh đồng cư Tịnh Độ; nên người đồ tể buông dao, có thể thành Phật cũng là chuyện thường tình. Vì trong kinh Quán Vô Lượng Thọ cách quán thứ 16 về Hạ Phẩm Hạ Sanhcho biết rõ về điều nầy. Nói tóm lại, pháp môn niệm Phật; nếu ai tin ưa, bất kể là người hiền, kẻ ác đều được tái sanh về cõi giới Cực Lạc.

Cuối cùng là việc chọn lựa hỏi đáp. Ngài Nguyên Tín khuyên người Niệm Phật nếu có nghi ngờ điều gì thì nên tạo ra những nghi vấn và đem điều nghi vấn nầy đến những bậc thông thái, lão luyện trả lời cho. Từ đó không còn thắc mắc nữa, khiến cho con đường tu học, niệm Phật của hành giả không có gì có thể gây ra chướng ngại được.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31734)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10553)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11268)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12791)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10846)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16731)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10840)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 23017)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12086)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11529)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10733)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12378)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11219)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10056)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10341)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11951)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10727)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12404)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9851)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11306)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13869)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9606)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12674)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9722)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10493)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10606)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10360)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9946)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11082)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12034)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10176)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10810)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9580)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9933)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8824)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9528)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14566)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8794)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12581)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10451)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9120)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10591)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9362)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8826)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10546)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9244)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8389)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12074)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9727)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10238)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10258)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19189)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9446)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 9011)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9603)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9033)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14801)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10120)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8383)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8969)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 9004)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8765)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9397)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14644)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9059)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8807)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9064)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10564)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8668)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 10030)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24337)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10210)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11068)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9045)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9512)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8029)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9295)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15392)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10357)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9606)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17486)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21463)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12194)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10260)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19315)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26094)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 8004)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14850)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10664)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11387)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9556)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18741)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12395)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11924)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10785)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13365)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10024)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9292)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9417)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15940)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant