Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 1: Vấn đề sử liệu

20 Tháng Chín 201200:00(Xem: 7845)
Chương 1: Vấn đề sử liệu

TRẦN NHÂN TÔNG

CON NGƯỜITÁC PHẨM
Tiến sĩ Lê Mạnh Thát 
Nhà Xuất Bản TP. Hồ Chí Minh 1999


Phần I: NGHIÊN CỨU VỀ TRẦN NHÂN TÔNG

 

Chương I 
VẤN ĐỀ SỬ LIỆU

Vua Trần Nhân Tông đã được sử sách qua hàng trăm năm đánh giá là một hoàng đế anh minh, một lãnh tụ thiên tài, một vị anh hùng dân tộc. Do thế, cuộc đời vua được ghi chép tương đối tỉ mỉ, khi so với cuộc đời của một số danh nhân khác của dân tộc. Dẫu vậy, vẫn có những chi tiết không rõ ràng, đặc biệt liên hệ với các tác phẩm của nhà vua. Cho nên, để dựng lại những nét chính của cuộc đời vua Trần Nhân Tông, nhằm làm cơ sở cho việc nghiên cứu những đóng góp to lớn, mà nhà vua đã cống hiến cho đất nước về các mặt võ công và văn trị, ta phải huy động tới những nguồn tư liệu khác nhau, hiện được bảo lưu tại nước ta cũng như tại Trung Quốc

Trước hết, về phía các nguồn tư liệu Việt Nam thì tư liệu cơ bản nhất, ta phải quan tâm, dĩ nhiên là bộ ĐVSKTT, phần Bản kỷ của vua Trần Nhân Tông, do Ngô Sĩ Liên lấy lại từ Đại Việt sử ký của Phan Phu Tiên. Đây là bộ sử đầu nguồn, mà các bộ sử sau như Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sỹ (1726-1780), và Khâm định Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn đã sử dụng để viết về vị vua anh minh này. Dù có tham khảo thêm các sử liệu khác, chủ yếu xuất phát từ Trung Quốc, chúng cũng không có đóng góp gì mới. Thậm chí có điểm còn sai lạc thêm. 

Vì vậy, khi nghiên cứu vua Trần Nhân Tông, ĐVSKTT vẫn là nguồn tư liệu cấp một. 

Tuy nhiên, có những khía cạnh và sự việc của cuộc đời vua Trần Nhân Tông, mà ĐVSKTT đã không ghi lại hoặc ghi lại một cách sơ sài thiếu sót. Ví dụ những ngày cuối đời của nhà vua, ĐVSKTT chép không rõ ràng lắm, khi so với những gì do Thánh đăng ngữ lục chép lại. Do vậy, ngoài ĐVSKTT, chúng ta may mắn còn được một số các tài liệu đời Trần hoặc do người viết về sau, mà chúng ta phải tham khảo. Cụ thể là Thánh đăng ngữ lục, Thiền tông bản hạnh, Thượng sĩ ngữ lục, Việt điện u linh tập, Nam ông mộng lục và Việt âm thi tập. 

Thánh đăng ngữ lục là một tác phẩm ghi chép lại các thiền ngữ và thơ văn của các vị vua đồng thờithiền sư của đời Trần, tức các vua Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông và Minh Tông. Có thể nói đây là bộ sử Phật giáo Việt Nam từ năm 1226 khi vua Trần Thái Tông lên ngôi cho đến năm 1357 lúc vua Trần Minh Tông mất. Người viết bộ Ngữ lục này, ngày nay không thấy ghi chép. Tuy nhiên, căn cứ vào nội dung tác phẩm, ta biết tác giả phải là một người rất gần gũi với vua Trần Minh Tông, và khi viết, phải được sự đồng ý của vị vua kế nghiệp là Trần Dụ Tông và triều đình. 

Lý do nằm ở chỗ, thứ nhất, nếu không gần gũi với các vị vua Trần, đặc biệt là vua Trần Minh Tông, thì người viết không có được những tư liệu đầu tay để viết nên bộ Ngữ lục ấy, như ta có hôm nay. Thứ hai, nếu không được phép của vua và triều đình, bộ Ngữ lục ấy sẽ không bao giờ được viết, và nếu có viết lén thì không bao giờ được công bố, vì nội dung nó có nhiều điều, thậm chí nhiều văn kiện, liên hệ với các vua. Từ đó, trong số những tác gia Việt Nam được biết tên sống sau năm 1357 và có những điều kiện như vừa nói, ta thấy có thiền sư Kim Sơn, người có quan hệ chặt chẽ với vua Minh Tông và được chứng kiến những giây phút cuối đời của vị vua này. Nói cách khác, ngoài khả năng là tác giả của Thiền uyển tập anh và Cổ châu Pháp vân Phật bản hạnh ngữ lục, thiền sư Kim Sơn cũng có thể là người biên soạn Thánh đăng ngữ lục

Thực tế, Thánh đăng ngữ lục được viết theo phương pháp thực lục, nghĩa là phương pháp dùng để ghi chép sự việc hàng ngày, chủ yếu của các vị vua, mà sử gia Trung Quốc thường dùng. Cho nên, đếữn thế kỷ thứ 18, nhằm dựng lại thiền phả của dòng thiền Trúc Lâm, thiền sư Tính Quảng và Ngô Thời Nhiệm (1746 - 1803) đã trích phần Trần Nhân Tông của Thánh đăng ngữ lục, ghép với bản Niên phổ của Pháp Loa khắc trên bia tại chùa Thanh Mai và tiểu sử của Huyền Quang chép trong Tổ gia thực lục, để soạn nên tác phẩm Tam tổ thực lục. Điều đáng chú ý là dù viết theo phương pháp thực lục, Thánh đăng ngữ lục chỉ cơ bản ghi lại các sự việc liên quan tới hoạt động Phật giáo của các vị vua thiền sư, mà tuyệt đối không có bất cứ ghi chép nào quan hệ tới hoạt động chính trị và quân sự của họ. Dẫu thế, Thánh đăng ngữ lục vẫn là một tư liệu đáng quý, đặc biệt khi ta nghiên cứu các hoạt động Phật giáo của vua Trần Nhân Tông

Hơn thế nữa, Thánh đăng ngữ lục đã là nguồn tài liệu để cho thiền sư Chân Nguyên (1647-1726) sử dụng và viết nên tác phẩm Thiền tông bản hạnh. Điểm đặc biệt của bản Thiền tông bản hạnh này là khi in vào năm 1745, người đứng in đã cho in kèm vào 3 tác phẩm tiếng Việt và Ngộ đạo nhân duyên của chính Chân Nguyên. Trong 3 tác phẩm tiếng Việt ấy, thì 2 là của vua Trần Nhân Tông. Đó là Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca. Hai bài phú này, dù đến năm 1745 mới được khắc bản, nhưng chắc chắn đã tồn tại trong thế kỷ thứ 17, bởi vì Chân Nguyên đã trích dẫn Cư trần lạc đạo phú trong tác phẩm Kiến tánh thành Phật do ông viết vào khoảng những năm 1684. 

Ngoài Thánh đăng ngữ lục, ta còn có Thượng sĩ ngữ lục của Tuệ Trung Trần Quốc Tung, một danh tướng giải phóng Thăng Long của cuộc chiến tranh 1285, đã được in dưới thời Trần Anh Tông, vào khoảng những năm 1308-1311. Bộ Ngữ lục nay có chứa đựng tiểu sử của Tuệ Trung Trần Quốc Tung (1230 -1290) do chính vua Trần Nhân Tông viết. 

Bản tiểu sử ấy cho thấy một phần nào quá trình tiếp cận và học tập Phật giáo cùng văn tài của nhà vua. Không những thế, nó còn ghi lại thêm cho ta một bài thơ, mà vua đã làm để ca ngợi đại sĩ Tuệ Trung. 

Bên cạnh đó, Việt điện u linh tập do Lý Tế Xuyên viết vào khoảng những năm 1329, tuy chủ yếu ghi lại các anh hùng, liệt nữ và hạo khí anh linh của đất nước ta, cũng đã lần đầu tiên ghi chép việc Trần Nhân Tông phong tặng gia hiệu cho các anh hùng, liệt nữ và hạo khí anh linh ấy vào những năm Trùng Hưng thứ nhất (1285) và thứ tư (1288). Sự kiện này không thấy ĐVSKTT ghi lại, nhưng về mặt văn hóa có một ý nghĩa hết sức thú vị. Đó là lần đầu tiên một thần điện Việt Nam ra đời được nhà nước chính thức công khai thừa nhận. Việt điện u linh tập do thế có một vị trí khá lôi cuốn trong việc soi sáng cho ta một số quan điểm của vua Trần Nhân Tông về quá khứ thần thánh của dân tộc. 

Nam ông mộng lục do Hồ Nguyên Trừng viết vào năm 1438 ở Trung Quốc. Trong 31 thiên truyện do ông ghi lại, ta thấy Hồ Nguyên Trừng đã dành 4 thiên để ghi về vua Trần Nhân Tông. Đó là các thiên về Trúc Lâm thị tịch (số 2), Tổ linh định mệnh (số 3), Cảm kích đồ hành (số 17) và Thi ý thanh tân (số 19), nghĩa là chiếm 15% nội dung tác phẩm. Qua những ghi chép này, ta không những được cung cấp thêm một số sự kiện và văn bản liên hệ tới vuaTrần Nhân Tông, mà còn thấy được một phần nào những tác độngảnh hưởng, mà vua Trần Nhân Tông đã có đối với hậu thế

Cuối cùng là Việt âm thi tập. Tác phẩm này là một thành quả của cuộc vận động chấn hưng văn hoá dân tộc sau khi đánh đuổi quân Minh và phục hồi nền độc lập dân tộc của vị anh hùng Lê Lợi. Nó được biên soạn trong giai đoạn Phan Phu Tiên đang còn làm ở Quốc sử quán vào năm 1334 và sau đó được Chu Xa hoàn thành vào năm Diên Ninh thứ sáu (1443). Về phần Trần Nhân Tông, Phan Phu Tiên và Chu Xa đã thu thập được 26 bài thơ. Nguồn tư liệu sử dụng chắc hẳn xuất phát từ những tác phẩm, mà Quốc sử quán đã tập hợp được và Phan Phu Tiên dùng để viết nên bộ Đại Việt sử ký tục biên. 

Điểm đáng chú ý là có bài thơ Hạnh Thiên Trường phủ, Việt âm thi tập bảo là của Trần Nhân Tông và chép xuất xứ là từ Quốc sử. Quốc sử đây tức chắc chắn làĐại Việt sử ký tục biên của chính Phan Phu Tiên. Thế nhưng bản ĐVSKTT ngày nay, xuất phát từ Nội các quan bản, lại chép là của Trần Thánh Tông. Khảo Nam ông mộng lục, thì bài thơ đó cũng được ghi là của Trần Thánh Tông. Vậy bản Việt âm thi tập in năm Bảo Thái thứ 7 (1727) có sự sai sót nào chăng? 

Bản Việt âm thi tập này sau đó đã được dùng làm nguồn tư liệu cho các tác phẩm có ghi chép về thơ văn của các vua quan đời Trần. Điển hình là bộ sách đồ sộ Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn và Trần triều thế phả hành trạng của một tác giả vô danh đời Nguyễn. Về phần Trần Nhân Tông, Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn, sau khi loại bài thơ Hạnh Thiên Trường phủ, cũng chỉ giới hạn trong số 26 bài thơ, mà Việt âm thi tập đã có, chứ không bổ sung thêm được bài nào. Thánh đăng ngữ lục đươc thiền sư Chân Nguyên in vào năm 1705 và bản in do Tính Quảng đề tựa vào năm 1750 đã không đến tay Lê Quý Đôn. Vì vậy, ông đã không thể khai thác số thơ văn có ghi chép trong tác phẩm đó. Trần triều thế phả hành trạng càng giới hạn hơn, chỉ ghi lại được hơn 18 bài. 

Còn về nguồn tư liệu Trung Quốc, thì Nguyên sử, đặc biệt là phần viết về đất nước ta biết dưới mục An Nam truyện, cung cấp một phần lớn các thông tin liên hệ đến hai cuộc chiến tranh Mông - Việt vào những năm 1285 và 1288 và những quan hệ ngoại giao trước và sau hai cuộc chiến tranh này. Để bổ sung, ta có An Nam chí lược của Lê Thực, Thiên nam hành ký của Từ Minh Thiện và Trần Cương Trung thi tập của Trần Phu. Các tác giả của ba tác phẩm này đều là những người cùng thời với vua Trần Nhân Tông, đã đứng về phía kẻ thù của dân tộc và tham gia trực tiếp vào các hoạt động chính trị, quân sự liên hệ với nước ta dưới dạng này hay dạng khác. Cho nên, dù nhìn những hoạt động ấy dưới lăng kính đối lập với quyền lợi của dân tộc, họ vẫn cho ta một số thông tin chính trị và quân sự có quan hệ với vua Trần Nhân Tông

Đặc biệt, họ đã giữ lại cho ta 22 văn kiện ngoại giao, mà vua Trần Nhân Tông đã gửi cho vua quan nhà Nguyên. Đây là một mảng tư liệu, phía nước ta trong bảy trăm năm qua tuy có biết đến, nhưng chưa bao giờ khai thác có hệ thốngcông bố đầy đủ, nhằm làm cơ sở cho sự nhận thức về cuộc đấu tranh ngoại giao đầy cam go trước và sau hai cuộc chiến tranh vừa nói. Chẳng hạn, Lê Quí Đôn có nhắc tới Thiên nam hành ký và Sứ Giao tập của Trần Cương Trung thi tập, song chỉ nhặt được một bài thơ của Trần Phu trong Kiến văn tiểu lục. 

Ngoài ra, một bức họa do Trần Giám Như vẽ mang tên Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ vào năm Chí Chính thứ 23 (1363) đã được Trần Quang Chỉ đề từ vào năm Vĩnh Lạc thứ 18 (1420) ghi lại tóm tắt cuộc đời Trần Nhân Tông tương đối tổng quát, có một số chi tiết khá lôi cuốn

Tuy nhiên, khi sử dụng các nguồn tư liệu Trung Quốc, ta gặp một số vấn đề cần phải giải quyết dứt điểm. Thứ nhất, về vấn đề lịch pháp thì những người nghiên cứu cho đến ngày nay đã thống nhất là hệ thống lịch pháp nước ta thời bấy giờ hoàn toàn phù hợp với hệ thống lịch pháp của Trung Quốc đời Nguyên. Cho nên những năm tháng ghi ra các sử kiện giữa những sử liệu Việt NamTrung Quốc không có sai lệch gì nhiều. Nếu về cùng một sự kiện mà có những sai lệch thì, hoặc do những thông tin khác nhau, hoặc do những truyền bản ghi chép bị nhầm lẫn. Trong Toàn tập này, chúng tôi chủ yếu sử dụng hệ thống ngày tháng của lịch pháp ta, và chỉ đổi ra ngày tháng dương lịch ở những nơi cần thiết để tránh sự rối rắm không đáng có. Chỉ riêng đối với những năm Giáp Tý thì chúng tôi có chua ở trong ngoặc đơn năm dương lịch để cho tiện bề theo dõi

Thứ hai, vấn đề tên tuổi của các nhân vật lịch sử thời đó. Đối với tên các nhân vật lịch sử Trung Quốc, nhất là tên những người thuộc tộc Mông Cổ, chúng tôi cơ bản vẫn chấp nhận cách phiên âm của Nguyên sử, trừ những trường hợp bị chép sai khi so với một số sử liệu khác. Trường hợp này chúng tôi cho đính chính lại và có ghi chú rõ ràng. Nói thế có nghĩa chúng tôi cũng tái dựng lại tên của những nhân vật này trong tiếng Mông Cổ và để trong ngoặc đơn, chứ không thay thế tên đã được lưu hành trong sử sách Trung Quốc như một số nhà nghiên cứu đã làm trước đây. 

Trong liên hệ này cần nói một chút về chữ Thực của tên Việt gian Lê Thực. Trong tiếng Hán tên này được viết () và các sử sách viết bằng tiếng quốc ngữ trước nay thường phiên âm là Tắc hoặc Trắc. Tuy nhiên, ĐVSKTT 5 tờ 46b5-6, dưới chữ () ấy được chua là “thổ lực thiết”. Điều này có nghĩa, ta phải đọc chữ ( ) là Thực thay vì Trắc hoặc Tắc. Thứ ba, về tên các nhà lãnh đạo Việt Nam, cụ thể là các vị vua nhà Trần, do sử liệu Trung Quốc ghi lại. Đây là một vấn đề khó khăn. Khi nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông của nhà Trần trong Annam shi kenkyu, Yamamoto đã dành hẳn một chương để nghiên cứu vấn đề này, tức Chinchõ no omei ni kansuru kenkyu.1 Dẫu thế, những kết luận của Yamamoto theo chúng tôi vẫn chưa thỏa đáng lắm. Vì vậy, cần phải làm những nghiên cứu mới. Đây là một yêu cầu, mà ta phải thỏa mãn để việc trình bày các sử kiện cũng như các tác phẩm liên hệ đến vua Trần Nhân Tông mới rõ ràng và có tính thuyết phục cao. 

Theo các sử liệu Trung Quốc, cụ thể là An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 1a8 và 1b4, thì vị vua đầu tiên của nhà Trần là Trần Nhật Cảnh, “đến tháng hai năm Mậu Ngọ thì Nhật Cảnh truyền nước cho con trưởng là Quang Bính, cải nguyên là Thiệu Long... ”. Điều này hoàn toàn phù hợp với những gì do Ngô Sĩ Liên chép lại trong ĐVSKTT. 

ĐVSKTT quyển 5 tờ 24a4-6 viết: “Ngày 24 tháng 2 năm Mậu Ngọ, vua nhường ngôi cho Hoàng Thái tử, rút lui về ở Bắc cung. Thái tử lên ngôi Hoàng đế cải nguyên là Thiệu Long”. Vậy rõ ràng Quang Bính của Nguyên sử là một tên khác của vua Trần Thánh Tông trong ĐVSKTT. 

Tiếp đến, An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 3b13 viết: “Năm (Chí Nguyên) 14, Quang Bính chết, người trong nước lập thế tử Nhật Huyên, sai trung thị đại phu Châu Trọng Ngạn, trung lượng đại phu Ngô Đức Thiệu đến chầu”. Năm Chí Nguyên thứ 14 tức năm 1277. Đây đúng là năm vua Trần Thái Tông Nhật Cảnh mất, như ĐVSKTT 5 tờ 59a6-7 đã ghi. Chính dựa vào năm mất này của Quang Bính, mà Yamamoto đã đi đến kết luận Quang Bính chính là một tên khác của vua Trần Thái Tông và Trần Nhật Huyên là tên của vua Trần Thánh Tông. 

Tuy nhiên, Bản kỷ của Nguyên sử 10 tờ 4a12 lại chép: “Năm (Chí Nguyên) 15, tháng sáu ngày Tân Tỵ, vua nước An Nam là Trần Quang Bính sai sứ dâng biểu đến cống”. Rõ ràng nếu Quang Bính chết vào năm Chí Nguyên thứ 14 (1277) thì tất nhiên đến năm Chí Nguyên thứ 15 không thể nào gửi sứ đến cống được. Yamamoto cho là An Nam truyện chép nhầm 14 thành 15. Song một đề xuất như thế tỏ ra không thuyết phục lắm, vì nếu Quang Bính là một tên khác của vua Trần Thánh Tông, thì năm Chí Nguyên 15 vẫn còn gửi sứ qua Nguyên. Dù với trường hợp nào đi nữa, trong Nguyên sử ta có hai thông tin khác nhau về Quang Bính. Một nói Quang Bính chết năm 1277, và một nói Quang Bính năm 1278 còn gửi sứ qua cống. Vậy không thể đơn giản chỉ dựa vào năm mất của Quang Bính ở An Nam truyện của Nguyên sử để kết luận Quang Bính là tên vua Trần Thánh Tông, như Yamamoto đã làm. 

Ngoài ra, Bản kỷ của Nguyên sử 10 tờ 13b3-4 chép: “Ngày Nhâm Tý tháng 11 năm Chí Nguyên 16 (1279) sai Lễ bộ thượng thư Sài Thung cùng đi với sứ nước An Nam là Đỗ trung tán đem chiếu đến dụ thế tử An Nam là Trần Nhật Huyên vào chầu”. Điều này xác định tên Nhật Huyên chỉ xuất hiện trong sử sách Trung Quốc vào thời điểm, khi vua Trần Nhân Tông đã lên ngôi, tức tháng 10 năm Mậu Dần (1278), như ĐVSKTT 5 tờ 37b9 - 38a1 đã ghi cùng với việc vua Trần Nhân Tông sau đó đã tiếp phái bộ của Sài Thung. 

Thêm vào đó, tên Trần Nhật Huyên còn xuất hiện một năm sau khi vua Trần Thánh Tông đã mất, tức năm Chí Nguyên thứ 28 (1291). Bản kỷ của Nguyên sử 16 tờ 11b8-9 chép: “Năm (Chí Nguyên) thứ 28 tháng 9 ngày Tân Hợi, vua An Nam là Trần Nhật Huyên sai sứ dâng biểu cống phương vật, vừa để tạ tội không đến chầu”. 

Sự kiện này, Yamamoto có đề cập tới, nhưng cho đây là một chép sai. Tuy nhiên, căn cứ vào những sự kiện, như ta vừa thấy trên và theo cách đồng nhất của chúng tôi, thì Trần Nhật Huyên ở đây chính là vua Trần Nhân Tông, chứ không phải vua Trần Thánh Tông. Cần nhớ là Bản kỷ của Nguyên sử chép Quang Bính còn sai sứ qua Nguyên sau khi vua Trần Thái Tông đã chết được một năm. Một lần nữa, vua Thánh Tông đã mất một năm, mà Nhật Huyên còn gửi sứ. Việc đồng nhất Quang Bính với vua Trần Thánh Tông và Nhật Huyên với vua Trần Nhân Tông cho phép ta không cần phải nại đến những giả thiết của sự chép sai. Thực tế, Bản kỷ ít chép sai hơn phần Liệt truyện nhiều, bởi vì Bản kỷ chỉ ghi chép dựa vào Khởi cư chú, tức nhật ký những việc làm của vua hằng ngày như tiếp sứ, nhận biểu tấu, ra chiếu chỉ v.v..., trong khi Liệt truyện phải tổng hợp nhiều nguồn tư liệu khác nhau, do đó dễ đưa đến sai sót. 

Hơn nữa, Kinh thế đại điển tự lục do Triệu Thế Diên và Ngu Tập soạn vào những năm 1330-1331, về mục Chinh phạt, mà sau này được sao lại vào Nguyên văn loại 41 tờ 26b1 đến 27b6, chép ở tờ 27a8 việc “Đường Ngột Đãi đuổi Nhật Huyên và Thượng hoàng đến cửa biển An bang”. Một lần nữa, Nhật Huyên lại có Thượng hoàng. Nếu Nhật Huyên là vua Trần Thánh Tông, và vua Trần Thái Tông đã mất vào năm 1277, thì làm gì vào năm 1285, khi cuộc chiến tranh lần thứ hai nổ ra, lại có mặt Thượng hoàng Trần Thái Tông

Chỉ dựa trên bốn chứng cứ này thôi thì Nhật Cảnh không còn nghi ngờ gì nữa phải là vua Trần Thái Tông, Quang Bính phải là vua Trần Thánh Tông và Nhật Huyên là vua Trần Nhân Tông. Tuy nhiên, cũng có hai chi tiết để Yamamoto nghĩ rằng Trần Nhật Huyên chính là vua Trần Thánh Tông. 

Thứ nhất là việc An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 10a9 ghi: “Năm (Chí Nguyên) 27, Nhật Huyên chết, con là Nhật Tôn sai sứ đến cống”. Năm Chí Nguyên 27 (1290) là năm vua Trần Thánh Tông mất, như ĐVSKTT 5 tờ 59a6-7 đã ghi. 

Chi tiết thứ hai là việc An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 7a10-12 ghi lại báo cáo mô tả những gì, mà quân Nguyên khi chiếm Thăng Long đã thấy được trong cuộc chiến tranh năm 1285. Theo đó thì “Nhật Huyên tiếm xưng Đại Việt quốc chúa, Hiến Thiên Thể Đạo Đại Minh Quang Hiếu hoàng đế Trần Uy Hoảng, nhường ngôi cho Hoàng thái tử, lập Hoàng thái tử phi làm hoàng hậu. (...) Nhật Huyên liền ở ngôi Thái Thượng hoàng, thấy lập vua nước An Nam thuộc hệ con của Nhật Huyên, lưu hành niên hiệu Thiệu Bảo”. Hiến Thiên Thể Đạo Đại Minh Quang Hiếu hoàng đế đúng là tôn hiệu của vua Trần Thánh Tông như ĐVSKTT 5 tờ 24b8 đã ghi. Và niên hiệu Thiệu Bảo đúng là niên hiệu của vua Trần Nhân Tông, mà ở đây được xác định là niên hiệu thuộc con của Nhật Huyên. 

Căn cứ vào hai chi tiết này, Nhật Huyên quả là tên chỉ vua Trần Thánh Tông, và Nhật Tôn quả chỉ vua Trần Nhân Tông. Tuy vậy, không thể hoàn toàn dựa vào hai chi tiết này để xác định Quang Bính là tên vua Trần Thái Tông, Nhật Huyên là tên vua Trần Thánh Tông và Nhật Tôn là tên vua Trần Nhân Tông, như Yamamoto đã làm. Lý do nằm ở chỗ nếu đem hai chứng cớ này so với bốn chứng cớ trên thì chỉ số lượng thôi cũng không cho phép ta đi đến một kết luận kiểu ấy. 

Sự thật, tất cả rối rắm đấy có nguyên do của nó. Nguyên do thứ nhất là sự lên ngôithoái vị của các vua Việt Nam cho đến thời đại vua Trần Nhân Tôngtrở về sau thường không được báo cáo hoàn toàn chính xác trong các văn thư gửi cho các vua Trung Quốc. Chẳng hạn, ngay từ thời Đinh Tiên Hoàng, Đinh Liễn đã viết thư cho vua Tống như là lãnh tụ tối cao của nước Đại Cồ Việt, chứ không phải là Đinh Tiên Hoàng, như Tống sử ghi. Gần hơn, sau thời vua Trần Nhân Tông, ta thấy An Nam truyện của Nguyên sử ghi rời rạc tên của những người kế nghiệp như Nhật Sủy vào năm Chí Đại thứ 5 (1311), Nhật Khoáng năm Thái Định thứ nhất (1324), mà trong sử liệu Việt Nam, cụ thể là ĐVSKTT, ta không bao gờ tìm thấy những tên người như thế. 

Xuất phát từ những văn thư qua lại không chính xác này giữa Việt NamTrung Quốc, sự rối rắm càng gia tăng vào thời điểm vua Trần Nhân Tông lãnh đạo kháng chiến trong cuộc chiến tranh năm 1285, do sự có mặt của một số tên Việt gian đầu hàng giặc như Trần Ích Tắc, Trần Văn Lộng, Lê Thực trong hàng ngũ đối phương. Chính bọn này đã cung cấp những báo cáo nhiều mặt về đất nước ta, trong đó chắc chắn có cả việc lên ngôithoái vị của các vua chúa Việt Nam và quan hệ giữa họ với nhau. Chính từ những báo cáo của chúng và từ những văn thư vừa nói đã tạo nên mớ hỗn độn mâu thuẫn, như vừa thấy ở trên. Và đấy là nguyên do thứ hai. Do thế, ta không thể dựa vào các sử liệu Trung Quốc để đồng nhất các tên do chúng ghi lại với tên các vị vua có trong sử liệu Việt Nam. Phải hoàn toàn dựa vào sử liệu Việt Nam, lấy chúng làm cơ sở để xác định tên các vị vua xuất hiện trong sử liệu Trung Quốc là ai. Sử liệu Trung Quốc trong trường hợp này chỉ dùng để tham khảo

Quan điểm chúng tôi, vì vậy, không chấp nhận cách giải quyết của Yamamoto bằng việc đồng nhất Quang Bính với vua Trần Thái Tông, Nhật Huyên với vua Trần Thánh Tông và Nhật Tôn với vua Trần Nhân Tông, do việc những sử liệu không cho phép đồng nhất một cách dễ dàng như thế, ngay cả về phía Trung Quốc, mà ta đã thấy trên. Chúng có quá nhiều mâu thuẫn. Cho nên, cách giải quyết của chúng tôi là lấy chính sử Việt Nam làm sử liệu cơ bản. Căn cứ trên các cơ sở sử liệu này, chúng tôi coi Quang Bính chính là vua Trần Thánh Tông, Nhật Huyên và Nhật Tôn chính là những tên gọi khác nhau của vua Trần Nhân Tông, còn Nhật Sủy và Nhật Khoáng là chỉ vua Trần Anh Tông và vua Trần Minh Tông. Đặc biệt, việc đồng nhất Nhật Huyên và Nhật Tôn với vua Trần Nhân Tông, vì vua Trần Nhân Tông là đối tượng nghiên cứu của chúng ta

Sự đồng nhất các tên gọi kể trên xuất phát từ hai nguồn sử liệu khác nhau. Thứ nhất, về phía Trung Quốc, cụ thể là Nguyên sử Bản kỷ và Kinh thế đại điển tự lục, đều xác nhận Quang Bính sống cho đến năm Chí Nguyên 15 (1278) trong khi vua Trần Thái Tông mất trước đó một năm (1277), và Nhật Huyên năm 1279 mới sai sứ qua cống cho đến năm 1291, nghĩa là sau khi Trần Thánh Tông mất một năm và có Thượng hoàng của mình trong cuộc chiến năm 1285. 

Và thứ hai, về phía sử liệu Việt Nam, Hồ Nguyên Trừng và Ngô Sĩ Liên cho rằng “Gia pháp của họ Trần... thì khi con đã lớn liền cho nối ngôi chính, cha lui ở cung Thánh Từ xưng là Thượng hoàng, cùng trông coi chính sự, kỳ thực chỉ truyền ngôi để yên việc sau, phòng khi thảng thốt mà thôi, chứ mọi việc đều do ở Thượng hoàng quyết định cả” (Nam ông mộng lục, tờ 3a7-9 và ĐVSKTT 5 tờ 24a9-b3). Song trong trường hợp vua Trần Nhân Tông, dù Thượng hoàng Thánh Tông đang còn, nhưng tất cả mọi việc đều chính do vua Trần Nhân Tông quyết định. Thí dụ điển hình là sự kiện “Đỗ Hành chỉ được phong quan nội hầu, vì khi bắt được Ô Mã Nhi không dâng lên vua mà lại dâng lên Thượng hoàng”, như ĐVSKTT 5 tờ 56b9 - 57a1 đã ghi. Việc Đỗ Hành không được phong tước cao này rõ ràng xác định vai trò của vua Trần Nhân Tông trong sự lãnh đạoquyết định công việc của đất nước. Thực tế, ĐVSKTT đã ghi chính vua Trần Nhân Tông đã tiếp các phái bộ của Trung Quốc từ cuối năm 1278 cho đến khi mất. 

Sự thật, việc nghiên cứu vua Trần Nhân Tông cũng như bất cứ nhân vật lịch sử nào của Việt Nam, tất nhiên phải lấy các sử liệu Việt Nam làm chính. Song vào thời vua Trần Nhân Tông, nước ta có những quan hệ ngoại giao và quân sự với Trung Quốc. Quan hệ ấy đặc biệt đã để lại cho ta một số sự kiệntác phẩm mang tên những người lãnh đạo đất nước ta, nhưng lại không có trong chính sử của Việt Nam. Vì vậy, nó đòi hỏi ta phải xác định các tên vừa nêu liên hệ với những nhân vật nào có mặt trong chính sử ấy. Ngay một sự kiện vua nhà Trần đã đổi tên mình trong quan hệ ngoại giao với Trung Quốc đã cho thấy ít nhiều ý đồ các hoàng đế Đại Việt không muốn cho phía Trung Quốc biết rõ nhân thân của các nhà lãnh đạo Việt Nam. Việc dài dòng bàn cãi để đồng nhất các tên ấy với nhau trở thành tất yếu. 

Một lý do nữa là vì vấn đề này đã được một số nhà nghiên cứu nước ta đề cập tới, nhưng đã dễ dàng chấp nhận cách giải quyết của Yamamoto. Thực tế, cách giải quyết của Yamamoto, như chúng tôi đã chứng tỏ, có quá nhiều sơ hở, đặc biệt ông đã không coi trọng chính sử Việt Nam làm cơ sở. Vì thế, khi bàn cãi, chúng tôi không chỉ nhắm đến những sơ hở của chính Yamamoto, mà còn nhắm đến việc sửa sai những tác động nhận thức của Yamamoto đối với giới nghiên cứu sử học của nước ta. 

Từ đây, trong tác phẩm này, chúng tôi tập trung tất cả các sử kiện và tác phẩm mang tên Trần Nhật Huyên và Trần Nhật Tôn về cho chính vua Trần Nhân Tông. Chỉ trừ hai chi tiếttôn hiệu Hiến Thiên Thể Đạo Đại Minh Quang Hiếu hoàng đế và việc Nhật Huyên mất vào năm Chí Nguyên 27, còn tất cả sử kiện khác do phía Trung Quốc ghi lại dứt khoát là thuộc về vua Trần Nhân Tôngchúng tôi sẽ không bàn cãi gì thêm nữa. 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19529)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
(Xem: 18636)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 16173)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 30010)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 25574)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 21709)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 17887)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 20872)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26401)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 33429)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 52287)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 22945)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23467)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 39750)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 21858)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 22473)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 6907)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22782)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 69908)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 44126)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23183)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 35150)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 44185)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42983)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44524)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 24975)
"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài, Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân..." HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 24435)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39314)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 39352)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 17311)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 18106)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19323)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35750)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24299)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 19680)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 20469)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 18376)
Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ...
(Xem: 19102)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 19006)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 17551)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 19389)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 30963)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19270)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 20589)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19644)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19851)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 29924)
Rạng ngời một đóa kỳ hoa Vô cùng huyền diệu tinh ba khôn lường Linh Đàm phổ hóa tứ phương
(Xem: 17888)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
(Xem: 19474)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 19938)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 58880)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 24465)
Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hóa hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng...
(Xem: 23609)
Phật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.
(Xem: 39850)
Chùa Phật Đà - San Diego, California tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL.2556 ngày 5/6/2012
(Xem: 26779)
Thông Điệp Phật Đản Của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon - Văn Công Hưng dịch
(Xem: 40853)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 22937)
Tuy Ngài đã nhập diệt nhưng chánh pháp vẫn được lưu truyền mãi trong thế gian như là một con đường đưa chúng ta thoát khỏi sự khổ đau để tìm về bờ giải thoát.
(Xem: 22996)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất...
(Xem: 21674)
Nhớ Phật đản là nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc đời ô trược này đã từng hiện sinh một Đức Phật đem tình thươngtrí tuệ soi sáng nhân gian...
(Xem: 18700)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 22635)
Vui thay Đức Phật ra đời chỉ con người mọi việc đều xuất phát từ duyên khởi rồi dẫn tới nhân quả. Một chiếc lá rụng ở đây biết đâu là ngọn gió từ ngoài biển...
(Xem: 21123)
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái...
(Xem: 19278)
Lâm Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người vô cùng hoan hỷ.
(Xem: 20993)
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện giữa Trung Ấn Độ để sau này trở thành một bậc Vĩ Nhân...
(Xem: 20406)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 30613)
Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt...
(Xem: 20242)
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử, cuộc đời Ngài có vô vàn điều phi thường. Mà vĩ đại nhất là, Ngài đã chứng ngộ giải thoát, và đem pháp ấy truyền dạy cho chúng sanh.
(Xem: 17518)
Bậc đại Thánh ứng hiệnthế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi.
(Xem: 16658)
Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng...
(Xem: 16929)
Hằng năm, cứ vào dịp đến những ngày tháng tư âm lịch, lòng tôi lại dâng lên một niềm hân hoan khôn tả; niềm vui ấy chính là khoảnh khắc đón chờ đến ngày Phật đản...
(Xem: 14997)
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2556 - 2012 của Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 14902)
Tự do là điều có thể. Chúng ta không phải bị nhốt trong đau khổ. Có con đường để thoát khổ. Và con đường đó không gì khác là thực hành bát chánh đạo.
(Xem: 22940)
Trần gian cung phụng Đản sanh Mỗi Tâm mỗi Bụt viên thành truyện xưa Quản chi tạt gió xan mưa...
(Xem: 16096)
Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng...
(Xem: 16269)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
(Xem: 15323)
Nói chung, sự hiện thân của đức Từ Phụ Thích Ca làm cho thế giới đang rưng rưng lệ bỗng hóa thành nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt của vạn hữu.
(Xem: 26244)
Bao la biển rộng sông dài. Tháng Tư ấm đậm tình người Việt Nam Lũy tre hiện mái chùa làng...
(Xem: 17273)
Tướng chữ 卍 vạn là phù hiệu của điềm lành được xưng là "Cát Tường Hải Vân" hoặc là "Cát Tường Hỷ Thí".
(Xem: 15902)
Đại lễ Phật đản 2508-1964 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng và mở ra một trang sử mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Nguyên Ly
(Xem: 19885)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 17773)
Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát.
(Xem: 14767)
Vào ngày thứ ba, trong một thông điệp nhân ngày lễ Phật Đản của Phật Giáo (Lễ Vesak), một vị Hồng Y Thiên Chúa Giáo La Mã đã ca ngợi Phật Giáo...
(Xem: 14816)
Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật...
(Xem: 19226)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15221)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 33145)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17583)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19217)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 21899)
Lumbini…! Sáng nao bình minh xanh lấp lánh Rừng cây reo, chim muôn cành xào xạc Khấp khởi nắng vàng, rộn rã nghìn hoa
(Xem: 23151)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16706)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16582)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16636)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 23102)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26514)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12833)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29633)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27851)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 26022)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 18527)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant