Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 1: Vấn đề sử liệu

20 Tháng Chín 201200:00(Xem: 7769)
Chương 1: Vấn đề sử liệu

TRẦN NHÂN TÔNG

CON NGƯỜITÁC PHẨM
Tiến sĩ Lê Mạnh Thát 
Nhà Xuất Bản TP. Hồ Chí Minh 1999


Phần I: NGHIÊN CỨU VỀ TRẦN NHÂN TÔNG

 

Chương I 
VẤN ĐỀ SỬ LIỆU

Vua Trần Nhân Tông đã được sử sách qua hàng trăm năm đánh giá là một hoàng đế anh minh, một lãnh tụ thiên tài, một vị anh hùng dân tộc. Do thế, cuộc đời vua được ghi chép tương đối tỉ mỉ, khi so với cuộc đời của một số danh nhân khác của dân tộc. Dẫu vậy, vẫn có những chi tiết không rõ ràng, đặc biệt liên hệ với các tác phẩm của nhà vua. Cho nên, để dựng lại những nét chính của cuộc đời vua Trần Nhân Tông, nhằm làm cơ sở cho việc nghiên cứu những đóng góp to lớn, mà nhà vua đã cống hiến cho đất nước về các mặt võ công và văn trị, ta phải huy động tới những nguồn tư liệu khác nhau, hiện được bảo lưu tại nước ta cũng như tại Trung Quốc

Trước hết, về phía các nguồn tư liệu Việt Nam thì tư liệu cơ bản nhất, ta phải quan tâm, dĩ nhiên là bộ ĐVSKTT, phần Bản kỷ của vua Trần Nhân Tông, do Ngô Sĩ Liên lấy lại từ Đại Việt sử ký của Phan Phu Tiên. Đây là bộ sử đầu nguồn, mà các bộ sử sau như Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sỹ (1726-1780), và Khâm định Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn đã sử dụng để viết về vị vua anh minh này. Dù có tham khảo thêm các sử liệu khác, chủ yếu xuất phát từ Trung Quốc, chúng cũng không có đóng góp gì mới. Thậm chí có điểm còn sai lạc thêm. 

Vì vậy, khi nghiên cứu vua Trần Nhân Tông, ĐVSKTT vẫn là nguồn tư liệu cấp một. 

Tuy nhiên, có những khía cạnh và sự việc của cuộc đời vua Trần Nhân Tông, mà ĐVSKTT đã không ghi lại hoặc ghi lại một cách sơ sài thiếu sót. Ví dụ những ngày cuối đời của nhà vua, ĐVSKTT chép không rõ ràng lắm, khi so với những gì do Thánh đăng ngữ lục chép lại. Do vậy, ngoài ĐVSKTT, chúng ta may mắn còn được một số các tài liệu đời Trần hoặc do người viết về sau, mà chúng ta phải tham khảo. Cụ thể là Thánh đăng ngữ lục, Thiền tông bản hạnh, Thượng sĩ ngữ lục, Việt điện u linh tập, Nam ông mộng lục và Việt âm thi tập. 

Thánh đăng ngữ lục là một tác phẩm ghi chép lại các thiền ngữ và thơ văn của các vị vua đồng thờithiền sư của đời Trần, tức các vua Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông và Minh Tông. Có thể nói đây là bộ sử Phật giáo Việt Nam từ năm 1226 khi vua Trần Thái Tông lên ngôi cho đến năm 1357 lúc vua Trần Minh Tông mất. Người viết bộ Ngữ lục này, ngày nay không thấy ghi chép. Tuy nhiên, căn cứ vào nội dung tác phẩm, ta biết tác giả phải là một người rất gần gũi với vua Trần Minh Tông, và khi viết, phải được sự đồng ý của vị vua kế nghiệp là Trần Dụ Tông và triều đình. 

Lý do nằm ở chỗ, thứ nhất, nếu không gần gũi với các vị vua Trần, đặc biệt là vua Trần Minh Tông, thì người viết không có được những tư liệu đầu tay để viết nên bộ Ngữ lục ấy, như ta có hôm nay. Thứ hai, nếu không được phép của vua và triều đình, bộ Ngữ lục ấy sẽ không bao giờ được viết, và nếu có viết lén thì không bao giờ được công bố, vì nội dung nó có nhiều điều, thậm chí nhiều văn kiện, liên hệ với các vua. Từ đó, trong số những tác gia Việt Nam được biết tên sống sau năm 1357 và có những điều kiện như vừa nói, ta thấy có thiền sư Kim Sơn, người có quan hệ chặt chẽ với vua Minh Tông và được chứng kiến những giây phút cuối đời của vị vua này. Nói cách khác, ngoài khả năng là tác giả của Thiền uyển tập anh và Cổ châu Pháp vân Phật bản hạnh ngữ lục, thiền sư Kim Sơn cũng có thể là người biên soạn Thánh đăng ngữ lục

Thực tế, Thánh đăng ngữ lục được viết theo phương pháp thực lục, nghĩa là phương pháp dùng để ghi chép sự việc hàng ngày, chủ yếu của các vị vua, mà sử gia Trung Quốc thường dùng. Cho nên, đếữn thế kỷ thứ 18, nhằm dựng lại thiền phả của dòng thiền Trúc Lâm, thiền sư Tính Quảng và Ngô Thời Nhiệm (1746 - 1803) đã trích phần Trần Nhân Tông của Thánh đăng ngữ lục, ghép với bản Niên phổ của Pháp Loa khắc trên bia tại chùa Thanh Mai và tiểu sử của Huyền Quang chép trong Tổ gia thực lục, để soạn nên tác phẩm Tam tổ thực lục. Điều đáng chú ý là dù viết theo phương pháp thực lục, Thánh đăng ngữ lục chỉ cơ bản ghi lại các sự việc liên quan tới hoạt động Phật giáo của các vị vua thiền sư, mà tuyệt đối không có bất cứ ghi chép nào quan hệ tới hoạt động chính trị và quân sự của họ. Dẫu thế, Thánh đăng ngữ lục vẫn là một tư liệu đáng quý, đặc biệt khi ta nghiên cứu các hoạt động Phật giáo của vua Trần Nhân Tông

Hơn thế nữa, Thánh đăng ngữ lục đã là nguồn tài liệu để cho thiền sư Chân Nguyên (1647-1726) sử dụng và viết nên tác phẩm Thiền tông bản hạnh. Điểm đặc biệt của bản Thiền tông bản hạnh này là khi in vào năm 1745, người đứng in đã cho in kèm vào 3 tác phẩm tiếng Việt và Ngộ đạo nhân duyên của chính Chân Nguyên. Trong 3 tác phẩm tiếng Việt ấy, thì 2 là của vua Trần Nhân Tông. Đó là Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca. Hai bài phú này, dù đến năm 1745 mới được khắc bản, nhưng chắc chắn đã tồn tại trong thế kỷ thứ 17, bởi vì Chân Nguyên đã trích dẫn Cư trần lạc đạo phú trong tác phẩm Kiến tánh thành Phật do ông viết vào khoảng những năm 1684. 

Ngoài Thánh đăng ngữ lục, ta còn có Thượng sĩ ngữ lục của Tuệ Trung Trần Quốc Tung, một danh tướng giải phóng Thăng Long của cuộc chiến tranh 1285, đã được in dưới thời Trần Anh Tông, vào khoảng những năm 1308-1311. Bộ Ngữ lục nay có chứa đựng tiểu sử của Tuệ Trung Trần Quốc Tung (1230 -1290) do chính vua Trần Nhân Tông viết. 

Bản tiểu sử ấy cho thấy một phần nào quá trình tiếp cận và học tập Phật giáo cùng văn tài của nhà vua. Không những thế, nó còn ghi lại thêm cho ta một bài thơ, mà vua đã làm để ca ngợi đại sĩ Tuệ Trung. 

Bên cạnh đó, Việt điện u linh tập do Lý Tế Xuyên viết vào khoảng những năm 1329, tuy chủ yếu ghi lại các anh hùng, liệt nữ và hạo khí anh linh của đất nước ta, cũng đã lần đầu tiên ghi chép việc Trần Nhân Tông phong tặng gia hiệu cho các anh hùng, liệt nữ và hạo khí anh linh ấy vào những năm Trùng Hưng thứ nhất (1285) và thứ tư (1288). Sự kiện này không thấy ĐVSKTT ghi lại, nhưng về mặt văn hóa có một ý nghĩa hết sức thú vị. Đó là lần đầu tiên một thần điện Việt Nam ra đời được nhà nước chính thức công khai thừa nhận. Việt điện u linh tập do thế có một vị trí khá lôi cuốn trong việc soi sáng cho ta một số quan điểm của vua Trần Nhân Tông về quá khứ thần thánh của dân tộc. 

Nam ông mộng lục do Hồ Nguyên Trừng viết vào năm 1438 ở Trung Quốc. Trong 31 thiên truyện do ông ghi lại, ta thấy Hồ Nguyên Trừng đã dành 4 thiên để ghi về vua Trần Nhân Tông. Đó là các thiên về Trúc Lâm thị tịch (số 2), Tổ linh định mệnh (số 3), Cảm kích đồ hành (số 17) và Thi ý thanh tân (số 19), nghĩa là chiếm 15% nội dung tác phẩm. Qua những ghi chép này, ta không những được cung cấp thêm một số sự kiện và văn bản liên hệ tới vuaTrần Nhân Tông, mà còn thấy được một phần nào những tác độngảnh hưởng, mà vua Trần Nhân Tông đã có đối với hậu thế

Cuối cùng là Việt âm thi tập. Tác phẩm này là một thành quả của cuộc vận động chấn hưng văn hoá dân tộc sau khi đánh đuổi quân Minh và phục hồi nền độc lập dân tộc của vị anh hùng Lê Lợi. Nó được biên soạn trong giai đoạn Phan Phu Tiên đang còn làm ở Quốc sử quán vào năm 1334 và sau đó được Chu Xa hoàn thành vào năm Diên Ninh thứ sáu (1443). Về phần Trần Nhân Tông, Phan Phu Tiên và Chu Xa đã thu thập được 26 bài thơ. Nguồn tư liệu sử dụng chắc hẳn xuất phát từ những tác phẩm, mà Quốc sử quán đã tập hợp được và Phan Phu Tiên dùng để viết nên bộ Đại Việt sử ký tục biên. 

Điểm đáng chú ý là có bài thơ Hạnh Thiên Trường phủ, Việt âm thi tập bảo là của Trần Nhân Tông và chép xuất xứ là từ Quốc sử. Quốc sử đây tức chắc chắn làĐại Việt sử ký tục biên của chính Phan Phu Tiên. Thế nhưng bản ĐVSKTT ngày nay, xuất phát từ Nội các quan bản, lại chép là của Trần Thánh Tông. Khảo Nam ông mộng lục, thì bài thơ đó cũng được ghi là của Trần Thánh Tông. Vậy bản Việt âm thi tập in năm Bảo Thái thứ 7 (1727) có sự sai sót nào chăng? 

Bản Việt âm thi tập này sau đó đã được dùng làm nguồn tư liệu cho các tác phẩm có ghi chép về thơ văn của các vua quan đời Trần. Điển hình là bộ sách đồ sộ Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn và Trần triều thế phả hành trạng của một tác giả vô danh đời Nguyễn. Về phần Trần Nhân Tông, Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn, sau khi loại bài thơ Hạnh Thiên Trường phủ, cũng chỉ giới hạn trong số 26 bài thơ, mà Việt âm thi tập đã có, chứ không bổ sung thêm được bài nào. Thánh đăng ngữ lục đươc thiền sư Chân Nguyên in vào năm 1705 và bản in do Tính Quảng đề tựa vào năm 1750 đã không đến tay Lê Quý Đôn. Vì vậy, ông đã không thể khai thác số thơ văn có ghi chép trong tác phẩm đó. Trần triều thế phả hành trạng càng giới hạn hơn, chỉ ghi lại được hơn 18 bài. 

Còn về nguồn tư liệu Trung Quốc, thì Nguyên sử, đặc biệt là phần viết về đất nước ta biết dưới mục An Nam truyện, cung cấp một phần lớn các thông tin liên hệ đến hai cuộc chiến tranh Mông - Việt vào những năm 1285 và 1288 và những quan hệ ngoại giao trước và sau hai cuộc chiến tranh này. Để bổ sung, ta có An Nam chí lược của Lê Thực, Thiên nam hành ký của Từ Minh Thiện và Trần Cương Trung thi tập của Trần Phu. Các tác giả của ba tác phẩm này đều là những người cùng thời với vua Trần Nhân Tông, đã đứng về phía kẻ thù của dân tộc và tham gia trực tiếp vào các hoạt động chính trị, quân sự liên hệ với nước ta dưới dạng này hay dạng khác. Cho nên, dù nhìn những hoạt động ấy dưới lăng kính đối lập với quyền lợi của dân tộc, họ vẫn cho ta một số thông tin chính trị và quân sự có quan hệ với vua Trần Nhân Tông

Đặc biệt, họ đã giữ lại cho ta 22 văn kiện ngoại giao, mà vua Trần Nhân Tông đã gửi cho vua quan nhà Nguyên. Đây là một mảng tư liệu, phía nước ta trong bảy trăm năm qua tuy có biết đến, nhưng chưa bao giờ khai thác có hệ thốngcông bố đầy đủ, nhằm làm cơ sở cho sự nhận thức về cuộc đấu tranh ngoại giao đầy cam go trước và sau hai cuộc chiến tranh vừa nói. Chẳng hạn, Lê Quí Đôn có nhắc tới Thiên nam hành ký và Sứ Giao tập của Trần Cương Trung thi tập, song chỉ nhặt được một bài thơ của Trần Phu trong Kiến văn tiểu lục. 

Ngoài ra, một bức họa do Trần Giám Như vẽ mang tên Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ vào năm Chí Chính thứ 23 (1363) đã được Trần Quang Chỉ đề từ vào năm Vĩnh Lạc thứ 18 (1420) ghi lại tóm tắt cuộc đời Trần Nhân Tông tương đối tổng quát, có một số chi tiết khá lôi cuốn

Tuy nhiên, khi sử dụng các nguồn tư liệu Trung Quốc, ta gặp một số vấn đề cần phải giải quyết dứt điểm. Thứ nhất, về vấn đề lịch pháp thì những người nghiên cứu cho đến ngày nay đã thống nhất là hệ thống lịch pháp nước ta thời bấy giờ hoàn toàn phù hợp với hệ thống lịch pháp của Trung Quốc đời Nguyên. Cho nên những năm tháng ghi ra các sử kiện giữa những sử liệu Việt NamTrung Quốc không có sai lệch gì nhiều. Nếu về cùng một sự kiện mà có những sai lệch thì, hoặc do những thông tin khác nhau, hoặc do những truyền bản ghi chép bị nhầm lẫn. Trong Toàn tập này, chúng tôi chủ yếu sử dụng hệ thống ngày tháng của lịch pháp ta, và chỉ đổi ra ngày tháng dương lịch ở những nơi cần thiết để tránh sự rối rắm không đáng có. Chỉ riêng đối với những năm Giáp Tý thì chúng tôi có chua ở trong ngoặc đơn năm dương lịch để cho tiện bề theo dõi

Thứ hai, vấn đề tên tuổi của các nhân vật lịch sử thời đó. Đối với tên các nhân vật lịch sử Trung Quốc, nhất là tên những người thuộc tộc Mông Cổ, chúng tôi cơ bản vẫn chấp nhận cách phiên âm của Nguyên sử, trừ những trường hợp bị chép sai khi so với một số sử liệu khác. Trường hợp này chúng tôi cho đính chính lại và có ghi chú rõ ràng. Nói thế có nghĩa chúng tôi cũng tái dựng lại tên của những nhân vật này trong tiếng Mông Cổ và để trong ngoặc đơn, chứ không thay thế tên đã được lưu hành trong sử sách Trung Quốc như một số nhà nghiên cứu đã làm trước đây. 

Trong liên hệ này cần nói một chút về chữ Thực của tên Việt gian Lê Thực. Trong tiếng Hán tên này được viết () và các sử sách viết bằng tiếng quốc ngữ trước nay thường phiên âm là Tắc hoặc Trắc. Tuy nhiên, ĐVSKTT 5 tờ 46b5-6, dưới chữ () ấy được chua là “thổ lực thiết”. Điều này có nghĩa, ta phải đọc chữ ( ) là Thực thay vì Trắc hoặc Tắc. Thứ ba, về tên các nhà lãnh đạo Việt Nam, cụ thể là các vị vua nhà Trần, do sử liệu Trung Quốc ghi lại. Đây là một vấn đề khó khăn. Khi nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông của nhà Trần trong Annam shi kenkyu, Yamamoto đã dành hẳn một chương để nghiên cứu vấn đề này, tức Chinchõ no omei ni kansuru kenkyu.1 Dẫu thế, những kết luận của Yamamoto theo chúng tôi vẫn chưa thỏa đáng lắm. Vì vậy, cần phải làm những nghiên cứu mới. Đây là một yêu cầu, mà ta phải thỏa mãn để việc trình bày các sử kiện cũng như các tác phẩm liên hệ đến vua Trần Nhân Tông mới rõ ràng và có tính thuyết phục cao. 

Theo các sử liệu Trung Quốc, cụ thể là An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 1a8 và 1b4, thì vị vua đầu tiên của nhà Trần là Trần Nhật Cảnh, “đến tháng hai năm Mậu Ngọ thì Nhật Cảnh truyền nước cho con trưởng là Quang Bính, cải nguyên là Thiệu Long... ”. Điều này hoàn toàn phù hợp với những gì do Ngô Sĩ Liên chép lại trong ĐVSKTT. 

ĐVSKTT quyển 5 tờ 24a4-6 viết: “Ngày 24 tháng 2 năm Mậu Ngọ, vua nhường ngôi cho Hoàng Thái tử, rút lui về ở Bắc cung. Thái tử lên ngôi Hoàng đế cải nguyên là Thiệu Long”. Vậy rõ ràng Quang Bính của Nguyên sử là một tên khác của vua Trần Thánh Tông trong ĐVSKTT. 

Tiếp đến, An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 3b13 viết: “Năm (Chí Nguyên) 14, Quang Bính chết, người trong nước lập thế tử Nhật Huyên, sai trung thị đại phu Châu Trọng Ngạn, trung lượng đại phu Ngô Đức Thiệu đến chầu”. Năm Chí Nguyên thứ 14 tức năm 1277. Đây đúng là năm vua Trần Thái Tông Nhật Cảnh mất, như ĐVSKTT 5 tờ 59a6-7 đã ghi. Chính dựa vào năm mất này của Quang Bính, mà Yamamoto đã đi đến kết luận Quang Bính chính là một tên khác của vua Trần Thái Tông và Trần Nhật Huyên là tên của vua Trần Thánh Tông. 

Tuy nhiên, Bản kỷ của Nguyên sử 10 tờ 4a12 lại chép: “Năm (Chí Nguyên) 15, tháng sáu ngày Tân Tỵ, vua nước An Nam là Trần Quang Bính sai sứ dâng biểu đến cống”. Rõ ràng nếu Quang Bính chết vào năm Chí Nguyên thứ 14 (1277) thì tất nhiên đến năm Chí Nguyên thứ 15 không thể nào gửi sứ đến cống được. Yamamoto cho là An Nam truyện chép nhầm 14 thành 15. Song một đề xuất như thế tỏ ra không thuyết phục lắm, vì nếu Quang Bính là một tên khác của vua Trần Thánh Tông, thì năm Chí Nguyên 15 vẫn còn gửi sứ qua Nguyên. Dù với trường hợp nào đi nữa, trong Nguyên sử ta có hai thông tin khác nhau về Quang Bính. Một nói Quang Bính chết năm 1277, và một nói Quang Bính năm 1278 còn gửi sứ qua cống. Vậy không thể đơn giản chỉ dựa vào năm mất của Quang Bính ở An Nam truyện của Nguyên sử để kết luận Quang Bính là tên vua Trần Thánh Tông, như Yamamoto đã làm. 

Ngoài ra, Bản kỷ của Nguyên sử 10 tờ 13b3-4 chép: “Ngày Nhâm Tý tháng 11 năm Chí Nguyên 16 (1279) sai Lễ bộ thượng thư Sài Thung cùng đi với sứ nước An Nam là Đỗ trung tán đem chiếu đến dụ thế tử An Nam là Trần Nhật Huyên vào chầu”. Điều này xác định tên Nhật Huyên chỉ xuất hiện trong sử sách Trung Quốc vào thời điểm, khi vua Trần Nhân Tông đã lên ngôi, tức tháng 10 năm Mậu Dần (1278), như ĐVSKTT 5 tờ 37b9 - 38a1 đã ghi cùng với việc vua Trần Nhân Tông sau đó đã tiếp phái bộ của Sài Thung. 

Thêm vào đó, tên Trần Nhật Huyên còn xuất hiện một năm sau khi vua Trần Thánh Tông đã mất, tức năm Chí Nguyên thứ 28 (1291). Bản kỷ của Nguyên sử 16 tờ 11b8-9 chép: “Năm (Chí Nguyên) thứ 28 tháng 9 ngày Tân Hợi, vua An Nam là Trần Nhật Huyên sai sứ dâng biểu cống phương vật, vừa để tạ tội không đến chầu”. 

Sự kiện này, Yamamoto có đề cập tới, nhưng cho đây là một chép sai. Tuy nhiên, căn cứ vào những sự kiện, như ta vừa thấy trên và theo cách đồng nhất của chúng tôi, thì Trần Nhật Huyên ở đây chính là vua Trần Nhân Tông, chứ không phải vua Trần Thánh Tông. Cần nhớ là Bản kỷ của Nguyên sử chép Quang Bính còn sai sứ qua Nguyên sau khi vua Trần Thái Tông đã chết được một năm. Một lần nữa, vua Thánh Tông đã mất một năm, mà Nhật Huyên còn gửi sứ. Việc đồng nhất Quang Bính với vua Trần Thánh Tông và Nhật Huyên với vua Trần Nhân Tông cho phép ta không cần phải nại đến những giả thiết của sự chép sai. Thực tế, Bản kỷ ít chép sai hơn phần Liệt truyện nhiều, bởi vì Bản kỷ chỉ ghi chép dựa vào Khởi cư chú, tức nhật ký những việc làm của vua hằng ngày như tiếp sứ, nhận biểu tấu, ra chiếu chỉ v.v..., trong khi Liệt truyện phải tổng hợp nhiều nguồn tư liệu khác nhau, do đó dễ đưa đến sai sót. 

Hơn nữa, Kinh thế đại điển tự lục do Triệu Thế Diên và Ngu Tập soạn vào những năm 1330-1331, về mục Chinh phạt, mà sau này được sao lại vào Nguyên văn loại 41 tờ 26b1 đến 27b6, chép ở tờ 27a8 việc “Đường Ngột Đãi đuổi Nhật Huyên và Thượng hoàng đến cửa biển An bang”. Một lần nữa, Nhật Huyên lại có Thượng hoàng. Nếu Nhật Huyên là vua Trần Thánh Tông, và vua Trần Thái Tông đã mất vào năm 1277, thì làm gì vào năm 1285, khi cuộc chiến tranh lần thứ hai nổ ra, lại có mặt Thượng hoàng Trần Thái Tông

Chỉ dựa trên bốn chứng cứ này thôi thì Nhật Cảnh không còn nghi ngờ gì nữa phải là vua Trần Thái Tông, Quang Bính phải là vua Trần Thánh Tông và Nhật Huyên là vua Trần Nhân Tông. Tuy nhiên, cũng có hai chi tiết để Yamamoto nghĩ rằng Trần Nhật Huyên chính là vua Trần Thánh Tông. 

Thứ nhất là việc An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 10a9 ghi: “Năm (Chí Nguyên) 27, Nhật Huyên chết, con là Nhật Tôn sai sứ đến cống”. Năm Chí Nguyên 27 (1290) là năm vua Trần Thánh Tông mất, như ĐVSKTT 5 tờ 59a6-7 đã ghi. 

Chi tiết thứ hai là việc An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 7a10-12 ghi lại báo cáo mô tả những gì, mà quân Nguyên khi chiếm Thăng Long đã thấy được trong cuộc chiến tranh năm 1285. Theo đó thì “Nhật Huyên tiếm xưng Đại Việt quốc chúa, Hiến Thiên Thể Đạo Đại Minh Quang Hiếu hoàng đế Trần Uy Hoảng, nhường ngôi cho Hoàng thái tử, lập Hoàng thái tử phi làm hoàng hậu. (...) Nhật Huyên liền ở ngôi Thái Thượng hoàng, thấy lập vua nước An Nam thuộc hệ con của Nhật Huyên, lưu hành niên hiệu Thiệu Bảo”. Hiến Thiên Thể Đạo Đại Minh Quang Hiếu hoàng đế đúng là tôn hiệu của vua Trần Thánh Tông như ĐVSKTT 5 tờ 24b8 đã ghi. Và niên hiệu Thiệu Bảo đúng là niên hiệu của vua Trần Nhân Tông, mà ở đây được xác định là niên hiệu thuộc con của Nhật Huyên. 

Căn cứ vào hai chi tiết này, Nhật Huyên quả là tên chỉ vua Trần Thánh Tông, và Nhật Tôn quả chỉ vua Trần Nhân Tông. Tuy vậy, không thể hoàn toàn dựa vào hai chi tiết này để xác định Quang Bính là tên vua Trần Thái Tông, Nhật Huyên là tên vua Trần Thánh Tông và Nhật Tôn là tên vua Trần Nhân Tông, như Yamamoto đã làm. Lý do nằm ở chỗ nếu đem hai chứng cớ này so với bốn chứng cớ trên thì chỉ số lượng thôi cũng không cho phép ta đi đến một kết luận kiểu ấy. 

Sự thật, tất cả rối rắm đấy có nguyên do của nó. Nguyên do thứ nhất là sự lên ngôithoái vị của các vua Việt Nam cho đến thời đại vua Trần Nhân Tôngtrở về sau thường không được báo cáo hoàn toàn chính xác trong các văn thư gửi cho các vua Trung Quốc. Chẳng hạn, ngay từ thời Đinh Tiên Hoàng, Đinh Liễn đã viết thư cho vua Tống như là lãnh tụ tối cao của nước Đại Cồ Việt, chứ không phải là Đinh Tiên Hoàng, như Tống sử ghi. Gần hơn, sau thời vua Trần Nhân Tông, ta thấy An Nam truyện của Nguyên sử ghi rời rạc tên của những người kế nghiệp như Nhật Sủy vào năm Chí Đại thứ 5 (1311), Nhật Khoáng năm Thái Định thứ nhất (1324), mà trong sử liệu Việt Nam, cụ thể là ĐVSKTT, ta không bao gờ tìm thấy những tên người như thế. 

Xuất phát từ những văn thư qua lại không chính xác này giữa Việt NamTrung Quốc, sự rối rắm càng gia tăng vào thời điểm vua Trần Nhân Tông lãnh đạo kháng chiến trong cuộc chiến tranh năm 1285, do sự có mặt của một số tên Việt gian đầu hàng giặc như Trần Ích Tắc, Trần Văn Lộng, Lê Thực trong hàng ngũ đối phương. Chính bọn này đã cung cấp những báo cáo nhiều mặt về đất nước ta, trong đó chắc chắn có cả việc lên ngôithoái vị của các vua chúa Việt Nam và quan hệ giữa họ với nhau. Chính từ những báo cáo của chúng và từ những văn thư vừa nói đã tạo nên mớ hỗn độn mâu thuẫn, như vừa thấy ở trên. Và đấy là nguyên do thứ hai. Do thế, ta không thể dựa vào các sử liệu Trung Quốc để đồng nhất các tên do chúng ghi lại với tên các vị vua có trong sử liệu Việt Nam. Phải hoàn toàn dựa vào sử liệu Việt Nam, lấy chúng làm cơ sở để xác định tên các vị vua xuất hiện trong sử liệu Trung Quốc là ai. Sử liệu Trung Quốc trong trường hợp này chỉ dùng để tham khảo

Quan điểm chúng tôi, vì vậy, không chấp nhận cách giải quyết của Yamamoto bằng việc đồng nhất Quang Bính với vua Trần Thái Tông, Nhật Huyên với vua Trần Thánh Tông và Nhật Tôn với vua Trần Nhân Tông, do việc những sử liệu không cho phép đồng nhất một cách dễ dàng như thế, ngay cả về phía Trung Quốc, mà ta đã thấy trên. Chúng có quá nhiều mâu thuẫn. Cho nên, cách giải quyết của chúng tôi là lấy chính sử Việt Nam làm sử liệu cơ bản. Căn cứ trên các cơ sở sử liệu này, chúng tôi coi Quang Bính chính là vua Trần Thánh Tông, Nhật Huyên và Nhật Tôn chính là những tên gọi khác nhau của vua Trần Nhân Tông, còn Nhật Sủy và Nhật Khoáng là chỉ vua Trần Anh Tông và vua Trần Minh Tông. Đặc biệt, việc đồng nhất Nhật Huyên và Nhật Tôn với vua Trần Nhân Tông, vì vua Trần Nhân Tông là đối tượng nghiên cứu của chúng ta

Sự đồng nhất các tên gọi kể trên xuất phát từ hai nguồn sử liệu khác nhau. Thứ nhất, về phía Trung Quốc, cụ thể là Nguyên sử Bản kỷ và Kinh thế đại điển tự lục, đều xác nhận Quang Bính sống cho đến năm Chí Nguyên 15 (1278) trong khi vua Trần Thái Tông mất trước đó một năm (1277), và Nhật Huyên năm 1279 mới sai sứ qua cống cho đến năm 1291, nghĩa là sau khi Trần Thánh Tông mất một năm và có Thượng hoàng của mình trong cuộc chiến năm 1285. 

Và thứ hai, về phía sử liệu Việt Nam, Hồ Nguyên Trừng và Ngô Sĩ Liên cho rằng “Gia pháp của họ Trần... thì khi con đã lớn liền cho nối ngôi chính, cha lui ở cung Thánh Từ xưng là Thượng hoàng, cùng trông coi chính sự, kỳ thực chỉ truyền ngôi để yên việc sau, phòng khi thảng thốt mà thôi, chứ mọi việc đều do ở Thượng hoàng quyết định cả” (Nam ông mộng lục, tờ 3a7-9 và ĐVSKTT 5 tờ 24a9-b3). Song trong trường hợp vua Trần Nhân Tông, dù Thượng hoàng Thánh Tông đang còn, nhưng tất cả mọi việc đều chính do vua Trần Nhân Tông quyết định. Thí dụ điển hình là sự kiện “Đỗ Hành chỉ được phong quan nội hầu, vì khi bắt được Ô Mã Nhi không dâng lên vua mà lại dâng lên Thượng hoàng”, như ĐVSKTT 5 tờ 56b9 - 57a1 đã ghi. Việc Đỗ Hành không được phong tước cao này rõ ràng xác định vai trò của vua Trần Nhân Tông trong sự lãnh đạoquyết định công việc của đất nước. Thực tế, ĐVSKTT đã ghi chính vua Trần Nhân Tông đã tiếp các phái bộ của Trung Quốc từ cuối năm 1278 cho đến khi mất. 

Sự thật, việc nghiên cứu vua Trần Nhân Tông cũng như bất cứ nhân vật lịch sử nào của Việt Nam, tất nhiên phải lấy các sử liệu Việt Nam làm chính. Song vào thời vua Trần Nhân Tông, nước ta có những quan hệ ngoại giao và quân sự với Trung Quốc. Quan hệ ấy đặc biệt đã để lại cho ta một số sự kiệntác phẩm mang tên những người lãnh đạo đất nước ta, nhưng lại không có trong chính sử của Việt Nam. Vì vậy, nó đòi hỏi ta phải xác định các tên vừa nêu liên hệ với những nhân vật nào có mặt trong chính sử ấy. Ngay một sự kiện vua nhà Trần đã đổi tên mình trong quan hệ ngoại giao với Trung Quốc đã cho thấy ít nhiều ý đồ các hoàng đế Đại Việt không muốn cho phía Trung Quốc biết rõ nhân thân của các nhà lãnh đạo Việt Nam. Việc dài dòng bàn cãi để đồng nhất các tên ấy với nhau trở thành tất yếu. 

Một lý do nữa là vì vấn đề này đã được một số nhà nghiên cứu nước ta đề cập tới, nhưng đã dễ dàng chấp nhận cách giải quyết của Yamamoto. Thực tế, cách giải quyết của Yamamoto, như chúng tôi đã chứng tỏ, có quá nhiều sơ hở, đặc biệt ông đã không coi trọng chính sử Việt Nam làm cơ sở. Vì thế, khi bàn cãi, chúng tôi không chỉ nhắm đến những sơ hở của chính Yamamoto, mà còn nhắm đến việc sửa sai những tác động nhận thức của Yamamoto đối với giới nghiên cứu sử học của nước ta. 

Từ đây, trong tác phẩm này, chúng tôi tập trung tất cả các sử kiện và tác phẩm mang tên Trần Nhật Huyên và Trần Nhật Tôn về cho chính vua Trần Nhân Tông. Chỉ trừ hai chi tiếttôn hiệu Hiến Thiên Thể Đạo Đại Minh Quang Hiếu hoàng đế và việc Nhật Huyên mất vào năm Chí Nguyên 27, còn tất cả sử kiện khác do phía Trung Quốc ghi lại dứt khoát là thuộc về vua Trần Nhân Tôngchúng tôi sẽ không bàn cãi gì thêm nữa. 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10123)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
(Xem: 10524)
Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người... Nguyện san Chánh Pháp - Số Xuân 2014
(Xem: 10145)
Thi hào Vương Duy (701-761) cùng với Đỗ Phủ (712-770) và Lý Bạch (701-762) là ba thi nhân cự phách dưới triều đại của Đường Huyền Tông (685-762)... Hoang Phong
(Xem: 20425)
Trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “đau khổ” được dùng để chỉ trạng thái bất như ý, khó chịu và buồn phiền cùng cực... Nguyễn Hữu Đức
(Xem: 11661)
Thiền không xa lạ đối với giới Phật học trong suốt hơn hai ngàn năm qua. Cá nhân tôi, trong những năm gần đây cũng áp dụng Thiền song song với thuốc cần thiết để chữa bệnh, kết quả rất tốt... Hồng Quang
(Xem: 13806)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 19156)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 46727)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12101)
Thiền cứu tôi từ tuyệt vọng hơn một lần. Trong những giai đoạn bệnh hoạn trầm trọng nhất, tôi đã được cứu bằng nhận thức rằng kinh nghiệm đau đớn chỉ là nhất thời... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 11680)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 23104)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 17866)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10165)
"Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên, Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền." Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 17780)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13942)
“Nếu chúng ta chia quả đất này thành từng mảnh nhỏ như những hạt cỏ, số lượng những mảnh này không lớn bằng số lượng lần mà mỗi chúng sanh đã là cha mẹ ta”... Karen Villanueva, Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 14060)
"Một lòng kính lạy Phật Đà, Ngàn đời con nguyện ở nhà Như Lai, Con hằng mặc áo Như Lai, Con ngồi pháp tọa Như Lai muôn đời"... Tịnh Bình
(Xem: 15116)
Càng lớn con càng thương Mẹ hơn, Tình dâng cao vút đỉnh liên sơn, Tháng năm đời có thêm cay đắng, Mẹ gánh oằn vai chút chẳng sờn... Thích Minh Tuệ
(Xem: 20316)
Thời gian trôi, tiếng đồn về Mẹ ngài bèn gửi thư đi cho ngài: "Con ơi! Mẹ nghĩ kỹ rồi Hiến mình cho Phật, cho nơi đạo mầu
(Xem: 18310)
Thiền sư bước đến lặng yên, Rồi dùng thiền trượng gõ lên quan tài Người ta nghe tiếng của ngài...
(Xem: 17431)
Khuyên con chữ hiếu lo tròn Không thời quả báo sẽ luôn dữ dằn Từ đây kính mẹ, ăn năn Ai hơn mẹ quý, ai bằng tình thâm
(Xem: 18190)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 12734)
Một thời đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật gần thành Vương Xá nước Ma Kiệt với mấy nghìn Tỳ Kheo, mấy vạn Bồ Tát, và vô số trăm nghìn Chư Thiên rải hoa trỗi nhạc cúng dường Phật... Toàn Không
(Xem: 12876)
Những lời khuyên này, ta muốn nói với Dagmema. Hãy bình tâm, đừng trộn lẫn tâm ấy với những gì thế tục. Hãy đánh thức sự kiên địnhbuông bỏ niềm đau.
(Xem: 13440)
Xuân qua thu lại, cùng thời gian này vào năm tới, vô số người sẽ gặp phải cái chết của mình. Ai có thể quả quyết rằng bạn không phải là một người trong số đó?
(Xem: 17050)
Đây là một cuốn sách quý, đúc kết kinh ngiệm trên 25 năm giảng dạy Phật pháp và hướng dẫn hành thiền của Thiền sư Ajaham tại Úc và các nước Đông Nam Á...
(Xem: 11490)
Tinh yếu của thiền trước tiên là quay cái nhìn vào bên trong tự thể. Muốn như thế chúng ta cần phải biết sử dụng 3 phương tiện...
(Xem: 18302)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 18611)
Đạo sư Padma nói: Hãy thực hành Pháp thập thiện và hãy có niềm tin vào cái nên tránh và cái nên làm theo các loại hậu quả trắng và đen của những hành động ấy.
(Xem: 21408)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 22187)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 16898)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
(Xem: 12571)
Mỗi năm gần đến ngày Phật đản, Phật tử chúng ta lại có dịp suy ngẫm về bối cảnh lịch sử - xã hội, trong đó Đức Phật thị hiệnđạo Phật ra đời...
(Xem: 15339)
Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn. Nhất thiết thế gian, Sinh lão bệnh tử... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 24641)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 14244)
Ý nghĩa ra đời của Thái tử là một hàm ý trọng đại xác định Phật tính trong mỗi chúng sanh khi đã hoàn giác thì cái “duy ngã” đó là một tối thượng...
(Xem: 11656)
Thiền Và Chỉ Quán - Nguyên tác: Thiên Thai Trí Khải, Paul L. Swanson biên soạn, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
(Xem: 19763)
Pháp bản như vô pháp, Phi hữu diệc phi vô, Nhược nhân tri thử pháp, Chúng sanh dữ Phật đồng... Thiền sư Huệ Sinh
(Xem: 13438)
Đức Phật, vô cùng thực tếthiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại.
(Xem: 22823)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thươnglòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
(Xem: 19018)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
(Xem: 18474)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệtừ bi...
(Xem: 21636)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 20536)
Hương quyện của đất trời, sắc màu của trần gian, hai bờ của phân ly, hai ngã của mê ngộ, một sự thảnh thơi nhẹ bước...
(Xem: 20047)
Thực hành Bổn tôn là phương pháp đặc biệt và lớn lao để nhanh chóng chuyển hóa những sự hiện hữu thế tục mê mờ thành sự giác ngộ.
(Xem: 14090)
Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma...
(Xem: 15027)
Sau khi định tâm, tôi nhắm mắt tưởng nhớ đến Thánh: “Hôm nay con thấy vô cùng hạnh phúc được đặt chân lên Tu viện, nơi Thánh Trulshik và các vị đạotu hành...
(Xem: 13804)
Phật tử nên tin sâu vào nhân quả, tin vào đạo lý vô thường, duyên sinh, huyễn mộng của các pháp... Thích Thông Huệ
(Xem: 15123)
Khác với Trung Quốc và một số quốc gia khác, rồng không hiện hữu nơi niềm tin của người Ấn... Nghiệp Đức
(Xem: 17255)
Theo những nghiên cứu lâu dàicẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal).
(Xem: 15304)
Nụ cười của Ngài cũng là sự thể hiện hai đức hạnh quý báu trong đạo Phật, đó là hỷ, xả. Có hỷ, xả chúng ta mới nở nụ cười vui tươi chân thật, hạnh phúc, an lạc.
(Xem: 12828)
Những lời thuyết giảng của vị sư già đã mang lại cho chị một tâm hồn phong phú, bén nhạy và nhiều yêu thương hơn.
(Xem: 15897)
Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên.
(Xem: 13015)
Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu...
(Xem: 13150)
Những người mới bắt đầu nên tập trung vào việc chắc chắn rằng động cơ của họ là thanh tịnh, và cầu nguyện chí thành đến vị thầy gốc. Đây là thực hành tốt nhất.
(Xem: 15039)
Mùa xuân gần kề với niềm tin sức sống mới. Hãy tu để chuyển nghiệp! Đức Phật đã dạy như vậy! Bất kỳ hoàn cảnh nào chúng ta cũng có thể tu được...
(Xem: 22670)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 7171)
An-ban thiền được thành lập trên nền tảng là kinh An-ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập. Ngài An Thế Cao dịch có kinh An-ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập chuyên nói về thiền định...
(Xem: 19376)
Tara là hiện thân lòng từ bi của chư Phật ba thời, quá khứ, hiện tạivị lai. Bà là vị Thánh nữ có khả năng thực hiệnhoàn thành mọi hoạt động giác ngộ của chư Phật.
(Xem: 37730)
Thật ra, là hoàn toàn sai lầm khi nói rằng tôn nam này kết hợp với tôn nữ kia. Đúng ra phải nói rằng trong Tự Tánh hiển lộ ra một hình tướng bất nhị.
(Xem: 9184)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầu thiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinh điển thiền ngữ”
(Xem: 8690)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 17912)
Không tách lìa hiện tướngtánh không. Đây chính là chánh kiến, chẳng còn gì sở đắc được hơn.
(Xem: 14880)
Thiền là một con đò dùng để đưa người rời bỏ bờ khổ đau và vô minh để tới bờ của an lạcgiải thoát...
(Xem: 27069)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 19963)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15282)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15498)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26805)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 14577)
Nếu ta tiếp cận Pháp như những đứa trẻ con, ta có thể nhớ lại giây phút đầu tiên ta gặp Giáo Pháp, nó trở nên quan trọng đối với ta ra sao...
(Xem: 19727)
Mục đích chính yếu của sự hóa hiện của một vị tái sanh là để tiếp tục công việc chưa hoàn tất của vị tiền nhiệm để hộ trì Giáo pháp và [hóa độ] chúng sinh.
(Xem: 14648)
Đức Tara nhanh chóng giúp bạn thành công trong việc đạt được hạnh phúc tối hậu của giác ngộ. Bạn nhận lãnh rất nhiều công đức tốt lành, hay nguyên nhân của hạnh phúc...
(Xem: 18668)
Mắt mở nửa chừng, hãy dịu dàng cảm nhận từng hơi thở vào và ra. Và cảm nhận rằng toàn thân bạn đang dịu dàng thở.
(Xem: 15945)
Nếu giáo Pháp của Đức Phật vẫn còn hiện hữu và con có một niềm tin vững chắc thì đơn giản con đã tích lũy rất nhiều công đức trong quá khứ.
(Xem: 16367)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19382)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19744)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19913)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18623)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 29852)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 14588)
Tôi thấy thầy trao cho Út Huy gói quà, thằng nhóc vừa đưa tay nhận lấy, thầy lại móc túi áo lấy ra một chai dầu nóng dúi vào tay nó. Xong, thầy xoa đầu nó âu yếm...
(Xem: 17773)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
(Xem: 32448)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 15280)
Quán các pháp chẳng thường chẳng đoạn, cũng chẳng phải có, chẳng phải không, chỗ tâm hành diệt, ngôn thuyết cũng bặt dứt. Đó gọi là quán sâu xa thanh tịnh.
(Xem: 17319)
Quyển "Thiền tông quyết nghi tập" này do thiền sư Đoạn Vân Trí Triệt soạn vào đời Nguyên, được ấn hành vào niên hiệu Khang Hi thứ 6 (1667) đời Thanh...
(Xem: 29783)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31560)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 64730)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 32831)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 20250)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 18541)
Hiện tại chúng ta đang sở hữu thân người quý giá và đã gặp được giáo lý Phật Đà. Nhờ sự gia trìlòng từ ái của chư đạo sư, chúng ta có thể thọ nhận, nghiên cứuthực hành giáo pháp.
(Xem: 30833)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 19938)
Thực hành Kim Cương thừa được bắt đầu thông qua một quán đảnh. Để hiệu quả, quán đảnh đòi hỏi sự chứng ngộ của đạo sư, bậc trao truyền nó, cũng như sự tin tưởngtrí thông minh của đệ tử nhận nó.
(Xem: 45928)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 32608)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39372)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40472)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 50163)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 19112)
Hệ thống Phật giáo Đại thừa được hình thành vào khoảng trước sau thế kỷ thứ nhất ở những vùng Nam Ấn Độ với chủ trương “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”...
(Xem: 18570)
Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi.
(Xem: 20707)
Việc chúng ta được sinh ra làm người mang lại cho ta cơ hội và thuận lợi để thực hành Pháp và cho ta con đường dẫn tới truyền thống bao lasâu xa của Phật Pháp.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant