Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

05. Nhất Biến

20 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 8975)
05. Nhất Biến

Những bản văn căn bản của
PHẬT GIÁO TỊNH ĐỘ (A Di Đà) NHẬT BẢN

Nguyên tác Đức Ngữ: Christian Steineck

HT Thích Như Điển: dịch từ bản tiếng Đức ra tiếng Việt
so sánh với tiếng Nhật

III. Những bản văn dịch (từ tiếng Nhật sang tiếng Đức)

5. Nhất Biến

(dịch từ tiếng Đức có đối chiếu bản tiếng Nhật)

Những lá thư và lời dạy cuối cùng (Trích từ phần đầu của Nhất Biến Thánh Nhơn Ngữ Lục)

5.1 Trả lời về câu hỏi của người em gái tướng quân Saiong

Em gái tướng quân Saiong (mất năm 1318) vào triều đại Konkubine. Bà là thứ phi đứng hàng thứ 3 của Thiên Hoàng Kameyama (1248-1304). Năm 1283 Bà trở thành Ni cô và tên đạo của bà là Ichi Amidabutsu.

Dĩ nhiên đây là cơ hội đã đến sau những kinh nghiệm của chúng ta về sự vô thường, về sự sinh và tử nơi thể xác của chúng ta và đã một lần tham dự trực tiếp buổi lễ cầu nguyện với đức Phật A Di Đà, chúng ta chẳng còn là chính chúng ta nữa. Bởi vì tâm của ta đã là tâm của Phật A Di Đà và hành động của thân thể chúng ta là hành động thân thể của đức A Di Đà và ngay cả lời nói cũng là lời nói của Ngài, như vậy thì cuộc sống nầy khi chúng ta sống cũng là đời sống của đức Phật A Di Đà. Nếu chúng ta thọ nhận nơi lời thệ nguyện, thì chúng ta sẽ vượt qua khỏi tình thương cao cả ấy, ngay cả thập ácngũ nghịch trong quá khứ như chúng đương là, với một hay mười niệm tiêu trừ trong hiện tại; thì chúng ta nhận biết rằng sự vượt ra khỏi 3 cõi và sáu đường chẳng cần lý do, mà điều ấy làm cho chúng ta khổ, tốt và xấu luôn hiện hữu. Chúng ta chắc chắn rằng cuối cùng chỉ có thể giữ lại được câu Nam Mô A Di Đà Phật qua ánh sáng trí tuệ của đức Phật rọi soi cũng như sẽ mang đến chúng ta niệm danh hiệu Ngài cho đến khi nào ngừng thở và đời sống nầy kết thúc.

Nghĩa là sự nhớ nghĩ chân chánh cho đến khi chết, để được vãng sanh về Tịnh Độ “Nam Mô A Di Đà Phật”.

5.2 Trả lời câu hỏi cho vị quan của đức vua trước và vị tu sĩ Tsuchimikado

(mất năm 1286, năm 1270 trở thành người xuất gia và là bạn thân của Ippen). Những gì là ra khỏi vòng luân hồi.

Việc niệm Phật qua tha lực là một việc làm bất khả tư nghì. Lời thệ nguyện của đức Phật A Di Đà đã vượt lên trên tất cả thế giới, là con đường trực tiếp giải thoát tất cả chúng sanh. Điều nầy chứa đựng sâu xa nơi trí tuệ của chư Phật. Để ít ra tâm thức có thể dùng một trong ba thừa, với trí tuệ bên trên được báo hiệu! nếu chúng ta không qua những lời dạy khác nhau, như con đường đạt được, giữ lại, dễ dàng chỉ gióng lên qua cửa miệng danh hiệu của lời thệ nguyện và chẳng có ý nghĩa khác như việc niệm danh hiệu, thì chúng ta sẽ gặp chữ, “không nghi ngờ, không tư duy về sức mạnh của lời thệ nguyện và biết rằng đạt được việc tái sanh”. Chánh niệm trong giờ phút lâm chung khi niệm Phật, trong lúc ý thức không còn. Thế là chúng ta sẽ đến được trước đức Phật thọ ký và sẽ sinh về thế giới Tịnh Độ. Đây chính là việc niệm Phật vãng sanh. Nam Mô A Di Đà Phật.

5.3 Trả lời cho Tướng quân Tonoben khi được hỏi về việc niệm Phật mà tôi được an lạc.

Về việc niệm Phật vãng sanh, chúng ta những con người có cả hằng tá tội lỗi chẳng đếm được trong cuộc sống gồm thập ác, ngũ nghịch và bốn trọng tội. Những điều nầy đã làm cho sai sự thật, giữ lại lòng tham trong cuộc sống sai quấy, phá giớità kiến. Do vậy chúng ta phải tái sanh trong luân hồi, ở tương lai không dừng nghỉ. Rồi chết đi cũng như hiện hữu trong sáu đường, sẽ sinh vào bốn cách sanh và chịu khổ trong hai mươi lăm cõi. Tuy là vậy nhưng với lòng từ của Ngài Pháp Tạng trong năm kiếp trước đã thành tựu trí tuệ, đã biết qua danh hiệu Ngài mà nhận ra rằng sẽ vượt qua khỏi vòng chúng sanh ấy và vượt qua khỏi lời thệ nguyện. Ngài đã thành Phật trước đây mười kiếp và đây chính là hạnh nguyện của Ngài để hướng dẫn chúng sanh được vãng sanh với câu Phật hiệu: Nam Mô A Di Đà Phật. Bởi vì trạng huống giác ngộ được chiếu rọi qua tên của đức Phật A Di Đà, con người cần phải từ bỏ thế giới khổ đau tục lụy nầy để được sanh về Tịnh Độ chẳng kể là tin hay không tin; sạch hay dơ; tội hay chẳng tội nơi chúng sanh. Họ chỉ hoan hỷ khi họ có thể cảm nhận được sự mầu nhiệm của danh hiệu nầy khi niệm Nam Mô A Di Đà Phật. Khi hơi thở hết rồi và thân mệnh chấm dứt thì sẽ được Ngài hiện ra để thọ ký, dấu hiệu ấy với chúng sanh kia là có thể đạt được sự sống, chết đây chính là việc niệm Phật vãng sanh.

Nam mô A Di Đà Phật

Ngày mùng 1 tháng 9 từ Ippen gởi cho tướng quân Ben

 

5.4 Lời dạy được viết cho một tướng quân về vấn đề tái sanh.

Bởi vì chúng taduyên nghiệp nối kết trong thế giới nầy qua việc sanh lại lần tới, Ngài chẳng nên chối từ việc sanh ở Tịnh Độ. Ngoài danh hiệu chẳng còn giáo lý nào hay hạnh nguyện nào cả. Ngoài danh hiệu chẳng có sự tái sanh. Tất cả chúng sanh đều là kết quả trong ý nghĩa danh hiệu kia. Nghĩa là sự suy nghĩ về việc tắt hơi thở, qua câu Nam Mô A Di Đà Phật chiếu dọi, thì chúng ta sẽ rõ biết giống nhau về một chúng sanh chân thật của sự sống và sự chết. Việc “chánh niệm trong khi chết” là đó vậy. Đây cũng chính là sự suy nghĩ trước đây mười kiếp về sự giác ngộ chân thật. Nam Mô A Di Đà Phật.

Ngày 9 tháng 3 Ippen

 

5.5 Trả lời cho vị Tăng sĩ Kogan, viết để trả lời về việc niệm Phật mà tâm được an lạc.

Tôi đã nhận được sự yêu cầu của Ngài để giải thích về việc đo lường bên trong khi thực hành niệm Phật, chẳng thể nói gì khác hơn về câu niệm Nam Mô A Di Đà Phật về việc trải nghiệm của tâm thức cũng như sự an lạc của nội tâm cả. Trên tất cả những lời dạy mà những bậc trí tuệ được nói đến chỉ là những điều sai lầm khác nhau khi tường thuật về những bài giảng trước. Do vậy những ai thực hành niệm Phật thì nên từ bỏ việc nầy và đơn giản chỉ niệm Phật mà thôi, trong soạn tập sau (Senkusho) của Ngài Saigyo (1118-1190) nói về việc có người đến thánh nhơn Kuya và hỏi Ngài rằng: Ngài niệm Phật như thế nào? Ngài đã chẳng trả lời ngoài câu nói: “Hãy buông bỏ đi” và đã chẳng dạy gì thêm nữa cả. Đây chính thật là một lời dạy bằng vàng. Ai thực hành việc niệm Phật người ấy sẽ từ bỏ cả trí tuệ lớn lẫn sự ngu si và ngay cả tốt hay xấu trong thế giới hữu hạn nầy. Phân biệt tốt, bề mặt, cao hoặc thấp đều vượt khỏi. Đồng thời cái quả nơi địa ngục hãy bỏ đi, giống như đến được Tịnh Độ và cũng sẽ giác ngộ qua mọi tông phái. Ngay như việc niệm Phậtvượt qua khỏi mọi vật thì sẽ tương đương với tất cả thế giới qua lời thệ nguyện của đức Phật A Di Đà. Khi người ta niệm với giọng tha thiết thì chẳng còn Phật và ta, và cũng chẳng còn những phần khác nữa. Tịnh Độ là tất cả những thế giới giới hạn của tốt và xấu, ngoài ra điều nầy chẳng có gì để lo sợ cả. Chẳng có cái gì tồn tại trong thế giới nầy như: núi, sông, cỏ, cây cho đến sóng của một làn gió, là chẳng phải niệm Phật; chẳng phải chỉ thế giới của loài người mới được bao trùm qua lời nguyện ấy. Nếu các Ngài trong lời nói còn sót lại nầy được chiếu rọi mà một người già chẳng rõ, chẳng hiểu thì hãy để cho chẳng hiểu, hãy để cho người ấy chẳng biết đó đi, các anh chẳng cần suy nghĩ gì cả, hãy giao phó cho lời nguyện và hãy niệm Phật. Bất kể việc niệm Phật bây giờ với sự an nhiên hoặc chẳng tự tại nơi tâm đi nữa thì việc nầy cũng không ra ngòai thế giới bổn nguyện của tha lực. Chẳng có việc gì thiếu sót nơi lời thệ nguyện của đức Phật A Di Đà hoặc giả có thể hơn như thế nữa. Ngoài ra người ta còn cần phải chuẩn bị cho tâm thức một điều gì đặc biệt nữa chăng?

Người ta hãy trở lại vị trí của người vô minh và hãy niệm Phật. Nam Mô A Di Đà Phật.

Ippen gởi cho Tu sĩ Kogan

 

5.6 Trả lời cho Thánh Nhơn Shinnen ở Yokawa trên núi Tỉ Duệ thuộc Kyoto

Với con người, chúng ta đang sống ở thế giới nầy, nối kết với nhiều tình bạn trong những đời trước. Thật là một niềm vui được cùng nhau quy y với Đức A Di Đà; việc suy nghĩ và chấp vào bản ngãtương ưng với vòng sanh tử. Sự giác ngộ là một tâm thức, tâm ấy có cách xa với tất cả mọi tư tưởng. Sinh và tử điều nầy thật sự chẳng có gì cả, qua sự cố gắng của kiến thức, người ta chẳng thể làm gì được. Sự giác ngộ cũng chẳng phải qua sự thực tập mà được. Đồng thời ai chẳng học thì càng lầm lớn và ai chẳng thực tập thì thường phải tái sanh. Chúng ta phải thực tập, trong đó chúng ta phải dụng công từ bỏ thân thể nầy và trong đó chúng ta phải làm chủ hoàn toàn tâm thức nầy. Sự thật nầy là tông phái của con đường giác ngộ và thống nhất với Tịnh Độ và ngay cả những danh từ có khác đi. Trong kinh Pháp Hoa dạy rằng: Chúng ta chẳng thích đời sống trong sự khổ đau nầy, mà đánh giá con đường cao cả ấy.” Trong khi đó Kinh Thiền Định nói: “hãy buông xả thân của các ngươi và sinh vào với sự hiểu biết trọn vẹn. Kết quả sẽ tự nhiên đến, trên con đường Thánh ấy, cũng thực tập tự lực và phải từ bỏ thân thể trong cuộc sống nầy để đến con đường giác ngộ”. Nơi ấy những tín đồ của Tịnh Độ Tông dựa vào tha lực, tin tưởng rằng cuộc sống khổ đau nầy sẽ được trở thành Phật sau khi chấm dứt tâm thức của Phật Tánh. Vì vậy, con người với thói quen như chúng ta ngoài ra còn cần thực hiện đầy đủ việc niệm danh hiệu để được thành tựu, chẳng còn con đường nào khác để được giải thoát cả. Trong Kinh A Di Đà nói rằng: “Kẻ nào niệm Phật sẽ được hộ niệm bởi tất cả chư Phật trong sáu phương và chẳng còn nghi ngờ, và kẻ kia được chắc chắn sanh về Tịnh Độ. Ngoài sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật ra, chúng ta chẳng còn thân thểtâm thức, tên ấy được truyền đến tất cả chúng sanh với chỉ là một”. Ngoài ra: mây lành và hoa trời là dấu hiệu của việc niệm danh hiệu chẳng thể nắm bắt được, với thể thức hiểu biết theo thói quen có thể rõ được chăng? Chúng ta phải tận lực suy nghĩ để hiểu được những hoa nầy và theo như lời khuyên của Ngài, tôi đã kết duyên, đã tụng kinh A Di Đà một trăm biến. Thành kính. Nam Mô A Di Đà Phật.

Ngày 22 tháng 4.

Từ Ippen gởi cho Thánh nhân Shinnen.

 

5.7 Lời dạy viết cho người hỏi về sự thật sau cánh cửa về việc niệm Phật

Niệm Phật vãng sanh có nghĩa là: việc niệm Phật như là việc chắc thật của việc sanh về Tịnh Độ. Chữ “Nam Mô” có nghĩa là “sự tin tưởng nơi tâm”, A Di Đà Phậtviệc làm mà trong việc ấy tạo ra sự tin tưởng. Điều ấy là sự nhớ nghĩ, trong ấy tâm thức và sự thực hiện thay đổi tương ứng với nhau về sự tái sanh. Ai mà sau khi niệm Nam Mô A Di Đà Phật chẳng còn tốt hay xấu nơi tâm, được hay không, chẳng còn theo sau sự nhớ nghĩ, lệ thuộc vào cái gì đó thì kẻ niệm kia là dấu hiệu cho thấy nắm vững nơi niềm tin. Ngoài việc niệm hồng danh, trong khoảnh khắc ấy chẳng thấy có “sự chết”. Người ta chỉ thuần niệm Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô A Di Đà Phật để chờ phút lâm chung.

5.8 Lời dạy viết trả lời những người hỏi về cánh cửa của sự thật.

Mùa xuân đi thì mùa thu đến, trên con đường buông xả của sự giải thoát thật là khó. Cũng như vậy, nếu chúng ta trải qua mùa hoa rụng và trăng tròn, giống như dễ bị trói buộc chúng ta vào vòng luân hồi. Trên đống núi tội lỗi luôn luôn tiếp tục lăn tròn đám mây tham ái và ánh sáng của đức Phật chẳng dọi vào mắt được. Trên biển tái sanh ấy gió lay động những gì không thật tướng và chẳng một lần lay động mặt trăngthực thể. Sự tiếp nhận của sự sống nối kết với sự khổ đau, khi chúng ta trở về sự chết thì con đường nầy sẽ từ điểm tối nầy đi vào điểm tối khác.

Trong lục đạo chẳng có nơi nào mà chẳng làm cho chúng ta lầm lỗi và 4 cánh cửa của chúng sanh chẳng có mái che, dưới đó chúng ta chẳng có nơi để trở về. Chúng ta nên thay vì gọi cái nầy là vòng luân lưu của một giấc mộng hay là sự chân thật? Chúng ta nên gọi nó như vậy, rồi nó sẽ bay lên như một đám mây và nhả khói ra. Chẳng một người nào có thể giữ lại bóng mây ấy trên khoảng không vô tận. Chúng ta nên nói rằng đó chẳng phải là những cảm giác khổ đau vẫn còn ở nơi chúng ta, khi mà chúng ta chia tay với một người thân, sẽ cắt đứt nội tâm của chúng tatâm thức ấy sẽ mang đến sự đỗ vỡ. Mặc dầu chúng ta, là một nhóm với tình bạn hữu thân thiện, lúc ngọn lửa đốt cháy tử thi, nung đỏ sắt nơi địa ngục thì băng đá của địa ngục “hoa sen đỏ” và “hoa sen đỏ lớn” ấy sẽ không tan ra. Dưới làn da mịn bị đốt cháy hai mắt ràn rụa nước mắt khổ đau, thế nhưng ngọn lửa của địa ngục “đốt cháy mạnh” và “đốt cháy thật mạnh chẳng thể dừng nghỉ”. Kêu cứu, cũng vô ích đau buồn, con người như chúng ta cũng quẩn quanh. Thay vì chúng ta từ bỏ làng xóm thành ấp trong 3 thời, ra đi đến thành phố chính của cửu phẩm liên hoa. Ra khỏi là điều khó, từ thung lũng của thành nầy để vượt khỏi sa mạc của khổ đau. Thế giới của sự giải thoát chẳng cầm giữ thế giới thường tình. Nếu một lần chúng ta qua lời thệ nguyện có thể gặp nhau thành nhân duyên nơi cõi giải thoátchúng ta lại chẳng vội vã cố gắng thay đổi cuộc đời. Vậy chúng ta còn đợi chờ gì nữa? Việc niệm Phật tha lực là một sự thực hành chẳng thể nghĩ bàn. Bổn nguyện ấy đã vượt lên khỏi thế giới, là con đường cần thiết để giải thoát cho tất cả con người thường tình nầy. Hãy quên đi thân thể nầy trong niềm tin của các bạn. Hãy để lại tiếng nói của các bạn và hãy để tiếng Niệm Phật lại. Nam mô A Di Đà Phật.

5.9 Lời dạy được viết trả lời người học trò bị bịnh nhẹ.

Sống và chết khởi nguyên từ thể thức của một tâm thức hiện thời của sự nối kết giữa đàn ông và đàn bà và sự lặn hụp trong 3 cõi mang chiếc xe cảm nhận sai trái của sự tham luyến tánh dục trói buộc. Nếu hình thức của đàn ông và đàn bà được giải thểthế giới trói buộc tự thể chẳng còn thì sự chấm dứt sanh tử, căn bản của không ấy sẽ thể nhập vào và cảm giác sai trái có thể chấm dứt ở đây. Bông hoa thì tuyệt diệumặt trăng thì sáng rỡ, cả hai thường là nguyên nhân của vòng xoay tiếp tục của thế giới. Ngay cả sự nhớ nghĩ đến Phật và kinh điển cũng có thể dẫn đến những ngọn lửa của địa ngục, chỉ có căn nguyên là một tâm thức chẳng ra khỏi chính tự ngã của mình. Kết quả của vô ngã là sự nối kết giữa sự thật với thế giới của chúng sanh. Ngay như một tâm thức trải qua 3000 thế giới là một sự thật và là một loại hình chẳng dấy động. Tuy vậy con người đánh mất đi sự tham vọng của tự ngã tự nhiên, nắm bắt điều mong mỏi cách ly, sai quấy trong sự trống rỗng của sanh tử và kéo đến sự giác ngộ tưởng tượng. Như vậy con người theo thói quen giới hạn nên tin tưởng vào ý muốn từ bỏ thế giới tối tăm tội lỗi nầy để đến được cõi Tịnh Độ và vui mừng khi ra khỏi hơi thở vào lúc cuối đời. Để đợi chờ hình bóng tiếp dẫn của các vị Thánh, các con nên niệm danh hiệu của Đức Phật A Di Đà, rồi các con sẽ vượt lên khỏi sự sống chết với kinh nghiệm của những chúng sanh chân thật ở bên kia bờ sống chết ấy.

Nam Mô A Di Đà.

Năm thứ 7 của Koan (1284) ngày 29 tháng 5 Ippen.

 

5.10 Cuối cùng để lại lời dạy sau rốt (chép lại bởi người đệ tử, Shokai)

Với thế giới ngũ uẩn được cấu tạo bởi năm loại nầy chẳng có bệnh tật, mà bệnh ấy trói buộc vào cuộc sống của chúng ta. Trong tứ đại ấy chẳng có sự khổ, là nguyên nhân tạo ra khổ đau cho chúng ta. Thế nhưng chúng ta quay lưng với tư tưởng tự tánh căn bản. Trong đó chúng ta đang trú nơi ngũ dục và uống tam độc, chúng ta ra khỏi sự khổ đau của ba con đường thường tình ấy. Đây chính là nguyên tắc mà chính chúng ta gặt hái được kết quả do những hành động của chúng ta. Ngoài ra chúng ta còn đánh thức tâm thức của sự suy nghĩ, chẳng phải gì cả, chẳng phải một lần trong tình thương của tất cả chư Phật trong ba đời cứu vớt chúng ta. Nam Mô A Di Đà Phật.

(Dịch xong phần trên ngày 5 tháng 5 năm 2011 tại chùa Hải Đức Jacksonville, Tiểu bang Florida, Hoa Kỳ)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11387)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
(Xem: 11552)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13543)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14124)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10310)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10775)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11328)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11281)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11440)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10169)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9969)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10711)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11320)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42223)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10488)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11864)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10014)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10458)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10624)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45770)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32116)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11325)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10706)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11323)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10633)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13460)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12376)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11025)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10619)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12313)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11171)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11847)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29284)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9216)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10546)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10244)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10587)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10910)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10804)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32138)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27391)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17791)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11875)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12291)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10445)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11698)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10428)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10788)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28068)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10153)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10282)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10649)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10771)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11227)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10403)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10690)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11474)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18261)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10522)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12847)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11752)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29195)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28599)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28305)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13323)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22782)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13436)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11580)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13821)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25725)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26084)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22315)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14482)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12072)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11808)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11689)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11490)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33193)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31844)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12035)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39632)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22491)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11962)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14231)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13348)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14304)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12072)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10407)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11232)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13313)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34527)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12623)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12229)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13533)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12622)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12982)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16302)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11749)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27395)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28434)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant