Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

03. Vua Trần Nhân Tông Với Kinh Kim Cang

20 Tháng Chín 201200:00(Xem: 13743)
03. Vua Trần Nhân Tông Với Kinh Kim Cang

VUA TRẦN NHÂN TÔNG VỚI KINH KIM CANG

Thích Thái Hòa

Trần Nhân Tôn con của Thượng hoàng Trần Thánh Tôn. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, “vua sinh ngày 11 tháng 11 năm Giáp Ngọ (Nguyên phong thứ 8, 1258), được tinh anh của thánh nhân, đạo mạo thuần túy, nhan sắc như vàng, thể chất hoàn toàn, thần khí tươi sáng, hai cung đều cho là lạ, gọi là Kim tiên đồng tử; ở hai bên tả có nốt ruồi đen, cho nên có thể cáng đáng được việc lớn; ở ngôi 14 năm, nhường ngôi 5 năm, thọ 51 tuổi, băng ở Ngọa vân am, hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp phục hưng làm vẻ vang đời trước, thực là vua hiền của nhà Trần. Song vui lòng ở kinh Phật, tuy bảo là đến chỗ siêu thoát, nhưng không phải là đạo trung dung của thánh nhân.” (ĐVSKTT I, tr 450, Nxb Văn Học, 2006).

Vậy, trong sự tu tập và hành hoạt độ đời của vua Trần Nhân Tôn còn gọi là Điều Ngự Giác Hoàng, là vị sơ Tổ của Phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử đời Trần đã có ảnh hưởng kinh Kim Cang như thế nào?

Đọc hai nguồn tư liệu chính về vua Trần Nhân Tôn, gồm Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, của Ngô Sĩ Liên viết từ đời Lê; và Thánh Đăng Ngữ Lục, được viết từ đời Trần, không ghi tên tác giả, ấy là tác phẩm ghi lại các ngữ lục và thơ văn của các vua nhà Trần, kể từ vua Trần Thái Tôn đến vua Trần Minh Tôn.

Bản Thánh Đăng này đã được khắc in nhiều lần bởi Huệ Đăng ở Long Động, vào năm Ất dậu, niên hiệu Vĩnh Thịnh (1705) và bản khắc in năm 1750, do Tính Quảng – Thích Điều Điều ở viện Thiền Phong, núi Tử Sầm đề tựa.

Ngoài ra còn có các nguồn tư liệu khác như: Việt Điện U linh Tập, do Lý Tế Xuyên viết khoảng năm 1329; Nam Ông Mộng Lục, do Hồ Nguyên Trừng viết, 1438; Việt Âm thi Tập, do Phan Huy Tiên viết khoảng 1334; Đại Việt Sử Ký Tục Biên của Phan Phu Tiên; Toàn Việt Thi Lục của Lê Quý Đôn; Thiền Tông Bản Hạnh của Chân Nguyên đời Lê… và Tam Tổ Thực Lục, bản trùng khắc, thời Thành Thái thứ 9, năm 1897, do Tỷ kheo Diệu Trạm viết lời dẫn, Sa môn Thanh Cừ, Thanh Vân giúp việc khắc bản.

Qua các nguồn tư liệu ấy cho ta cái nhìn bao quát cuộc đời của vua Trần Nhân Tôn có bốn giai đoạn rõ ràng. – Giai đoạn tuổi trẻ và học tập – Giai đoạn làm vua – Giai đoạn làm Thượng hoàng – Và giai đoạn xuất gia làm Tăng sĩ.

Đối với giai đoạn tuổi trẻ và học tập, khi mới sinh ra, vua đã được phụ hoàng Trần Thánh Tôn đặt tên là Kim Phật. Đặt tên cho Thái tử như vậy, giúp cho ta biết rằng, ý nguyệncon đường giáo dục của vua Trần Thánh Tôn đối với Thái tử Kim Phật sau này như thế nào. Ấy là con đường giáo dục, không những khiến Thái tử Kim Phật, lớn lên có khả năng gánh vác sự nghiệp của quốc gia xã tắc, mà còn là bậc đại khí có khả năng làm Thầy khắp cả mười phương thiên hạ, như ở trong Thiền Tông Bản Hạnh mô tả:

  “Thái tử trí cả bằng nay,
Gánh vác đại khí làm thầy mười phương.”

Khi lớn lên, Thái tử Kim Phật được vua Trần Thánh Tôn đặt tên là Khâm, không những vua trực tiếp giáo dục mà còn có cả Tuệ Trung Thượng Sĩ nữa. Theo Thánh Đăng Lục cho ta biết: “Bản chất của vua thông minh, hiếu học, có nhiều tài năng, xem hết các sách, thông suốt hết cả nội điển lẫn ngoại điển. Thường bàn luận về tâm tông với các thiền khách. Lại tham học với Tuệ Trung Thượng Sĩ, đạt đến chỗ cốt tủy của thiền và thờ Tuệ Trung Thượng Sĩ làm thầy.”

Và theo Trần Quang Chỉ, ghi ở trong bức tranh Trúc Lâm Đại Sĩ Xuất Sơn Đồ, đã cho ta biết về sự nghiệp học tập của vua lúc tuổi trẻ như sau: “Học thông tam giáo và hiểu sâu phật điển. Ngay cả thiên văn, lịch số, binh pháp, y thuật, âm luật không thứ gì là không mau chóng nắm bắt được sâu sắc”. (Lê Mạnh Thát – Toàn Tập Trần Nhân Tông, Nxb Tổng Hợp TP HCM 2006).

Như vậy, ta thấy vua Trần Nhân Tôn lúc thiếu thời đã được Phụ hoàng Trần Thánh Tôn giáo dục với một nền giáo dục cả đạo đời toàn diện.

Theo Thánh Đăng Lục, năm 16 tuổi được lập làm hoàng Thái tử, Ngài đã cố ý từ chối mấy lần, nhường lại cho em, nhưng phụ hoàng không chấp nhận. Tuy sống trong cảnh vui hòa hạnh phúc, nhưng Trần Nhân Tôn vẫn hướng tâm về đời sống tu hành. Một hôm, Trần Nhân Tôn vượt kinh thành trốn đi, định vào núi Yên tử. Đến chùa Tháp ở núi Đông Cứu thì trời vừa sáng, trong người quá mỏi mệt, Ngài liền nằm nghỉ ở trong tháp. Vị Tăng trong chùa thấy dáng mạo khác thường liền làm cơm thiết đãi. Hôm ấy, Thái hậu liền trình bày hết cho Thánh Tôn nghe, Vua nghe xong, liền sai quần thần đi tìm kiếm khắp nơi, bất đắc dĩ, Ngài mới trở về.

Giai đoạn làm vua, cũng theo Thánh Đăng Lục, Trần Nhân Tôn lên ngôi, ngày 12 tháng 02 năm Mậu dần, tức năm 1278. Tuy ở trong cảnh vinh hoa tột bực, nhưng vua Trần Nhân Tôn vẫn tự giữ mình thanh tịnh.

Có lần ngủ trưa trong chùa Tư Phúc ở đại nội, vua nằm chiêm bao thấy từ nơi rốn mọc lên hoa sen vàng, lớn như bánh xe, trên hoa có đức Phật vàng, có một người đứng bên cạnh chỉ vào vua và hỏi: “Biết đức Phật này chăng? Đó là đức Phật Biến Chiếu đấy!”. Ngay đó, vua giựt mình tỉnh dậy, đem giấc mộng trình lên vua cha. Thượng hoàng Trần Thánh Tôn rất mừng, cho là việc khác thường. Sau giấc chiêm bao này vua ăn chay trường, thân thể ốm gầy, phụ hoàng Thánh Tôn thấy lạ liền hỏi. Nhân Tôn thưa thực lý do với phụ hoàng. Thánh Tôn khóc bảo: “Ta nay già rồi, trông cậy một mình con, nếu con làm như thế, thì sự nghiệp của Tổ tông sẽ ra sao? Trần Nhân Tôn nghe phụ hoàng nói vậy cũng rơi nước mắt”.

Theo quốc sử, mới lên ngôi, vua Trần Nhân Tôn, đã thực hiện chính sách “đại xá cho thiên hạ”. Và cũng nhiều lần thực hiện chính sách “đại xá cho thiên hạ” trong quãng đời làm vua của mình. Vua cũng đã trực tiếp giải quyết việc khiếu kiện của người dân đối với Trần Thiên Thư là em của Đỗ Khắc Chung, ngay giữa đường,… Về ngoại giao, vua đã ban giao tốt với triều đình ở phương Nam, đối xử thận trọng và khôn khéo từ chối những yêu sách của triều đình Hốt tất liệt ở phương Bắc và không trực tiếp đến chầu. Đối với chính trị và quân sự, vua đã triệu tập hội nghị Bình Than năm 1282, để cùng với vương hầu, các tướng sĩ bàn kế đánh giặc Nguyên giữ nước. Năm 1284, vua lại triệu tập hội nghị Diên Hồng, cùng với các bô lão trong nước bàn kế đánh giặc Nguyên, trong hội nghị muôn người như một đều nói lên một lời là “đánh”. Nhờ những hội nghị như vậy mà đoàn kết được vua tôi và nhân dân, nên đã hai lần đánh bại Nguyên Mông, khiến vua đã có lời cảm thán:

 Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện kim âu.
Xã tắc hai phen chồn ngựa đá
Non sông nghìn thuở vững âu vàng.

Cuộc đời làm vua, Trần Nhân Tôn phải đối mặt và chiến thắng hai cuộc chiến tranh với Nguyên Mông, ổn định chính trị, phát triển quân sự hùng mạnh, giữ vững biên cương, giao hảo với các nước láng giềng, mở mang nền học vấn, phát triển kinh tế, chủ trương tự chủ về ngôn ngữ. Theo Quốc sử, tháng tư, năm Mậu tý (1288), Vua chiếu chỉ cho Ty hành khiển giao hảo với Hàn lâm viện. Theo lệ cũ, hễ tuyên đọc chiếu chỉ của vua, thì Hàn lâm viện, đưa trước bản thảo chiếu chỉ, cho Ty hành khiển để tập đọc trước. Đến khi tuyên đọc, thì gồm giảng đọc cả âm lẫn nghĩa khiến cho dân thường dễ hiểu”. (ĐVSKTT, tr. 477, Nxb Văn Học, 2006).

Như vậy, quãng đời làm vua của Trần Nhân Tông, hai lần đánh dẹp ngoại xâm hùng mạnh của phương Bắc, giữ yên bờ cõi và phát triển đất nước nhiều mặt, cấu kết được lòng dân, xóa bỏ lý lịch của những người phản trắc, để họ yên tâm phục vụ đất nước, phát huy tính tự chủ về ngôn ngữ, chữ viết. Chữ Nôm là ngôn ngữ tiếng Việt được phát huy đầu tiên và được sử dụng trong nền hành chánh vào thời vua Trần Nhân Tôn vậy.

Theo Quốc sử, ngày 3 tháng 2 năm Nhâm thìn (1292), Vua Trần Nhân Tôn lập hoàng tử Trần Thuyên làm đông cung thái tử. Và ngày mồng 9 tháng 3 năm Quí tỵ (1293), nhường ngôi cho Thái tử Thuyên. Thái tử Thuyên lên ngôi hoàng đế, hiệu Trần Anh Tôn, tôn phong Trần Nhân Tôn lên Thái Thượng Hoàng với hiệu Hiến nghiêu quang thánh thái thượng hoàng đế.

Sau khi vua Trần Nhân Tôn nhường ngôi cho con là Trần Anh Tôn, lên làm Thái thượng hoàng, rồi đi xuất gia, hoằng hóa sang Chiêm, được vua Chiêm kính trọng hết mức. Trong chuyến hoằng hóa này, Thượng hoàng đã hứa gả Công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm, sau đó vua Chiêm đã dâng hai châu Ô và Lý cho Đại Việt.

Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 6, Thượng hoàng Trần Nhân Tôn đi chơi ở Vũ lâm vào tháng 7, năm Giáp ngọ (1294), và quyết định xuất gia tại đây. Vua xuất gia tại Vũ lâm, nhưng thờ ai làm Thầy và được truyền trao giới pháp như thế nào, hiện không có tư liệu nào ghi rõ, chỉ có Thánh Đăng Ngữ Lục nói: “Trần Nhân Tôn đã tham học với Tuệ Trung Thượng Sĩ, đạt sâu tới chỗ cốt tủy của thiền và thờ Thượng Sĩ làm Thầy”. Và cũng theo Thánh Đăng Ngữ Lục, thì tháng 10, năm Kỷ hợi, niên hiệu Hưng Long thứ 7 (1299), Ngài đi thẳng vào núi Yên Tử, siêng năng tu hành, sống theo mười hai hạnh đầu đà, tự lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà. Ngài lập chùa, xây tinh xá, thuyết pháp độ tăng, học chúng tụ về đông đảo,…”. Điều này, cũng đã được sách Tam Tổ Thực Lục của Tính Quảng và Ngô Thời Nhiệm ghi lại giống như Thánh Đăng Lục vậy.

Như vậy, theo Thánh Đăng Lục, ta thấy sau khi đã xuất gia, ở núi Yên Tử, vua Trần Nhân Tôn, tức Điều Ngự Giác Hoàng, thực hành mười hai hạnh đầu đà, tự lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà, xây dựng chùa chiền, thiết lập tinh xá, thuyết pháp độ tăng, học chúng tụ về đông đảo. Sau đó, Ngài đến chùa Phổ Minh ở phủ Thiên Trường đón chư Tăng về đây lập hội giảng kinh trải qua mấy năm, rồi Ngài lại vân du đến Bố chánh, lập am Tri Kiến và dừng chân ở tại đây một thời gian. Và Ngài cũng đã từng đi khắp mọi thôn xóm, khuyến hóa dân chúng thực hành Thập thiện, buông bỏ những hủ tục dâm từ. Điều Ngự Giác Hoàng đã trao truyền Bồ tát giới tại gia cho vua Trần Anh Tông và nhiều vị quan chức ở trong triều đình, vào mùa Đông, năm Giáp thìn.

Sau đó, Ngài đến chùa Sùng Nghiêm ở núi Chí Linh xiển dương Tông giáo, tức là yếu chỉ của thiền. Mở đầu buổi khai đường thuyết pháp, Ngài niêm hương báo ân, rồi lên pháp tòa, vị thượng thủ đánh bảng,… xong, liền thỉnh mời Điều Ngự, Ngài liền nói: “Đức Thích Ca Văn Phật, vì một việc lớn mà xuất hiện ở đời, 49 năm mở miệng mà chưa nói một lời, nay ta vì các ngươi lên pháp tòa này nói cái gì đây?”

Nói xong, Ngài ngồi xuống trên giường thiền, yên lặng hồi lâu, mới cất giọng nói:

 Đỗ quyên đề đoạn nguyệt như trú
Bất thị tầm thường không quá xuân.

Nghĩa là:

 Chim Quyên kêu rả, trăng ngày sáng,
Không phải tầm thường, xuân luống qua.

Trong lời mở đầu cho buổi pháp thoại, Điều Ngự Giác Hoàng nói: “Đức Thích Ca Văn Phật, vì một việc lớn mà xuất hiện ở đời, 49 năm mở miệng mà chưa nói một lời, nay ta vì các ngươi lên pháp tòa này nói cái gì đây?”

Ngài Điều Ngự nói lời mở đầu này, tức là Ngài đã chỉ thẳng “thực tính Bát Nhã Kim Cang” cho thính chúng đương hội, tại chùa Sùng Nghiêm, ở núi Chí Linh. Giống như ở kinh Kim Cang, đức Phật đã chỉ thẳng “Thực tính Bát Nhã Kim Cang” cho thính chúng lúc bấy giờ, tại Kỳ viên, nước Xá vệ bằng cách hỏi Tôn giả Tu Bồ Đề rằng:

“Này Tu bồ đề! Thầy nghĩ như thế nào? Như Laichứng đắc Vô thượng giác không? Có pháp nào được nói bởi Như Lai không?” Tôn giả Tu bồ đề thưa: “Đúng như con hiểu nghĩa của Ngài dạy, thì không có pháp nào được khẳng định gọi là Vô thượng giác và cũng không có pháp nào khẳng định được nói bởi Như Lai. Vì pháp được nói bởi Như Lai, pháp ấy đều không thể nắm bắt, không thể diễn đạt, không thể gọi là pháp, không thể gọi là phi pháp” (Đại Chính 8, La Thập, tr. 749b). Và cũng ở kinh này, một đoạn khác, đức Phật lại hỏi Tôn giả Tu bồ đề rằng: “Này Tu bồ đề! Thầy Nghĩ như thế nào, có pháp nào được nói bởi Như Lai không? Tôn giả Tu bồ đề thưa: Không có pháp nào được nói bởi Như Lai cả” (Đại Chính 8, La Thập, tr. 750a). Và một đoạn khác của kinh Kim Cang này, đức Phật lại nói với Tôn giả Tu bồ đề rằng: “Này Tu bồ đề! Thầy đừng nghĩ rằng: Như Laiý niệm ta sẽ thuyết pháp. Đừng nghĩ như thế. Tại sao? Nếu có người nghĩ rằng, có pháp được thuyết bởi Như Lai là người ấy phỉ báng Như Lai, vì họ không lãnh hội được lời nói của Như Lai.

Này Tu bồ đề! Thuyết pháp, nghĩa là không có pháp gì để thuyết, nên gọi là thuyết pháp.”(Đại Chính 8, La Thập, tr. 751c).

Như vậy, qua những đoạn kinh Kim Cang vừa được trích dẫn ở trên, đức Phật, không những đã chỉ rõ “Thực tính Kim Cang Bát Nhã” cho thính chúng lúc bấy giờ, mà còn chỉ rõ “Pháp hành và pháp thuyết vô trú” của Ngài đối với “Thực tính bát nhã” cho thính chúng đương hội lúc bấy giờ nữa.

Như vậy, ta thấy Trần Nhân Tông tức là Điều Ngự Giác Hoàng, đối với hội chúng ở chùa Sùng Nghiêm lúc bấy giờ, không những, Ngài đã chỉ thẳng “Thực tính Bát nhã kim cang” mà còn chỉ thẳng “Pháp hành và pháp thuyết vô trú của Phật đối với “Thực tính bát nhã” cho hội chúng ngay trong lời mở đầu pháp thoại của Ngài nữa. Và như vậy, ta thấy rõ giáo lý “Thực tính bát nhã; Pháp hành và pháp thuyết vô trú”, của kinh Kim Cang đã có một ảnh hưởng nhất định trong cuộc đời tu tập, chứng ngộ và hoằng hóa của vị Sơ Tổ Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử tại Việt Nam, ở cuối thế kỷ mười ba và đầu thế kỷ mười bốn.

Cũng trong thời pháp thoại này, có vị Tăng hỏi Điều Ngự rằng:

Thế nào là ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp? Điều Ngự trả lời:

  Nhược dĩ sắc kiến ngã
âm thanh cầu ngã
Thị nhân hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai.

Nghĩa là:

  Nếu lấy sắc thấy ta
Lấy âm thanh cầu ta
Người ấy hành đạo
Không thể thấy Như Lai.

Chính đây là bài kệĐiều Ngự đã dẫn từ kinh Kim Cang một cách tự nhiên để trả lời, câu hỏi của một vị Tăng, hỏi Ngài về ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Điều này, ở kinh Kim Cang, đức Phật dạy rằng: “Nầy Tu bồ đề! Thầy nghĩ như thế nào? Có thể nhìn thấy Như Lai qua ba mươi hai tướng tốt không?

Tu bồ đề thưa: Đúng như vậy, đúng như vậy, nhìn thấy Như Lai bằng ba mươi hai tướng tốt. Đức Phật dạy: Này Tu bồ đề, nếu nhìn thấy Như Lai qua ba mươi hai tướng, thì vị Chuyển Luân Thánh Vương cũng là Như Lai sao?

Ngài Tu bồ đề, bạch đức Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Như con hiểu ý nghĩa được nói bởi Ngài, thì không thể nhìn thấy Như Lai bằng ba mươi hai tướng tốt.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

  Nhìn ta bằng hình sắc
Tìm ta bằng âm thanh
Người ấy đi đường tà
Không thể thấy Như Lai.

 (Đại Chính 8, La Thập, tr. 752a).

Điều Ngự Giác HoàngTrần Nhân Tông, đã trả lời câu hỏi của một vị Tăng “Thế nào là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp?”, bằng thi kệ của kinh Kim Cang đã được dẫn chứng ở trên, điều ấy lại chứng tỏ rằng, giáo lý nói về “Pháp thân vô trú” của kinh Kim Cang đã được Điều Ngự giác ngộ một cách triệt để, khiến khi có một vị Tăng hỏi: “Thế nào là Phật? Điều Ngự đáp: Trấu cám dưới cối”. Lại hỏi: “Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn độ sang?”. Đáp: “Bánh vẽ”. Lại hỏi: “Thế nào là đại ý Phật pháp?” Đáp: “Đồng hầm đất không khác”.

Điều Ngự đã trả lời “Trấu cám dưới cối; Bánh vẽ; Đồng hầm đất không khác,…” cho người hỏi là đều chỉ cho người hỏi thấy rõ về “pháp thân vô trú”. Nghĩa là hết thảy pháp thuộc thế gian, xuất thế gian đều từ nơi “pháp thân vô trú” mà biểu hiện sự khác biệt.

Lại có vị hỏi rằng: Xưa có vị Tăng hỏi Triệu Châu: “Con chó có Phật tính hay không?” Triệu Châu đáp: “Không”, ý chỉ thế nào?

Điều Ngự Trả lời:

  Chất muối trong nước
Keo xanh trong màu.

Điều Ngự trả lời như vậy, là chỉ rõ “Thực tướng vô tướng” được diễn tả ở trong kinh Kim Cang cho người hỏi. Và ở trong kinh này, “Thực tướng vô tướng” đã được đức Phật chỉ rõ cho Tôn giả Tu bồ đề như sau: “Này Tu bồ đề! Cái gì có hình tướng, cái đó có sự hư dối. Nếu thấy rõ vô tướng ngay nơi các tướng tức là thấy Như Lai”. (Đại Chính 8, La Thập, tr. 749a).

“Vô tướng” không phải là không có tướng gì, mà tất cả tướng đang có mặt và đang biểu hiện đầy đủ và linh hoạt trong một tướng, chính tướng ấy là vô tướng. Vì vậy, Điều Ngự nói: “Chất muối trong nước; Keo xanh trong màu”. Bằng cách nhìn “vô tướng” ta thấy ngay “Trong nước có chất muối và trong màu có keo xanh”. Thực tướng vô tướng là phải thấy ngay nơi các tướng. Ngay nơi các tướng mà thấy vô tướng. Nên, theo Điều Ngự, lìa các tướng, để giác ngộ thực tướng là điều không thể có.

Lục Tổ Huệ Năng cũng đã từng nói như vậy ở trong kinh Pháp Bảo Đàn rằng: “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác, ly thế mích bồ đề, do như cầu thố giác”. Nghĩa là “Phật pháp ở trong thế gian, sự giác ngộ không thể xa rời thế gian, xa lìa thế giantìm kiếm sự giác ngộ, chẳng khác nào người đi tìm kiếm sừng thỏ”.

Điều Ngự Giác Hoàng nói: “Chất muối trong nước; Keo xanh trong màu”, là một cách nói khác về “Thực tướng vô tướng, hay hết thảy pháp đều là phật pháp”, của kinh Kim Cang, mà chính bản thân của Điều Ngự đã trực nghiệm, chứng ngộứng dụng nó trong khi làm vua, làm Thái Thượng hoàng an dân hay lúc làm Tăng sĩ để độ đời.

“Thực tướng vô tướng hay hết thảy pháp đều là Phật pháp” của kinh Kim Cang là cốt điểm mà Điều Ngự đã giác ngộ, và đã đem ra ứng dụng và viết thành “Cư trần lạc đạo phú”, khiến cho các nhà nghiên cứu về Trần Nhân Tông sau này cho rằng, “Cư trần lạc đạo phú” là tư tưởng chủ não cho mọi hành hoạt của ông và trở thành tư tưởng thiền học đặc trưng của Trúc Lâm Yên Tử.

Đọc Cư Trần Lạc Đạo Phú của Trần Nhân Tôn, ta thấy vua đã ảnh hưởng rất nhiều về giáo lý của kinh Kim Cang, nhất là giáo lý nói về “Nhất thiết pháp giai thị phật pháp” của kinh này (Đại Chính 8, La Thập, tr. 751b).

Nhất thiết pháp giai thị phật pháp, nghĩa là hết thảy pháp đều là phật pháp hay hết thảy pháp đều là pháp giác ngộ.

Trong Cư Trần Lạc Đạo Phú, Hội thứ nhất vua nói:

  “Mình ngồi thành thị, nết dụng sơn lâm”.

Thành thị là chỉ cho cuộc đời, nơi sinh hoạt ồn ào, nơi bụi đời phiền não; Sơn lâm là chỉ cho đạo, nơi sinh hoạt trong sự vắng lặng, hay nơi sinh hoạt theo bản thể thanh tịnh tự nhiên.

Vua nói: “Mình ngồi thành thị, nết dụng sơn lâm”, nghĩa là ngay nơi các tướng thế gian, mà giác ngộ thực tướng vô tướng, sống và hành sử đúng theo thực tướng vô tướng ấy.

Làm hưng vượng đất nước mà không thấy nhân ngã; dẹp giặc, giữ yên bờ cõi mà tâm không sân hận, thù oán hay tự đắc; được cả giang sơn gấm vóc, xã tắc đoàn tụ vui vầy mà lòng không đắm trước; ngồi với cao lương mỹ vị mà dạ chẳng khát thèm; xúc tiếp với cung phi, mỹ nữ mỗi ngày mà tâm thường nghĩ đến sự xả ly, ngồi trên thiên hạ mà thấy rõ các pháp thế gian đều hoạt khởi trong hư huyễn, đó chính là “Mình ngồi thành thị, nết dụng sơn lâm”, mà vua Trần Nhân Tông đã thực hiện.

Và điều ấy, ta lại thấy vua nói rõ trong Cư Trần Lạc Đạo Phú, Hội thứ hai rằng:

 Dứt trừ nhân ngã,
thì ra thực tướng Kim Cang.
Dừng hết tham sân,
mới làu lòng mầu viên giác.

Nhân, ngã vốn không có cách biệt, vốn không có tự tính, nên tất cả tướng của nó đều là vô tướng. Ở ngay nơi nhân ngã của thế gian, mà hành động vô tướng, thì ngay nơi nhân ngã ấy là đạo, chứ đạo ở đâu nữa, mà đi tìm và ngay nơi mọi sinh hoạt của thế gian, mà hành động với tâm vô tướng, với lòng vô ngã, thì những sinh hoạt ấy là sinh hoạt của đạo, của tâm không nhân ngã và của đời sống giác ngộ, chứ đạo đâu nữa mà kiếm tìm, và giác ngộ đâu nằm ở ngoài cuộc đời mà lao lung tìm kiếm. Giác ngộgiác ngộ ngay trong mọi sinh hoạt của đời thường và giải thoátgiải thoát ngay nơi tâm ràng buộc bởi những ý niệm phiền não, phân biệt nhân ngã, chứ đâu phải ngoài những sự ràng buộc của thế gian mà có giải thoát.

Đạo vốn rộng lớn mênh mông không bờ mé, tịch lặng chiếu soi, không buộc không giải. Buộc là tâm bị phiền não bám vào, giải là phiền não nơi tâm yên lắng, tánh của tâm tự nhiên tĩnh lặng sáng trong soi chiếu.

Vì vậy, trong bài giảng tại viện Kỳ Lân, ngày mồng 9 tháng giêng nhuận, năm Bính ngọ (1306), Điều Ngự đã nói với đại chúng rằng: “Này xem, đạo lớn mênh mông, đâu buộc đâu ràng, bản tánh sáng trong, không thiện không ác. Bởi do phân biệt, lắm ngả sinh ngang, thoáng khởi ám mờ, biến thành trời đất. Thánh phàm cùng chung đầu mối, phải trái đâu thể phân chia,…”

Theo Điều Ngự, đạo là vậy, nên trong bài kệ Cư Trần Lạc Đạo Phú, Hội mười, Vua nói:

 Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề, khốn tắc miên
Gia trung hữu bửu hưu tầm mích
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.

Nghĩa là:

 Sống đời, vui đạo hãy tùy duyên
Chừ đói cứ ăn, mệt ngủ liền
Có báu trong nhà ngưng tìm kiếm
Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền.

Như vậy, ta đã rõ Trần Nhân Tôn đã giác ngộ kinh Kim Cang bằng “Thực tướng Vô tướng; bằng “Hết thảy pháp đều là phật pháp”, và rồi Vua đã thực hiện những điều ấy trong đời sống của chính mình, qua nhiều vai tròhình thức khác nhau, đem lại nhiều lợi ích không phải chỉ cho non sông gấm vóc, mà cho tất cả thế gian này trong hơn năm mươi năm giữa cuộc đời, ông hiện thân làm người, nên trong Đắc Thú Lâm Tuyền Thành Đạo Ca ông nói:

 Niệm lòng vặc vặc
Giác tính quang quang
Chẳng còn bỉ thử.
Tranh chấp nhân ngã
Trần duyên rũ hết
Thị phi chẳng hề.
Rèn một tấm lòng
Đêm ngày đon đả.
Ngồi trong trần thế
Chẳng quản sự thay.
Văng vẳng ngàn kia,
Dầu lòng dong thả.
Học đòi chư Phật
Cho được viên thành;
Xướng khúc vô sinh
An thiền tiêu sá.

Điều Ngự đã học đòi chư Phật cho được viên thành, xướng khúc vô sinh, an thiền tiêu sá bằng cách nào? Bằng cách:

 Ai ai chả biết
Bằng huyễn chiêm bao;
Xẩy tỉnh giấc hòe
Châu rơi lã chã.
Cốc hay thân huyễn,
Chẳng khác phù vân;
Vạn sự giai không,
Tựa dường bọt bể.

Chính đoạn này ở trong Đắc Thú Lâm Tuyền Thành Đạo Ca, ông đã diễn tả nó bằng tâm bất động, đúng chân như, không mắc kẹt mọi ý tưởng nhân ngã thị phi, đúng như bài kệ quán chiếu đối với các pháp thuộc hữu vi, mà đức Phật đã dạy cho Tôn giả Tu bồ đềkinh Kim Cang rằng:

 Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng, huyễn, bào ảnh,
Như lộ, diệc như điện,
Ưng tác như thị quán.
 (Đại Chính 8, La Thập, tr 752b)

Nghĩa là:

 Hãy quán chiếu như vậy:
Hết thảy pháp hữu vi
Như mộng huyễn, bào, ảnh,
Như sương mai, điện chớp.

Với một cuộc đời hành hoạt đầy sống động như vậy, ta có thể gọi Trần Nhân Tôn là người con chí hiếu, là nhà chiến lược giỏi, là nhà lãnh đạo đất nước tài hoa, là bậc minh quân, là nhà chính trị và văn hóa lớn, là nhà tư tưởng lớn, là bậc minh triết, sơ Tổ Trúc Lâm Yên Tử, là vị Phật sống đời Trần,…

Và dù ta có dùng bao nhiêu mỹ hiệu để gọi Ngài là gì đi nữa, thì Ngài không bị ràng buộc nơi những mỹ hiệu mà ta đã và đang gọi cho Ngài. Và dù cho ta có khen để mà chê Ngài, như Ngô Sĩ Liên đời Lê, đứng từ lập trường Nho giáo viết sử, hưởng bỗng lộc triều đình mà viết rằng: “Song vui ở kinh Phật, tuy bảo là đến chỗ siêu thoát, nhưng không phải là đạo trung dung của Thánh nhân” (ĐVSKTT I, tr 450, Nxb Văn học 2006), thì những lời khen chê ấy, cũng chẳng dính dáng gì đến bản chất “Thực tướng vô tướng”, nơi mà Ngài đã sống và hành hoạt.

“Thực tướng vô tướng” mà bản thân Vua đã chứng nghiệm ngay ở nơi cõi đời đầy nhân ngã bụi bặm này, hay cái nhìn “hết thảy pháp đều là phật pháp” hoặc trực nhận được “cái chân thực ngay nơi cái huyễn mộng” của cuộc đời, mà kinh Kim Cang đã hiển thị cho Ngài. Vì vậy mà Vua nói “Dứt trừ nhân ngã, thì ra thực tướng kim cương; dừng hết tham sân, mới làu lòng mầu viên giác” hay “Xướng khúc vô sinh, an thiền tiêu sá”.

Nên, đối với một vị giác ngộ như vậy, ta có thể gọi Ngài bằng bất cứ danh từ nào cũng được, nhưng không phải vì vậy mà Ngài trở thành cái danh từ theo ta gọi.

Ta có thể gọi Ngài là vị “Cư trần lạc đạo”, hay là vị đã thấy Phật ngay giữa những bụi bặm của cuộc đời và sống với Phật ngay giữa những bụi bặm ấy; hay là vị đã “Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca”, hoặc đã thể nhập được với thực tính không sanh diệt giữa những sinh diệt vô tận của dòng đời, khi ta đọc bài kệ thị tịch của Ngài nói cho Thị giả Bảo Sát, vào giờ Tý, ngày mồng một, tháng mười một, năm Mậu Thân (1308) tại Ngọa Vân Am, núi Yên Tử rằng:

 Nhất thiết pháp bất sanh
Nhất thiết pháp bất diệt
Nhược năng như thị giải
Chư Phật thường hiện tiền
Hà khứ lai chi hữu.

Nghĩa là:

 Hết thảy pháp không sinh
Hết thảy pháp không diệt
Nếu hiểu được như vậy
Chư Phật thường hiện tiền
Làm gì có đến đi.

Trong bài kệ ấy, bốn câu trên, Ngài đã dẫn ra từ kinh Hoa Nghiêm, nói về chân lý không sanh diệt. Câu sau cùng là Ngài đã nói về nghĩa Như của kinh Kim Cang.

Nghĩa Như ở kinh Kim Cang, chính là chư pháp Như nghĩa. Nghĩa Như là Chân Như nơi các pháp, không có đến, không có đi, không có sanh, không có diệt,…

Điều này, ở kinh Kim Cang, đức Phật đã chỉ ra cho Tôn giả Tu bồ đề rằng: “Này Tu bồ đề! Nếu có người nói rằng: Như Lai có đến, có đi, có ngồi, có nằm là người ấy không hiểu được ý nghĩa lời nói của Như Lai. Tại sao? Vì Như Lai không đến từ đâu, cũng không đi về đâu, nên gọi là Như Lai” (Đại Chính 8, La Thập, tr. 752b)

Ở trong giờ phút thị tịch, Trần Nhân Tôn, tức Điều Ngự Giác Hoàng, đã nói cho Thị giả Bảo Sát rằng: “Hà khứ lai chi hữu? = Làm gì có đến có đi?” Bảo Sát liền hỏi: “Chỉ có chân như, khi chẳng sanh, chẳng diệt thì thế nào?” Điều Ngự liền vả ngay vào miệng Bảo Sát mà nói: “Đừng nói mớ!” Nói xong, Ngài nằm theo lối sư tử mà tịch.

Vì sao? Bảo Sát hỏi vậy, liền bị Điều Ngự cho là nói “mớ” và bị vả? Vì theo Điều Ngự, đối với chân lý rốt ráo tối hậu (đệ nhất nghĩa đế), khởi niệm là sai, mở miệng là quấy. Chính điều này, Điều Ngự đã khai thị cho đại chúng trong lời mở đầu tại buổi giảng ở viện Kỳ Lân, vào ngày mồng 9 tháng giêng nhuận năm Bính Ngọ (1306) rồi, mà Bảo Sát không lãnh hội, vì thế mà hỏi lại, nên bị Điều Ngự vả.

Lãnh hội “chân lý rốt ráo tối hậu” hay “hết thảy pháp không sinh, không diệt”, bằng tuệ giác, thì ngay đó là chư Phật hiện tiền, “niệm lòng vặc vặc, giác tính quang quang”. Và nếu không phải vậy, mà khởi tâm động niệm nghĩ suy, thì “mây bay vạn dặm”.

Kể từ khi con người bằng xương, bằng thịt của Trần Nhân Tông vắng bóng đã trải dài ngót bảy thế kỷ, biết bao nhiêu nhà văn, nhà thơ, nhà viết sử, nhà nghiên cứu, nhà phê bình, nói và nhận định về Ngài theo những cảm thức khác nhau của họ, nhưng tất cả đều đã nói “mớ” về Ngài. Không nói “mớ” sao được, khi Ngài là bậc đã “dứt trừ nhân ngã, thì ra thực tướng kim cang”, trong lúc đó những người viết, cảm nhận và hội thảo về Ngài, thì còn mang đầy nhân ngã, thị phi, nên những gì họ nói, viết về Ngài sao mà không “mớ” cho được? Vì nói “mớ”, nên dù viết cách nào, dù nói cách nào về Ngài, tất cả đều bị Ngài vả vậy!

Như vậy, ta thấy kinh Kim Canggiáo lý chủ não cho Phật giáo đời Trần. Giáo lý ấy đã đẩy thúc vua Trần Nhân Tông hay Điều Ngự Giác Hoàng hành động cho lợi ích chung một cách tích cực, một cách hết lòngvô trú, và giáo lý ấy không những ảnh hưởng đến nếp suy nghĩ, nếp sống đối với Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, mà còn ảnh hưởng đối với Trần Anh Tông và cả Trần Minh Tông sau này nữa vậy.

Vì vậy, giáo lý kinh Kim Cang đối với nhà Trần nói chung và Trần Nhân Tông nói riêng, đã đóng vai trò chủ não cho sự đạt ngộ tâm linh, cũng như trong những hành hoạt, vì những lợi ích chung cho nhân quần xã hội trong thời đại của họ.

 T.T.H

Source: thuvienhoasen



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14433)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14144)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39710)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15312)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13881)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13926)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37328)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40059)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14639)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14310)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12656)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14826)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19214)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13794)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42625)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13830)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37258)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12673)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11759)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22544)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12509)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12571)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13058)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13111)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17266)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33244)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14834)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11045)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12453)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11957)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11933)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13131)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51262)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12381)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6615)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30407)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13123)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13327)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30678)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19361)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12477)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11841)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14762)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13192)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13195)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30682)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12041)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11837)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12726)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31898)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29413)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11781)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11747)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10423)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11561)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9641)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9658)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9989)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35400)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10147)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10096)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10043)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9657)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27801)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15494)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9851)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13680)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9844)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9692)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18319)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12043)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9571)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9692)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8712)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8913)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8417)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11481)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31729)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12334)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13319)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8827)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9442)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11937)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9226)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9073)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9665)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29360)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9075)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9101)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33242)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8429)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30605)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31220)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37113)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32253)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9929)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27094)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8449)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19237)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 13012)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant