Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

02. Sự hình thành Phật Giáo Tịnh Độ tại Ấn ĐộTrung Quốc

20 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 8100)
02. Sự hình thành Phật Giáo Tịnh Độ tại Ấn Độ và Trung Quốc

Những bản văn căn bản của
PHẬT GIÁO TỊNH ĐỘ (A Di Đà) NHẬT BẢN

Nguyên tác Đức Ngữ: Christian Steineck

HT Thích Như Điển: dịch từ bản tiếng Đức ra tiếng Việt
so sánh với tiếng Nhật

II. Dẫn nhập

2. Sự hình thành Phật Giáo Tịnh Độ tại Ấn ĐộTrung Quốc

Khởi nguyên của sự tín ngưỡng Đức Phật A Di Đà xuất phátẤn Độ. Được biết bên cạnh Đức Phật lịch sử Thích Ca (Khoảng 450 - khoảng 370 trước Tây Lịch) ngay như theo truyền thống Tiểu Thừa còn biết đến Đức Phật Nhiên Đăng (Dipankara) như là vị Phật ở thời quá khứĐức Phật Di Lặc sẽ là vị Phật đến thế giới nầy trong tương lai. Được biết rằng mỗi một khoảng thời gian như vậy chỉ có một vị Phật hiện thân trong thế giới nầy. Về sau nầy trong khuôn khổ của Phật Giáo Đại Thừa được phát triển, dưới cái nhìn với nhiều vũ trụ ở trong nhiều thế giới, được mở rộng ra ở vô biên phương không cùng tận. Người ta tin rằng, cũng như vậy có vô số chư Phật và các Ngài đang hiện hữu trong một phần của thế giới nầy. Người ta phân biệt giữa thế giới thanh tịnhthế giới không thanh tịnh. Theo niềm tin tưởng nầy thì thế giới Tịnh Độ phải qua sự tích tụ những nghiệp tốt mà một Đức Phật tích chứa qua con đường giác ngộ. Ở cõi ấy tất cả chúng sinh được sinh sống và chính họ sẽ được đi đến con đường giác ngộ. Thế giới bất tịnh cũng là thế giới tự nhiên, trong đó chúng sinh có tất cả những điều tốt và ngay cả điều xấu, hạnh phúc cũng như khổ đau. Nên Tịnh Độmục đích mong ước tìm đến của những tín đồ; bởi vì được sinh ra ở nơi đó không có dấu hiệu của sự khổ đau hay một cuộc sống hạnh phúc, mà cũng là một con đường không cần cố gắng để đi đến điểm cao nhất của sự giác ngộ.

Trong sự liên hệ của việc giới thiệu thế giới với sự hiện hữu của việc quy ngưỡng Đức Phật A Di Đà (Ánh sáng vô lượng) hay vị có đời sống không giới hạn; những chữ nầy với tên gọi bằng tiếng Phạn; nhưng tiếng Nhật thì đọc là Amida cho đến đầu kỷ nguyên ở miền Tây Bắc Ấn Độ, có lẽ bị ảnh hưởng bởi giáo lý bái hỏa giáo của Iran. Chẳng bao lâu sau thì Đức Phật A Di Đà được tin tưởng như là một trong năm vị Phật của Phật Giáo Đại Thừa, mà một bậc giác ngộ không thể phân ly được cảnh giới tuyệt đối của chư Phật với sự hóa thân trong hiện tại kia. Năm vị nầy ở một phương đã định trước và đồng thời tượng trưng cho một ý nghĩa của chư Phật. Bởi vì tín ngưỡng A Di Đà được phát triển từ miền tây Ấn Độ và điều ấy liên kết với phương hướng nầy; quốc độ ấy về sau trở thành biểu tượng của “cõi nước Tịnh Độ Phương Tây”. Đặc điểm của Đức Phật ấy là có lòng từ bi vô lượnghiện thân đặc biệt của Đức Phật A Di Đà. Trong lúc niềm tin nơi Đức Phật A Di Đà còn tồn tạiẤn Độ, cũng có thể nói là còn giữ lại ở khắp nơi, thì đặc biệt văn hóa ở ngoài xứ Tây Bắc đã phát triển một sự tôn thờ “Đức Phật Vô Lượng Thọ”. Việc thờ phượng đặc thù nầy trải dài ở Trung Á, Trung Quốc và sau nầy được phát triển ở Nhật Bản, trở thành một hướng tin độc lập của “Phật Giáo Tịnh Độ”.

Nội dung căn bản kia là nằm trong ba kinh tương đối ngắn (văn tự) căn bản gồm: Đại Vô Lượng Thọ Kinh; Kinh Tiểu Bản A Di ĐàKinh Quán Vô Lượng Thọ. Kinh Vô Lượng Thọ có lẽ là kinh có văn tự cũ nhất trong ba kinh. Nội dung diễn tả về việc thệ nguyện của Đức Phật A Di Đàquốc độ của Ngài, mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trả lời cho câu hỏi của đệ tử A Nan. Đức Phật kể lại về lịch sử của Phật A Di Đà đến Phật quả. Ở vào một thuở xa xưa, Ngài là một vị Bồ Tát (Nghĩa là sẽ thành Phật khi đã giải thoát cả vũ trụ), với tên là Pháp Tạng, Ngài đã tìm ra một con đường để cứu tất cả chúng sanh để đi đến sự giác ngộ. Với mục tiêu nầy Ngài đã lập lời thệ nguyện, rằng: chỉ khi nào chứng được ngôi chánh giác và khi Ngài thành Phật thì quốc độ sẽ được an bìnhhạnh phúc; ở nơi ấy là điều kiện dễ dàng nhất để được thành tựu giác ngộ.

Ở nơi ấy chẳng hề có những hình thức tồn tại xấu ác như (chúng sanhcõi địa ngục, súc sanhngạ quỷ - lời nguyện thứ nhất) mà cũng chẳng phải lo sợ trở lại ác đạo kia. Tất cả những chúng sanh của cõi đó sống hoàn toàn với sắc đẹp với trí tuệ vẹn toàn, cũng như có khả năng thần thông biến hóa và nơi đó được miêu tả gồm toàn là những vị Bồ Tát (lời nguyện thứ 3 đến thứ 9). Ngoài racõi nầy đẹp đẽ và những việc cần thiết cho con đường đi đến giác ngộ, chúng sanh ở nơi đó có tất cả. Đặc biệt được nhấn mạnh rằng nơi ấy không còn cảnh chết chóc ngự trị và được chiếu sáng bởi ánh sáng vô lượng quang của Đức Phật.

Điều đặc biệt cõi Cực Lạc nầy khác với những cõi Phật khác, là ở nơi đây ai cũng có thể vãng sanh đến được, nếu họ chí tâm muốn tái sanh về đó (ngoại trừ nhóm bị trọng tội). Căn cứ theo bản kinh cổ xưa của Ấn Độ, người ta phải chí tâm trong mười niệm về cảnh giới của Đức Phật A Di Đàhồi hướng tất cả công đức trong cuộc sống cho việc vãng sanh về cảnh giới Cực Lạc để thật sự đạt được mục đích sanh về đó (lời nguyện thứ 19). Sau nầy trong những bản dịch bằng chữ Hán cả hai điều kiện nầy đã trở thành trong 2 lời thề nguyện khác nhau; như thế thì với cách diễn tả ấy chỉ cần 10 niệm nhất tâm là đủ để sanh về thế giới của Đức Phật A Di Đà.

Phần thứ hai của Kinh Đại Bản Di Đà được cho biết rằng: Ngài Pháp Tạng Bồ Tát thực sự đạt được mục đích ấy và Ngài đã trở thành Đức Phật A Di Đà với sự thực hiện tất cả những lời nguyện của Ngài. Vẽ trang nghiêm của quốc độ cuối cùng đã được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni một lần nữa tán thán nhiều.

Trong kinh tiểu bổn Di Đà thành hình sau nầy thì điểm chánh nằm nơi sự mô tả cõi giớinhân dân ở nước Cực Lạc ấy. So với Đại Bản có nhiều điểm thay đổi trọng yếu như sau:

Thứ nhất là Đức Thích Ca Mâu Ni tự thuyết giảng không qua lời thưa thỉnh của những đệ tử Ngài, mà bắt đầu do chính Ngài nói về cảnh giới của Đức Phật A Di Đà. Vì vậy sau nầy trong Phật Giáo Tịnh Độ được cho rằng Đức Thích Ca Mâu Ni đã nhấn mạnh điểm chính trong giáo lý của Ngài nơi đây; và như vậy niềm tin Đức A Di Đà đã ngự trị ưu tiên trên tất cả những giáo lý khác của Phật Giáo ban đầu.

Điểm thứ hai được thấy ở trong kinh nầy là sự liên hệ rõ ràng qua việc đề cập đến thời gian hữu hạn, mà việc nầy có lẽ được đón nhận từ không gian của Á Rập. Theo tư tưởng nầy thì thế giới đang trong tình trạng tiếp tục suy tàn, trong ấy con người không có khả năng để nhìn nhận sự thật và thay đổi được cuộc đời của họ.

Điều thứ ba trong kinh nhấn mạnh rằng con người chẳng thể qua công đức tự có của mình, mà phải nương theo lòng từ của Đức Phật A Di Đà để được sanh về thế giới của Ngài. Con người có thể được bảo đảm qua lời thệ nguyện nầy; ở trong ấy chỉ chuyên niệm danh hiệu của Ngài và để cầu Ngài giúp đỡ. Qua điều nầy kinh đã rời khỏi tư tưởng Phật Giáo ban đầu; nghĩa là sự giải thoát ấy không phải đến từ bên ngoài mà qua sự chứng ngộ đầy đủ bên trong cũng như lý trí trong sự chứng thật của mọi việc.

Quyển kinh thứ ba có thể chẳng phải được hình thành tại Ấn Độ, mà được thành hìnhTrung Quốc. Tuy vậy những tín đồ vẫn tin rằng đây là lời của Đức Phật diễn tả 16 loại thiền định của Đức Phật Vô Lượng Thọ; qua đó sự quán tưởng đến Ngài cũng như quốc độ của Ngài rất được hoan nghênh. Sự quán tưởng nầy giúp cho con ngườinăng lực, Tuy gặp phải những chướng duyên; nhưng cũng có thể sống theo luân lý của Đức Phật. Kinh nầy cho rằng việc vãng sanh về Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà lệ thuộc vào một cách sống như trên.Ý nghĩa đặc biệt của sự quán tưởng đến Đức Phật là một phần trong lời dạy của kinh nầy, tuy nhiên Đức Thích Ca Mâu Ni đã chẳng hướng sự chú ý cho đệ tử của Ngài, mà dành cho Hoàng Hậu Vi Đề Hy; người bị chính con của mình giam vào ngục thất. Bà là sự tượng trưng cho sự đau khổ quá nhiều của con người, mà chẳng có một năng lực tinh thần nào có thể cứu khỏi. Bởi vì những người đàn bà, theo cái nhìn trong kinh nầy, là những người thua kém và bị những người đàn ông xem thường. Điều mà Đức Thích Ca Mâu Ni trực tiếp dạy cho bà Vi Đề Hy và sau nầy Ngài dạy cho tất cả mọi người hướng về phía Đức Vô Lượng Thọ, mà những người ấy không tự lực để giác ngộ cho chính mình.

Bên cạnh ba kinh bên trên, về sau trên con đường phát triển về Tịnh Độ Giáo còn có 2 kinh được rút ra từ hoàn cảnh của Ấn Độ nữa, viết đầy đủ uy tín thuộc Phật Giáo Đại Thừa. Trong đó có quyển “Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận (luận về sự giác ngộ qua 10 địa vị của Bồ Tát)”. Đây chính là những lời dạy nổi tiếng của Ngài Long Thọ thuộc miền nam Ấn Độ.

Long Thọ (dường như sống vào khoảng 150–250 sau Tây Lịch) là một trong những triết giatư tưởng định hướng. Ngài phát triển giáo nghĩa Trung Đạo giữa ý tưởng của tính chất thực tế theo kinh nghiệm như là thực tại và sự giảm thiểu để đi đến tính không tuyệt đối. Sự vật chẳng những có thật mà còn là sự trống không. Chúng có đó nhưng lại “trống rỗng”. Nghĩa là chúng chẳng có thực tướng riêng lẽ; chẳng một chúng sanh nào mà nằm ngoài nhân duyên sanh diệt trong thế giới nầy. Triết học biện chứng luận của Long Thọ đã có thẩm quyền cho nhiều tông phái của Đại Thừa.

Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận nầy nay chỉ còn bản văn chữ Hán (và trong nầy thì không rõ ràng như bản chính), hướng về với nhiều con đường khác nhau để có thể tiến tới quả vị Bồ Tát nhằm được giác ngộ. Tác giả giải thích nhiều cách khác nhau để có thể dễ thực hành, trong đó chứa đựng cả sự hứa khả chắc chắn của một vị Phật cho một vị Bồ Tát và qua năng lực cất nhắc nầy sẽ tiến nhanh hơn cho việc giác ngộ. Những nhà lý thuyết của Tịnh Độ Tông về sau nầy giải thích như là một sự thanh minh. Cuối cùng tìm đến ân đức qua lời thệ nguyện của Đức Phật Di Đà để đi đến con đường tự giác ngộ, chẳng phải là con đường khó khăn mấy.

Trong khi những tác phẩm của Long Thọ còn chưa tìm ra được những sự liên quan trực tiếp về việc tôn kính Đức Phật A Di Đà, khi Long Thọ còn sống tại miền Nam xứ Ấn Độ, thì lúc ấy niềm tin A Di Đà đã phát triển ở miền Tây Bắc rồi. Điều cốt yếu là giữa hai bản văn về việc bình chú kinh Tiểu Phẩm của học giả Thế Thân ở miền Bắc Ấn Độ (thuộc thế kỷ thứ 4 hay thứ 5 sau Tây Lịch) đã được biên soạn. Đồng thời Ngài Thế Thân cũng đã viết hàng ngàn tác phẩm và về sau nầy nhiều tông phái của Đại Thừa lấy đó làm lý thuyết căn bản. Ngài đã triển khai về giáo lý “Phật Tánh” mà sau nầy hầu như tất cả những quan điểm của Nhật Bản về chúng sanh đều lấy đó làm chủ yếu và với họ tiềm lực giác ngộ có thể có được. Ngài đã bình luận nhiều bản văn căn bảnchắc chắn rằng chẳng có một lần nào biện hộ riêng cho việc tôn kính Đức Phật A Di Đà. Tuy vậy, trên thực tế Ngài đã giới thiệu về sự sùng bái Đức Phật A Di Đà qua tác phẩm: “bình chú về kinh Tịnh Độ” của Ngài. Với những người theo giáo nghĩa Tịnh Độ thì đây là sự hướng về việc giải thích cho niềm tin kia và xem Ngài Thế Thân như là một trong những vị Tổ Sư của giáo lý nầy.

Sự phát triển về niềm tin A Di Đà (phía dưới sẽ chỉ còn dùng theo tên gọi bằng tiếng Nhật) cho một sự tự chủ; ngoài ra khoảng thế kỷ thứ 5 sau Tây Lịch niềm tin ấy đã bắt đầu ở Trung Quốc. Nơi ấy được hình thành bởi Ngài Huệ Viễn (334-416) gồm một nhóm khoảng 100 người, đã tự hướng về việc thiền định qua sự hồi hướng đến Đức A Di Đà. Tuy nhiên nhóm nầy cũng bị ngưng trệ trong thời gian ngắn sau khi sư phụ của mình viên tịch.

Một đoàn thể có niềm tin vững chắc đầu tiên được hình thành vào thế kỷ thứ 6 ở miền Bắc Trung Hoa trong thời gian nầy đã bị ảnh hưởng bởi chiến tranh và nghèo đói. Tiếp đến Ngài Đàm Loan (khoảng 488–554) và Ngài Đạo Xước (562-645) đã tìm cách hình thành sự sùng bái Đức A Di Đà làm chủ yếu của sự Thánh Thiệngiáo lý giải thoát nầy chính là nền tảng cho niềm tin kia; dùng những bản văn được truyền từ Ấn Độ qua Trung Hoa làm chuẩn. Bên cạnh đó các Ngài đặc biệt lưu tâm về thời mạt pháp mà các Ngài đã tìm ra qua những kinh sách đã có trước ở Ấn Độ và những điều ấy đã giúp cho họ miêu tả rõ ràng trong thời gian riêng lẽ nhất định. Họ quan niệm rằng, con người sống dưới bất cứ hoàn cảnh nào, khi đã bị hận thùtham vọng chế ngự; thì họ chẳng thể tự giải thoát được. Qua lời thệ nguyện của Đức Phật A Di Đà hứa giúp đón nhận mọi người về cõi Tịnh Độ và được vãng sanh; điều ấy cho họ thấy chỉ còn một con đường cứu giúp duy nhất là có thể. Từ lý do nầy mà các Ngài đã giải thích rằng niềm tin kính tất cả các vị Phật khác là phụ, nếu nói cách khác là chẳng tốt và đặc biệt sùng bái Đức Phật A Di Đàvị trí cao nhất.

Tác phẩm chính của Đàm Loan là “vãng sanh luận chú” cũng như “Tịnh Độ Luận Chú” đã là những giải thích từ kinh Tiểu Bản A Di Đà qua sự giải thích cũng như viết lời bình luận của Ngài Thế Thân. Ở đó trên hết Ngài đã nhấn mạnh về lời thệ nguyện của Đức Phật A Di Đà với mọi người cũng như những tội lỗi đã có sẵn cũng có thể thành tựu, được sanh về nơi quốc độ của Ngài. Như vậy Ngài (Đàm Loan) đã đặt viên đá đầu tiên cho sự chuyển hướng của một Tôn Giáo; đặc biệt cho những tín đồ có sức lôi cuốn lớn mạnh hơn, bởi vì với họ, con đường giải thoát đã được mở ra.

Đàm Loan khuyên 5 việc cho người thực hành sùng bái nơi Đức Phật (niệm Phật) đó là: Lễ bái Đức A Di Đà với lời mong cầu được sanh về thế giới của Ngài; tán thán ca ngợi danh hiệu của Ngài; phát lời thệ nguyện sanh về Tịnh Độ; quán tưởng Đức A Di Đàcảnh giới của Ngài và hồi hướng tất cả những công đức đến với tất cả chúng sanh. Với những sự thực hành đơn giản ấy mà do lòng từ vô lượng qua lời nguyện của Đức Phật A Di Đà sẽ đủ để được vãng sanh về thế giới của Ngài; bởi vì Đàm Loan đã giải thích rằng con người qua việc niệm danh hiệu của Phật A Di Đà đã được đồng nhất nối kết lại với Ngài. Danh hiệu ấy đã chứa đựng đầy đủ năng lực của Đức Phật nầy và qua sự trì danh, con người sẽ được mang đến quốc độ đó.

Tư tưởng tiếp theo của Đàm Loan là sự sanh về Tịnh Độ ấy là do tất cả ý nghĩa của sức đẩy (của Đức A Di Đà) làm cho con người có thể sanh về cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà, không qua một trung gian nào cả. Những vị được sanh về sẽ trở thành Bồ Tát với một tâm thanh tịnh và một năng lực trí tuệ siêu phàm. Như vậy không cần thiếtlý do nào mà con người hướng đến với Phật A Di Đà. Ngay cả bất cứ ai, chỉ cần nghe qua sự tường thuật lại, sự trang nghiêm của cảnh giới ấy mà cũng thấy thích thú khi vãng sanh về cõi Tịnh Độ sẽ trực tiếp thành tựu qua những cấp bậc cao nhất ở đó.

Đạo Xước thì cho đến giữa đời, lần đầu tiên Ngài mới hướng về Tịnh Độ, sau khi Ngài thấy được Ngài Đàm Loan cung kính nơi một điện thờ tại một ngôi chùa, đó là bước đầu về sự phát triển niềm tin A Di Đà dưới khía cạnh thói quen của quần chúng. Điều mà một vị Đại sư nổi tiếng đã chọn con đường đơn giản để đến sự giải thoát và chính Ngài đã gây nên ấn tượnggiáo lý mà Ngài đã noi gương theo. Điều đặc biệt quan trọng đối với Đạo Xướctư tưởng thế giới nầy đang ở thời kỳ mạt pháp. Trong tác phẩm: “An lạc tập” của Ngài đã gọi sự giải thoát qua lời nguyện của Đức Phật A Di Đà là “cánh cửa của Tịnh Độ” so với “cánh cửa giải thoát”; với cái nhìn ấy của Ngài bây giờ đã được đóng kín lại. Bởi vì qua cái nhìn của Ngài, chẳng có người nào tự có thể giải cứu được sự xấu xa tội lỗi của mình, vì họ đã bị thế giới cột chặt, mà Ngài đã chối từ qua sự cố gắng giải thoát khác; ngoại trừ dựa theo lời thệ nguyện của Đức Phật A Di Đà.

Sự sắp đặthệ thống nhất thời của giáo lý Tịnh Độ đã được hình thành qua người đệ tử của Đạo Xước là Ngài Thiện Đạo (613–681) với giáo nghĩa của Tịnh Độ ở Trung Hoa. Ngài Thiện Đạo sống ở Trường An; nơi kinh đô của nhà Đường. Ngài đã nhận được sự kính trọngHoàng Gia cũng như những vị Tăng sĩ cùng thời với Ngài. Cho nên Ngài có đầy đủ khả năng quyết định thiết lập Tịnh Độ như là sự độc tôn và được công nhận bởi niềm tin trong đạo Phật.

Tác phẩm chính yếu nhất của Ngài là “Quán Vô Lượng Thọ kinh Tứ tập sớ” (Bốn quyển sớ giải về kinh Quán Vô Lượng Thọ). Để tiếp tục phát triển về sự thực hành tin tưởng ấy, hai quyển rất quan trọng, đã hướng dẫn việc thực hiện những loại khác nhau về Thiền Định với Đức Phật A Di Đà. Thiện Đạo chính Ngài cũng đã làm sáng tỏ cho riêng mình một giá trị lớn và tạo ra một kỹ thuật quán tưởng về Đức Phật A Di Đà. Đồng thời Ngài cũng đã giải thích về tác phẩm của Ngài rằng việc trì danh niệm Phậthoàn toàn đầy đủ, để được sanh về thế giới Tịnh Độ và Ngài cũng đã tìm cách qua sự dẫn chứng nầy từ uy tín của văn tự để sắp đặt nên. Ngài còn hướng dẫn cho việc niệm Phật như là một hành động duy nhất đứng đắn và đầy đủ cho việc tái sanh về đó. Trong 5 việc thực tập mà Ngài Đàm Loan đã tuyển chọn thực hành, theo Thiện Đạo thì việc niệm Phật quan trọng hơn cả và 4 cách kia chỉ giữ vai trò hỗ trợ mà thôi.

Thiện Đạo tin rằng sự xấu ác không tránh khỏi đối với loài người. Ngay cả ai cho rằng cuộc đời trong hiện tại của họ không có tội lỗi thì theo quan điểm của Thiện Đạo cho rằng điều nầy không thật sự đúng; bởi vì trong vô lượng kiếp sống người nầy cũng đã tạo ra với tất cả những hành động tội lỗi. Cho nên chẳng có một người nào có một nghiệp tốt cả để có thể tự năng lực của mình mà được sanh về Tịnh Độ, huống chi nói đến việc giác ngộ tuyệt đối. Theo như vậy thì những điều kiện cho tất cả mọi người dầu cho Tăng sĩ hay tín đồ, hàng vương bá hay nông dân, đàn ông hoặc đàn bà tất cả đều giống nhau. Mọi người đều lệ thuộc hoàn toàn vào lời thệ nguyện của Đức A Di Đà; nếu họ muốn đạt đến sự giải thoát. Sự chấp nhận của hành động tội lỗi của mình, đối với Thiện Đạo là điều trọng yếu cho điều nhận thức trong tâm mình. Qua điều nầy, con người trên thực tế đã đến với Đức A Di Đà từ ba yếu tố (chí tâm, tín nhạo, dục sanh). Điều nhấn mạnh về tín ngưỡng là một điểm mới trong giáo lý Tịnh Độtrở thành rất quan trọng cho sự phát triển của Tịnh Độ Tông Nhật Bản.

Mặc dầu Ngài Thiện Đạo đã góp phần quan trọng cho hệ thống căn bản của giáo nghĩa Tịnh Độ để cho người bình dân cũng có cơ hội giải thoát; nhưng tư tưởng của Ngài vẫn còn ảnh hưởng bởi truyền thống, đòi hỏi con người phải tự sửa đổi lỗi lầm của chính mình. Cho nên Phật Giáo Tịnh Độ ở Trung Hoa còn giữ tư tưởng, mà con người phải qua sự tinh tấn mới có thể đến được chốn giải thoát.

Thế hệ tiếp theo sau Thiện Đạo xuất hiện cho bây giờ làm căn bảnhệ thống đầy đủ cho văn học và việc nầy đã được giải thích qua tư tưởng, giải thích về sự ngờ vực và hướng dẫn cho sự thực tập. Đầu thế kỷ thứ 8 giáo nghĩa Tịnh Độ đã phát triển rộng rãi ngay cả lý thuyếtthực hành, đã giới thiệu một Tông phái riêng biệt; mà tông phái ấy đã đáp ứng được nhu cầu và nguyện vọng tôn giáo của tín đồ. Tông phái nầy đóng một vai trò quan trọng trong mọi chi phái Phật Giáo khác, mà nơi đây vị trí của người nữ và tín đồ giữ một vai trò quan trọng. Qua sự phát triển mà ta thấy của Ngài Thiện Đạo cho biết rằng, tất cả mọi người của thời mạt pháp đều giống nhau trong sự giải thoát và đã làm thay đổi sự quan hệ xã hội của sự phát triển về niềm tin.

Đương nhiên với sự thành công của Tịnh Độ giáo nghĩa cũng tạo nên nơi những trường phái khác, sự bất tínphê bình. Đặc biệt điển hình là những vị Thầy của Tông phái Thiền, nghĩa là giáo nghĩa của Tịnh Độ đã làm cho con người hiểu về cuộc đời sai hơn; bởi vì họ cho rằng việc bỏ ác là không làm được. Ngược lại những tín đồ của Tịnh Độ Tông đã ngạo mạn với những vị Thầy của Thiền và than vãng rằng những vị nầy đã phủ nhận vô lượng pháp môn của Đức Phật để chứng minh cho con đường đến chỗ Thánh thiện, mà những lời dạy ấy phải hợp với căn cơ của chúng sanh. Cuối cùng người ta nên tìm đến một con đường mà cả hai pháp môn đều có thể đi chung trên một mặt phẳng cao hơn. Cho nên Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ (904–975) đã tổng hợp cả hai con đường của Thiền và Tịnh Độ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11386)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
(Xem: 11549)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13542)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14123)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10307)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10771)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11323)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11276)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11436)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10169)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9968)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10695)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11314)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42194)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10483)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11861)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10008)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10452)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10614)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45754)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32108)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11321)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10698)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11318)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10630)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13457)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12371)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11019)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10616)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12309)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11167)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11842)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29271)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9215)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10537)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10233)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10581)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10909)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10804)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32131)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27389)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17780)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11858)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12285)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10441)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11697)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10423)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10784)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28063)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10147)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10282)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10646)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10767)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11221)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10400)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10688)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11473)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18248)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10517)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12845)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11751)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29175)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28585)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28294)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13317)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22772)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13431)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11567)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13805)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25717)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26076)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22306)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14480)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12072)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11802)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11688)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11484)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33180)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31841)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12028)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39623)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22481)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11956)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14226)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13346)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14304)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12070)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10393)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11227)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13306)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34518)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12619)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12224)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13529)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12618)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12968)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16298)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11743)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27387)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28427)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant