Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

03. Vua Trần Nhân Tông Với Kinh Kim Cang

20 Tháng Chín 201200:00(Xem: 13725)
03. Vua Trần Nhân Tông Với Kinh Kim Cang

VUA TRẦN NHÂN TÔNG VỚI KINH KIM CANG

Thích Thái Hòa

Trần Nhân Tôn con của Thượng hoàng Trần Thánh Tôn. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, “vua sinh ngày 11 tháng 11 năm Giáp Ngọ (Nguyên phong thứ 8, 1258), được tinh anh của thánh nhân, đạo mạo thuần túy, nhan sắc như vàng, thể chất hoàn toàn, thần khí tươi sáng, hai cung đều cho là lạ, gọi là Kim tiên đồng tử; ở hai bên tả có nốt ruồi đen, cho nên có thể cáng đáng được việc lớn; ở ngôi 14 năm, nhường ngôi 5 năm, thọ 51 tuổi, băng ở Ngọa vân am, hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp phục hưng làm vẻ vang đời trước, thực là vua hiền của nhà Trần. Song vui lòng ở kinh Phật, tuy bảo là đến chỗ siêu thoát, nhưng không phải là đạo trung dung của thánh nhân.” (ĐVSKTT I, tr 450, Nxb Văn Học, 2006).

Vậy, trong sự tu tập và hành hoạt độ đời của vua Trần Nhân Tôn còn gọi là Điều Ngự Giác Hoàng, là vị sơ Tổ của Phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử đời Trần đã có ảnh hưởng kinh Kim Cang như thế nào?

Đọc hai nguồn tư liệu chính về vua Trần Nhân Tôn, gồm Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, của Ngô Sĩ Liên viết từ đời Lê; và Thánh Đăng Ngữ Lục, được viết từ đời Trần, không ghi tên tác giả, ấy là tác phẩm ghi lại các ngữ lục và thơ văn của các vua nhà Trần, kể từ vua Trần Thái Tôn đến vua Trần Minh Tôn.

Bản Thánh Đăng này đã được khắc in nhiều lần bởi Huệ Đăng ở Long Động, vào năm Ất dậu, niên hiệu Vĩnh Thịnh (1705) và bản khắc in năm 1750, do Tính Quảng – Thích Điều Điều ở viện Thiền Phong, núi Tử Sầm đề tựa.

Ngoài ra còn có các nguồn tư liệu khác như: Việt Điện U linh Tập, do Lý Tế Xuyên viết khoảng năm 1329; Nam Ông Mộng Lục, do Hồ Nguyên Trừng viết, 1438; Việt Âm thi Tập, do Phan Huy Tiên viết khoảng 1334; Đại Việt Sử Ký Tục Biên của Phan Phu Tiên; Toàn Việt Thi Lục của Lê Quý Đôn; Thiền Tông Bản Hạnh của Chân Nguyên đời Lê… và Tam Tổ Thực Lục, bản trùng khắc, thời Thành Thái thứ 9, năm 1897, do Tỷ kheo Diệu Trạm viết lời dẫn, Sa môn Thanh Cừ, Thanh Vân giúp việc khắc bản.

Qua các nguồn tư liệu ấy cho ta cái nhìn bao quát cuộc đời của vua Trần Nhân Tôn có bốn giai đoạn rõ ràng. – Giai đoạn tuổi trẻ và học tập – Giai đoạn làm vua – Giai đoạn làm Thượng hoàng – Và giai đoạn xuất gia làm Tăng sĩ.

Đối với giai đoạn tuổi trẻ và học tập, khi mới sinh ra, vua đã được phụ hoàng Trần Thánh Tôn đặt tên là Kim Phật. Đặt tên cho Thái tử như vậy, giúp cho ta biết rằng, ý nguyệncon đường giáo dục của vua Trần Thánh Tôn đối với Thái tử Kim Phật sau này như thế nào. Ấy là con đường giáo dục, không những khiến Thái tử Kim Phật, lớn lên có khả năng gánh vác sự nghiệp của quốc gia xã tắc, mà còn là bậc đại khí có khả năng làm Thầy khắp cả mười phương thiên hạ, như ở trong Thiền Tông Bản Hạnh mô tả:

  “Thái tử trí cả bằng nay,
Gánh vác đại khí làm thầy mười phương.”

Khi lớn lên, Thái tử Kim Phật được vua Trần Thánh Tôn đặt tên là Khâm, không những vua trực tiếp giáo dục mà còn có cả Tuệ Trung Thượng Sĩ nữa. Theo Thánh Đăng Lục cho ta biết: “Bản chất của vua thông minh, hiếu học, có nhiều tài năng, xem hết các sách, thông suốt hết cả nội điển lẫn ngoại điển. Thường bàn luận về tâm tông với các thiền khách. Lại tham học với Tuệ Trung Thượng Sĩ, đạt đến chỗ cốt tủy của thiền và thờ Tuệ Trung Thượng Sĩ làm thầy.”

Và theo Trần Quang Chỉ, ghi ở trong bức tranh Trúc Lâm Đại Sĩ Xuất Sơn Đồ, đã cho ta biết về sự nghiệp học tập của vua lúc tuổi trẻ như sau: “Học thông tam giáo và hiểu sâu phật điển. Ngay cả thiên văn, lịch số, binh pháp, y thuật, âm luật không thứ gì là không mau chóng nắm bắt được sâu sắc”. (Lê Mạnh Thát – Toàn Tập Trần Nhân Tông, Nxb Tổng Hợp TP HCM 2006).

Như vậy, ta thấy vua Trần Nhân Tôn lúc thiếu thời đã được Phụ hoàng Trần Thánh Tôn giáo dục với một nền giáo dục cả đạo đời toàn diện.

Theo Thánh Đăng Lục, năm 16 tuổi được lập làm hoàng Thái tử, Ngài đã cố ý từ chối mấy lần, nhường lại cho em, nhưng phụ hoàng không chấp nhận. Tuy sống trong cảnh vui hòa hạnh phúc, nhưng Trần Nhân Tôn vẫn hướng tâm về đời sống tu hành. Một hôm, Trần Nhân Tôn vượt kinh thành trốn đi, định vào núi Yên tử. Đến chùa Tháp ở núi Đông Cứu thì trời vừa sáng, trong người quá mỏi mệt, Ngài liền nằm nghỉ ở trong tháp. Vị Tăng trong chùa thấy dáng mạo khác thường liền làm cơm thiết đãi. Hôm ấy, Thái hậu liền trình bày hết cho Thánh Tôn nghe, Vua nghe xong, liền sai quần thần đi tìm kiếm khắp nơi, bất đắc dĩ, Ngài mới trở về.

Giai đoạn làm vua, cũng theo Thánh Đăng Lục, Trần Nhân Tôn lên ngôi, ngày 12 tháng 02 năm Mậu dần, tức năm 1278. Tuy ở trong cảnh vinh hoa tột bực, nhưng vua Trần Nhân Tôn vẫn tự giữ mình thanh tịnh.

Có lần ngủ trưa trong chùa Tư Phúc ở đại nội, vua nằm chiêm bao thấy từ nơi rốn mọc lên hoa sen vàng, lớn như bánh xe, trên hoa có đức Phật vàng, có một người đứng bên cạnh chỉ vào vua và hỏi: “Biết đức Phật này chăng? Đó là đức Phật Biến Chiếu đấy!”. Ngay đó, vua giựt mình tỉnh dậy, đem giấc mộng trình lên vua cha. Thượng hoàng Trần Thánh Tôn rất mừng, cho là việc khác thường. Sau giấc chiêm bao này vua ăn chay trường, thân thể ốm gầy, phụ hoàng Thánh Tôn thấy lạ liền hỏi. Nhân Tôn thưa thực lý do với phụ hoàng. Thánh Tôn khóc bảo: “Ta nay già rồi, trông cậy một mình con, nếu con làm như thế, thì sự nghiệp của Tổ tông sẽ ra sao? Trần Nhân Tôn nghe phụ hoàng nói vậy cũng rơi nước mắt”.

Theo quốc sử, mới lên ngôi, vua Trần Nhân Tôn, đã thực hiện chính sách “đại xá cho thiên hạ”. Và cũng nhiều lần thực hiện chính sách “đại xá cho thiên hạ” trong quãng đời làm vua của mình. Vua cũng đã trực tiếp giải quyết việc khiếu kiện của người dân đối với Trần Thiên Thư là em của Đỗ Khắc Chung, ngay giữa đường,… Về ngoại giao, vua đã ban giao tốt với triều đình ở phương Nam, đối xử thận trọng và khôn khéo từ chối những yêu sách của triều đình Hốt tất liệt ở phương Bắc và không trực tiếp đến chầu. Đối với chính trị và quân sự, vua đã triệu tập hội nghị Bình Than năm 1282, để cùng với vương hầu, các tướng sĩ bàn kế đánh giặc Nguyên giữ nước. Năm 1284, vua lại triệu tập hội nghị Diên Hồng, cùng với các bô lão trong nước bàn kế đánh giặc Nguyên, trong hội nghị muôn người như một đều nói lên một lời là “đánh”. Nhờ những hội nghị như vậy mà đoàn kết được vua tôi và nhân dân, nên đã hai lần đánh bại Nguyên Mông, khiến vua đã có lời cảm thán:

 Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện kim âu.
Xã tắc hai phen chồn ngựa đá
Non sông nghìn thuở vững âu vàng.

Cuộc đời làm vua, Trần Nhân Tôn phải đối mặt và chiến thắng hai cuộc chiến tranh với Nguyên Mông, ổn định chính trị, phát triển quân sự hùng mạnh, giữ vững biên cương, giao hảo với các nước láng giềng, mở mang nền học vấn, phát triển kinh tế, chủ trương tự chủ về ngôn ngữ. Theo Quốc sử, tháng tư, năm Mậu tý (1288), Vua chiếu chỉ cho Ty hành khiển giao hảo với Hàn lâm viện. Theo lệ cũ, hễ tuyên đọc chiếu chỉ của vua, thì Hàn lâm viện, đưa trước bản thảo chiếu chỉ, cho Ty hành khiển để tập đọc trước. Đến khi tuyên đọc, thì gồm giảng đọc cả âm lẫn nghĩa khiến cho dân thường dễ hiểu”. (ĐVSKTT, tr. 477, Nxb Văn Học, 2006).

Như vậy, quãng đời làm vua của Trần Nhân Tông, hai lần đánh dẹp ngoại xâm hùng mạnh của phương Bắc, giữ yên bờ cõi và phát triển đất nước nhiều mặt, cấu kết được lòng dân, xóa bỏ lý lịch của những người phản trắc, để họ yên tâm phục vụ đất nước, phát huy tính tự chủ về ngôn ngữ, chữ viết. Chữ Nôm là ngôn ngữ tiếng Việt được phát huy đầu tiên và được sử dụng trong nền hành chánh vào thời vua Trần Nhân Tôn vậy.

Theo Quốc sử, ngày 3 tháng 2 năm Nhâm thìn (1292), Vua Trần Nhân Tôn lập hoàng tử Trần Thuyên làm đông cung thái tử. Và ngày mồng 9 tháng 3 năm Quí tỵ (1293), nhường ngôi cho Thái tử Thuyên. Thái tử Thuyên lên ngôi hoàng đế, hiệu Trần Anh Tôn, tôn phong Trần Nhân Tôn lên Thái Thượng Hoàng với hiệu Hiến nghiêu quang thánh thái thượng hoàng đế.

Sau khi vua Trần Nhân Tôn nhường ngôi cho con là Trần Anh Tôn, lên làm Thái thượng hoàng, rồi đi xuất gia, hoằng hóa sang Chiêm, được vua Chiêm kính trọng hết mức. Trong chuyến hoằng hóa này, Thượng hoàng đã hứa gả Công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm, sau đó vua Chiêm đã dâng hai châu Ô và Lý cho Đại Việt.

Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 6, Thượng hoàng Trần Nhân Tôn đi chơi ở Vũ lâm vào tháng 7, năm Giáp ngọ (1294), và quyết định xuất gia tại đây. Vua xuất gia tại Vũ lâm, nhưng thờ ai làm Thầy và được truyền trao giới pháp như thế nào, hiện không có tư liệu nào ghi rõ, chỉ có Thánh Đăng Ngữ Lục nói: “Trần Nhân Tôn đã tham học với Tuệ Trung Thượng Sĩ, đạt sâu tới chỗ cốt tủy của thiền và thờ Thượng Sĩ làm Thầy”. Và cũng theo Thánh Đăng Ngữ Lục, thì tháng 10, năm Kỷ hợi, niên hiệu Hưng Long thứ 7 (1299), Ngài đi thẳng vào núi Yên Tử, siêng năng tu hành, sống theo mười hai hạnh đầu đà, tự lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà. Ngài lập chùa, xây tinh xá, thuyết pháp độ tăng, học chúng tụ về đông đảo,…”. Điều này, cũng đã được sách Tam Tổ Thực Lục của Tính Quảng và Ngô Thời Nhiệm ghi lại giống như Thánh Đăng Lục vậy.

Như vậy, theo Thánh Đăng Lục, ta thấy sau khi đã xuất gia, ở núi Yên Tử, vua Trần Nhân Tôn, tức Điều Ngự Giác Hoàng, thực hành mười hai hạnh đầu đà, tự lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà, xây dựng chùa chiền, thiết lập tinh xá, thuyết pháp độ tăng, học chúng tụ về đông đảo. Sau đó, Ngài đến chùa Phổ Minh ở phủ Thiên Trường đón chư Tăng về đây lập hội giảng kinh trải qua mấy năm, rồi Ngài lại vân du đến Bố chánh, lập am Tri Kiến và dừng chân ở tại đây một thời gian. Và Ngài cũng đã từng đi khắp mọi thôn xóm, khuyến hóa dân chúng thực hành Thập thiện, buông bỏ những hủ tục dâm từ. Điều Ngự Giác Hoàng đã trao truyền Bồ tát giới tại gia cho vua Trần Anh Tông và nhiều vị quan chức ở trong triều đình, vào mùa Đông, năm Giáp thìn.

Sau đó, Ngài đến chùa Sùng Nghiêm ở núi Chí Linh xiển dương Tông giáo, tức là yếu chỉ của thiền. Mở đầu buổi khai đường thuyết pháp, Ngài niêm hương báo ân, rồi lên pháp tòa, vị thượng thủ đánh bảng,… xong, liền thỉnh mời Điều Ngự, Ngài liền nói: “Đức Thích Ca Văn Phật, vì một việc lớn mà xuất hiện ở đời, 49 năm mở miệng mà chưa nói một lời, nay ta vì các ngươi lên pháp tòa này nói cái gì đây?”

Nói xong, Ngài ngồi xuống trên giường thiền, yên lặng hồi lâu, mới cất giọng nói:

 Đỗ quyên đề đoạn nguyệt như trú
Bất thị tầm thường không quá xuân.

Nghĩa là:

 Chim Quyên kêu rả, trăng ngày sáng,
Không phải tầm thường, xuân luống qua.

Trong lời mở đầu cho buổi pháp thoại, Điều Ngự Giác Hoàng nói: “Đức Thích Ca Văn Phật, vì một việc lớn mà xuất hiện ở đời, 49 năm mở miệng mà chưa nói một lời, nay ta vì các ngươi lên pháp tòa này nói cái gì đây?”

Ngài Điều Ngự nói lời mở đầu này, tức là Ngài đã chỉ thẳng “thực tính Bát Nhã Kim Cang” cho thính chúng đương hội, tại chùa Sùng Nghiêm, ở núi Chí Linh. Giống như ở kinh Kim Cang, đức Phật đã chỉ thẳng “Thực tính Bát Nhã Kim Cang” cho thính chúng lúc bấy giờ, tại Kỳ viên, nước Xá vệ bằng cách hỏi Tôn giả Tu Bồ Đề rằng:

“Này Tu bồ đề! Thầy nghĩ như thế nào? Như Laichứng đắc Vô thượng giác không? Có pháp nào được nói bởi Như Lai không?” Tôn giả Tu bồ đề thưa: “Đúng như con hiểu nghĩa của Ngài dạy, thì không có pháp nào được khẳng định gọi là Vô thượng giác và cũng không có pháp nào khẳng định được nói bởi Như Lai. Vì pháp được nói bởi Như Lai, pháp ấy đều không thể nắm bắt, không thể diễn đạt, không thể gọi là pháp, không thể gọi là phi pháp” (Đại Chính 8, La Thập, tr. 749b). Và cũng ở kinh này, một đoạn khác, đức Phật lại hỏi Tôn giả Tu bồ đề rằng: “Này Tu bồ đề! Thầy Nghĩ như thế nào, có pháp nào được nói bởi Như Lai không? Tôn giả Tu bồ đề thưa: Không có pháp nào được nói bởi Như Lai cả” (Đại Chính 8, La Thập, tr. 750a). Và một đoạn khác của kinh Kim Cang này, đức Phật lại nói với Tôn giả Tu bồ đề rằng: “Này Tu bồ đề! Thầy đừng nghĩ rằng: Như Laiý niệm ta sẽ thuyết pháp. Đừng nghĩ như thế. Tại sao? Nếu có người nghĩ rằng, có pháp được thuyết bởi Như Lai là người ấy phỉ báng Như Lai, vì họ không lãnh hội được lời nói của Như Lai.

Này Tu bồ đề! Thuyết pháp, nghĩa là không có pháp gì để thuyết, nên gọi là thuyết pháp.”(Đại Chính 8, La Thập, tr. 751c).

Như vậy, qua những đoạn kinh Kim Cang vừa được trích dẫn ở trên, đức Phật, không những đã chỉ rõ “Thực tính Kim Cang Bát Nhã” cho thính chúng lúc bấy giờ, mà còn chỉ rõ “Pháp hành và pháp thuyết vô trú” của Ngài đối với “Thực tính bát nhã” cho thính chúng đương hội lúc bấy giờ nữa.

Như vậy, ta thấy Trần Nhân Tông tức là Điều Ngự Giác Hoàng, đối với hội chúng ở chùa Sùng Nghiêm lúc bấy giờ, không những, Ngài đã chỉ thẳng “Thực tính Bát nhã kim cang” mà còn chỉ thẳng “Pháp hành và pháp thuyết vô trú của Phật đối với “Thực tính bát nhã” cho hội chúng ngay trong lời mở đầu pháp thoại của Ngài nữa. Và như vậy, ta thấy rõ giáo lý “Thực tính bát nhã; Pháp hành và pháp thuyết vô trú”, của kinh Kim Cang đã có một ảnh hưởng nhất định trong cuộc đời tu tập, chứng ngộ và hoằng hóa của vị Sơ Tổ Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử tại Việt Nam, ở cuối thế kỷ mười ba và đầu thế kỷ mười bốn.

Cũng trong thời pháp thoại này, có vị Tăng hỏi Điều Ngự rằng:

Thế nào là ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp? Điều Ngự trả lời:

  Nhược dĩ sắc kiến ngã
âm thanh cầu ngã
Thị nhân hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai.

Nghĩa là:

  Nếu lấy sắc thấy ta
Lấy âm thanh cầu ta
Người ấy hành đạo
Không thể thấy Như Lai.

Chính đây là bài kệĐiều Ngự đã dẫn từ kinh Kim Cang một cách tự nhiên để trả lời, câu hỏi của một vị Tăng, hỏi Ngài về ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Điều này, ở kinh Kim Cang, đức Phật dạy rằng: “Nầy Tu bồ đề! Thầy nghĩ như thế nào? Có thể nhìn thấy Như Lai qua ba mươi hai tướng tốt không?

Tu bồ đề thưa: Đúng như vậy, đúng như vậy, nhìn thấy Như Lai bằng ba mươi hai tướng tốt. Đức Phật dạy: Này Tu bồ đề, nếu nhìn thấy Như Lai qua ba mươi hai tướng, thì vị Chuyển Luân Thánh Vương cũng là Như Lai sao?

Ngài Tu bồ đề, bạch đức Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Như con hiểu ý nghĩa được nói bởi Ngài, thì không thể nhìn thấy Như Lai bằng ba mươi hai tướng tốt.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

  Nhìn ta bằng hình sắc
Tìm ta bằng âm thanh
Người ấy đi đường tà
Không thể thấy Như Lai.

 (Đại Chính 8, La Thập, tr. 752a).

Điều Ngự Giác HoàngTrần Nhân Tông, đã trả lời câu hỏi của một vị Tăng “Thế nào là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp?”, bằng thi kệ của kinh Kim Cang đã được dẫn chứng ở trên, điều ấy lại chứng tỏ rằng, giáo lý nói về “Pháp thân vô trú” của kinh Kim Cang đã được Điều Ngự giác ngộ một cách triệt để, khiến khi có một vị Tăng hỏi: “Thế nào là Phật? Điều Ngự đáp: Trấu cám dưới cối”. Lại hỏi: “Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn độ sang?”. Đáp: “Bánh vẽ”. Lại hỏi: “Thế nào là đại ý Phật pháp?” Đáp: “Đồng hầm đất không khác”.

Điều Ngự đã trả lời “Trấu cám dưới cối; Bánh vẽ; Đồng hầm đất không khác,…” cho người hỏi là đều chỉ cho người hỏi thấy rõ về “pháp thân vô trú”. Nghĩa là hết thảy pháp thuộc thế gian, xuất thế gian đều từ nơi “pháp thân vô trú” mà biểu hiện sự khác biệt.

Lại có vị hỏi rằng: Xưa có vị Tăng hỏi Triệu Châu: “Con chó có Phật tính hay không?” Triệu Châu đáp: “Không”, ý chỉ thế nào?

Điều Ngự Trả lời:

  Chất muối trong nước
Keo xanh trong màu.

Điều Ngự trả lời như vậy, là chỉ rõ “Thực tướng vô tướng” được diễn tả ở trong kinh Kim Cang cho người hỏi. Và ở trong kinh này, “Thực tướng vô tướng” đã được đức Phật chỉ rõ cho Tôn giả Tu bồ đề như sau: “Này Tu bồ đề! Cái gì có hình tướng, cái đó có sự hư dối. Nếu thấy rõ vô tướng ngay nơi các tướng tức là thấy Như Lai”. (Đại Chính 8, La Thập, tr. 749a).

“Vô tướng” không phải là không có tướng gì, mà tất cả tướng đang có mặt và đang biểu hiện đầy đủ và linh hoạt trong một tướng, chính tướng ấy là vô tướng. Vì vậy, Điều Ngự nói: “Chất muối trong nước; Keo xanh trong màu”. Bằng cách nhìn “vô tướng” ta thấy ngay “Trong nước có chất muối và trong màu có keo xanh”. Thực tướng vô tướng là phải thấy ngay nơi các tướng. Ngay nơi các tướng mà thấy vô tướng. Nên, theo Điều Ngự, lìa các tướng, để giác ngộ thực tướng là điều không thể có.

Lục Tổ Huệ Năng cũng đã từng nói như vậy ở trong kinh Pháp Bảo Đàn rằng: “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác, ly thế mích bồ đề, do như cầu thố giác”. Nghĩa là “Phật pháp ở trong thế gian, sự giác ngộ không thể xa rời thế gian, xa lìa thế giantìm kiếm sự giác ngộ, chẳng khác nào người đi tìm kiếm sừng thỏ”.

Điều Ngự Giác Hoàng nói: “Chất muối trong nước; Keo xanh trong màu”, là một cách nói khác về “Thực tướng vô tướng, hay hết thảy pháp đều là phật pháp”, của kinh Kim Cang, mà chính bản thân của Điều Ngự đã trực nghiệm, chứng ngộứng dụng nó trong khi làm vua, làm Thái Thượng hoàng an dân hay lúc làm Tăng sĩ để độ đời.

“Thực tướng vô tướng hay hết thảy pháp đều là Phật pháp” của kinh Kim Cang là cốt điểm mà Điều Ngự đã giác ngộ, và đã đem ra ứng dụng và viết thành “Cư trần lạc đạo phú”, khiến cho các nhà nghiên cứu về Trần Nhân Tông sau này cho rằng, “Cư trần lạc đạo phú” là tư tưởng chủ não cho mọi hành hoạt của ông và trở thành tư tưởng thiền học đặc trưng của Trúc Lâm Yên Tử.

Đọc Cư Trần Lạc Đạo Phú của Trần Nhân Tôn, ta thấy vua đã ảnh hưởng rất nhiều về giáo lý của kinh Kim Cang, nhất là giáo lý nói về “Nhất thiết pháp giai thị phật pháp” của kinh này (Đại Chính 8, La Thập, tr. 751b).

Nhất thiết pháp giai thị phật pháp, nghĩa là hết thảy pháp đều là phật pháp hay hết thảy pháp đều là pháp giác ngộ.

Trong Cư Trần Lạc Đạo Phú, Hội thứ nhất vua nói:

  “Mình ngồi thành thị, nết dụng sơn lâm”.

Thành thị là chỉ cho cuộc đời, nơi sinh hoạt ồn ào, nơi bụi đời phiền não; Sơn lâm là chỉ cho đạo, nơi sinh hoạt trong sự vắng lặng, hay nơi sinh hoạt theo bản thể thanh tịnh tự nhiên.

Vua nói: “Mình ngồi thành thị, nết dụng sơn lâm”, nghĩa là ngay nơi các tướng thế gian, mà giác ngộ thực tướng vô tướng, sống và hành sử đúng theo thực tướng vô tướng ấy.

Làm hưng vượng đất nước mà không thấy nhân ngã; dẹp giặc, giữ yên bờ cõi mà tâm không sân hận, thù oán hay tự đắc; được cả giang sơn gấm vóc, xã tắc đoàn tụ vui vầy mà lòng không đắm trước; ngồi với cao lương mỹ vị mà dạ chẳng khát thèm; xúc tiếp với cung phi, mỹ nữ mỗi ngày mà tâm thường nghĩ đến sự xả ly, ngồi trên thiên hạ mà thấy rõ các pháp thế gian đều hoạt khởi trong hư huyễn, đó chính là “Mình ngồi thành thị, nết dụng sơn lâm”, mà vua Trần Nhân Tông đã thực hiện.

Và điều ấy, ta lại thấy vua nói rõ trong Cư Trần Lạc Đạo Phú, Hội thứ hai rằng:

 Dứt trừ nhân ngã,
thì ra thực tướng Kim Cang.
Dừng hết tham sân,
mới làu lòng mầu viên giác.

Nhân, ngã vốn không có cách biệt, vốn không có tự tính, nên tất cả tướng của nó đều là vô tướng. Ở ngay nơi nhân ngã của thế gian, mà hành động vô tướng, thì ngay nơi nhân ngã ấy là đạo, chứ đạo ở đâu nữa, mà đi tìm và ngay nơi mọi sinh hoạt của thế gian, mà hành động với tâm vô tướng, với lòng vô ngã, thì những sinh hoạt ấy là sinh hoạt của đạo, của tâm không nhân ngã và của đời sống giác ngộ, chứ đạo đâu nữa mà kiếm tìm, và giác ngộ đâu nằm ở ngoài cuộc đời mà lao lung tìm kiếm. Giác ngộgiác ngộ ngay trong mọi sinh hoạt của đời thường và giải thoátgiải thoát ngay nơi tâm ràng buộc bởi những ý niệm phiền não, phân biệt nhân ngã, chứ đâu phải ngoài những sự ràng buộc của thế gian mà có giải thoát.

Đạo vốn rộng lớn mênh mông không bờ mé, tịch lặng chiếu soi, không buộc không giải. Buộc là tâm bị phiền não bám vào, giải là phiền não nơi tâm yên lắng, tánh của tâm tự nhiên tĩnh lặng sáng trong soi chiếu.

Vì vậy, trong bài giảng tại viện Kỳ Lân, ngày mồng 9 tháng giêng nhuận, năm Bính ngọ (1306), Điều Ngự đã nói với đại chúng rằng: “Này xem, đạo lớn mênh mông, đâu buộc đâu ràng, bản tánh sáng trong, không thiện không ác. Bởi do phân biệt, lắm ngả sinh ngang, thoáng khởi ám mờ, biến thành trời đất. Thánh phàm cùng chung đầu mối, phải trái đâu thể phân chia,…”

Theo Điều Ngự, đạo là vậy, nên trong bài kệ Cư Trần Lạc Đạo Phú, Hội mười, Vua nói:

 Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề, khốn tắc miên
Gia trung hữu bửu hưu tầm mích
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.

Nghĩa là:

 Sống đời, vui đạo hãy tùy duyên
Chừ đói cứ ăn, mệt ngủ liền
Có báu trong nhà ngưng tìm kiếm
Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền.

Như vậy, ta đã rõ Trần Nhân Tôn đã giác ngộ kinh Kim Cang bằng “Thực tướng Vô tướng; bằng “Hết thảy pháp đều là phật pháp”, và rồi Vua đã thực hiện những điều ấy trong đời sống của chính mình, qua nhiều vai tròhình thức khác nhau, đem lại nhiều lợi ích không phải chỉ cho non sông gấm vóc, mà cho tất cả thế gian này trong hơn năm mươi năm giữa cuộc đời, ông hiện thân làm người, nên trong Đắc Thú Lâm Tuyền Thành Đạo Ca ông nói:

 Niệm lòng vặc vặc
Giác tính quang quang
Chẳng còn bỉ thử.
Tranh chấp nhân ngã
Trần duyên rũ hết
Thị phi chẳng hề.
Rèn một tấm lòng
Đêm ngày đon đả.
Ngồi trong trần thế
Chẳng quản sự thay.
Văng vẳng ngàn kia,
Dầu lòng dong thả.
Học đòi chư Phật
Cho được viên thành;
Xướng khúc vô sinh
An thiền tiêu sá.

Điều Ngự đã học đòi chư Phật cho được viên thành, xướng khúc vô sinh, an thiền tiêu sá bằng cách nào? Bằng cách:

 Ai ai chả biết
Bằng huyễn chiêm bao;
Xẩy tỉnh giấc hòe
Châu rơi lã chã.
Cốc hay thân huyễn,
Chẳng khác phù vân;
Vạn sự giai không,
Tựa dường bọt bể.

Chính đoạn này ở trong Đắc Thú Lâm Tuyền Thành Đạo Ca, ông đã diễn tả nó bằng tâm bất động, đúng chân như, không mắc kẹt mọi ý tưởng nhân ngã thị phi, đúng như bài kệ quán chiếu đối với các pháp thuộc hữu vi, mà đức Phật đã dạy cho Tôn giả Tu bồ đềkinh Kim Cang rằng:

 Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng, huyễn, bào ảnh,
Như lộ, diệc như điện,
Ưng tác như thị quán.
 (Đại Chính 8, La Thập, tr 752b)

Nghĩa là:

 Hãy quán chiếu như vậy:
Hết thảy pháp hữu vi
Như mộng huyễn, bào, ảnh,
Như sương mai, điện chớp.

Với một cuộc đời hành hoạt đầy sống động như vậy, ta có thể gọi Trần Nhân Tôn là người con chí hiếu, là nhà chiến lược giỏi, là nhà lãnh đạo đất nước tài hoa, là bậc minh quân, là nhà chính trị và văn hóa lớn, là nhà tư tưởng lớn, là bậc minh triết, sơ Tổ Trúc Lâm Yên Tử, là vị Phật sống đời Trần,…

Và dù ta có dùng bao nhiêu mỹ hiệu để gọi Ngài là gì đi nữa, thì Ngài không bị ràng buộc nơi những mỹ hiệu mà ta đã và đang gọi cho Ngài. Và dù cho ta có khen để mà chê Ngài, như Ngô Sĩ Liên đời Lê, đứng từ lập trường Nho giáo viết sử, hưởng bỗng lộc triều đình mà viết rằng: “Song vui ở kinh Phật, tuy bảo là đến chỗ siêu thoát, nhưng không phải là đạo trung dung của Thánh nhân” (ĐVSKTT I, tr 450, Nxb Văn học 2006), thì những lời khen chê ấy, cũng chẳng dính dáng gì đến bản chất “Thực tướng vô tướng”, nơi mà Ngài đã sống và hành hoạt.

“Thực tướng vô tướng” mà bản thân Vua đã chứng nghiệm ngay ở nơi cõi đời đầy nhân ngã bụi bặm này, hay cái nhìn “hết thảy pháp đều là phật pháp” hoặc trực nhận được “cái chân thực ngay nơi cái huyễn mộng” của cuộc đời, mà kinh Kim Cang đã hiển thị cho Ngài. Vì vậy mà Vua nói “Dứt trừ nhân ngã, thì ra thực tướng kim cương; dừng hết tham sân, mới làu lòng mầu viên giác” hay “Xướng khúc vô sinh, an thiền tiêu sá”.

Nên, đối với một vị giác ngộ như vậy, ta có thể gọi Ngài bằng bất cứ danh từ nào cũng được, nhưng không phải vì vậy mà Ngài trở thành cái danh từ theo ta gọi.

Ta có thể gọi Ngài là vị “Cư trần lạc đạo”, hay là vị đã thấy Phật ngay giữa những bụi bặm của cuộc đời và sống với Phật ngay giữa những bụi bặm ấy; hay là vị đã “Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca”, hoặc đã thể nhập được với thực tính không sanh diệt giữa những sinh diệt vô tận của dòng đời, khi ta đọc bài kệ thị tịch của Ngài nói cho Thị giả Bảo Sát, vào giờ Tý, ngày mồng một, tháng mười một, năm Mậu Thân (1308) tại Ngọa Vân Am, núi Yên Tử rằng:

 Nhất thiết pháp bất sanh
Nhất thiết pháp bất diệt
Nhược năng như thị giải
Chư Phật thường hiện tiền
Hà khứ lai chi hữu.

Nghĩa là:

 Hết thảy pháp không sinh
Hết thảy pháp không diệt
Nếu hiểu được như vậy
Chư Phật thường hiện tiền
Làm gì có đến đi.

Trong bài kệ ấy, bốn câu trên, Ngài đã dẫn ra từ kinh Hoa Nghiêm, nói về chân lý không sanh diệt. Câu sau cùng là Ngài đã nói về nghĩa Như của kinh Kim Cang.

Nghĩa Như ở kinh Kim Cang, chính là chư pháp Như nghĩa. Nghĩa Như là Chân Như nơi các pháp, không có đến, không có đi, không có sanh, không có diệt,…

Điều này, ở kinh Kim Cang, đức Phật đã chỉ ra cho Tôn giả Tu bồ đề rằng: “Này Tu bồ đề! Nếu có người nói rằng: Như Lai có đến, có đi, có ngồi, có nằm là người ấy không hiểu được ý nghĩa lời nói của Như Lai. Tại sao? Vì Như Lai không đến từ đâu, cũng không đi về đâu, nên gọi là Như Lai” (Đại Chính 8, La Thập, tr. 752b)

Ở trong giờ phút thị tịch, Trần Nhân Tôn, tức Điều Ngự Giác Hoàng, đã nói cho Thị giả Bảo Sát rằng: “Hà khứ lai chi hữu? = Làm gì có đến có đi?” Bảo Sát liền hỏi: “Chỉ có chân như, khi chẳng sanh, chẳng diệt thì thế nào?” Điều Ngự liền vả ngay vào miệng Bảo Sát mà nói: “Đừng nói mớ!” Nói xong, Ngài nằm theo lối sư tử mà tịch.

Vì sao? Bảo Sát hỏi vậy, liền bị Điều Ngự cho là nói “mớ” và bị vả? Vì theo Điều Ngự, đối với chân lý rốt ráo tối hậu (đệ nhất nghĩa đế), khởi niệm là sai, mở miệng là quấy. Chính điều này, Điều Ngự đã khai thị cho đại chúng trong lời mở đầu tại buổi giảng ở viện Kỳ Lân, vào ngày mồng 9 tháng giêng nhuận năm Bính Ngọ (1306) rồi, mà Bảo Sát không lãnh hội, vì thế mà hỏi lại, nên bị Điều Ngự vả.

Lãnh hội “chân lý rốt ráo tối hậu” hay “hết thảy pháp không sinh, không diệt”, bằng tuệ giác, thì ngay đó là chư Phật hiện tiền, “niệm lòng vặc vặc, giác tính quang quang”. Và nếu không phải vậy, mà khởi tâm động niệm nghĩ suy, thì “mây bay vạn dặm”.

Kể từ khi con người bằng xương, bằng thịt của Trần Nhân Tông vắng bóng đã trải dài ngót bảy thế kỷ, biết bao nhiêu nhà văn, nhà thơ, nhà viết sử, nhà nghiên cứu, nhà phê bình, nói và nhận định về Ngài theo những cảm thức khác nhau của họ, nhưng tất cả đều đã nói “mớ” về Ngài. Không nói “mớ” sao được, khi Ngài là bậc đã “dứt trừ nhân ngã, thì ra thực tướng kim cang”, trong lúc đó những người viết, cảm nhận và hội thảo về Ngài, thì còn mang đầy nhân ngã, thị phi, nên những gì họ nói, viết về Ngài sao mà không “mớ” cho được? Vì nói “mớ”, nên dù viết cách nào, dù nói cách nào về Ngài, tất cả đều bị Ngài vả vậy!

Như vậy, ta thấy kinh Kim Canggiáo lý chủ não cho Phật giáo đời Trần. Giáo lý ấy đã đẩy thúc vua Trần Nhân Tông hay Điều Ngự Giác Hoàng hành động cho lợi ích chung một cách tích cực, một cách hết lòngvô trú, và giáo lý ấy không những ảnh hưởng đến nếp suy nghĩ, nếp sống đối với Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, mà còn ảnh hưởng đối với Trần Anh Tông và cả Trần Minh Tông sau này nữa vậy.

Vì vậy, giáo lý kinh Kim Cang đối với nhà Trần nói chung và Trần Nhân Tông nói riêng, đã đóng vai trò chủ não cho sự đạt ngộ tâm linh, cũng như trong những hành hoạt, vì những lợi ích chung cho nhân quần xã hội trong thời đại của họ.

 T.T.H

Source: thuvienhoasen



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19427)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
(Xem: 18532)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 16062)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 29873)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 25465)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 21611)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 17812)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 20825)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26340)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 33332)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 52157)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 22877)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23412)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 39651)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 21794)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 22386)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 6839)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22732)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 69812)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 44015)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23074)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 35040)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 44098)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42918)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44424)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 24917)
"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài, Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân..." HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 24358)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39210)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 39238)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 17255)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 18044)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19260)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35676)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24219)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 19588)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 20405)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 18315)
Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ...
(Xem: 19002)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 18942)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 17476)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 19323)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 30834)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19193)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 20530)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19561)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19769)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 29826)
Rạng ngời một đóa kỳ hoa Vô cùng huyền diệu tinh ba khôn lường Linh Đàm phổ hóa tứ phương
(Xem: 17837)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
(Xem: 19412)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 19881)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 58771)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 24405)
Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hóa hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng...
(Xem: 23520)
Phật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.
(Xem: 39765)
Chùa Phật Đà - San Diego, California tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL.2556 ngày 5/6/2012
(Xem: 26721)
Thông Điệp Phật Đản Của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon - Văn Công Hưng dịch
(Xem: 40764)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 22870)
Tuy Ngài đã nhập diệt nhưng chánh pháp vẫn được lưu truyền mãi trong thế gian như là một con đường đưa chúng ta thoát khỏi sự khổ đau để tìm về bờ giải thoát.
(Xem: 22923)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất...
(Xem: 21598)
Nhớ Phật đản là nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc đời ô trược này đã từng hiện sinh một Đức Phật đem tình thươngtrí tuệ soi sáng nhân gian...
(Xem: 18620)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 22595)
Vui thay Đức Phật ra đời chỉ con người mọi việc đều xuất phát từ duyên khởi rồi dẫn tới nhân quả. Một chiếc lá rụng ở đây biết đâu là ngọn gió từ ngoài biển...
(Xem: 21088)
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái...
(Xem: 19218)
Lâm Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người vô cùng hoan hỷ.
(Xem: 20934)
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện giữa Trung Ấn Độ để sau này trở thành một bậc Vĩ Nhân...
(Xem: 20333)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 30556)
Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt...
(Xem: 20183)
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử, cuộc đời Ngài có vô vàn điều phi thường. Mà vĩ đại nhất là, Ngài đã chứng ngộ giải thoát, và đem pháp ấy truyền dạy cho chúng sanh.
(Xem: 17466)
Bậc đại Thánh ứng hiệnthế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi.
(Xem: 16600)
Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng...
(Xem: 16851)
Hằng năm, cứ vào dịp đến những ngày tháng tư âm lịch, lòng tôi lại dâng lên một niềm hân hoan khôn tả; niềm vui ấy chính là khoảnh khắc đón chờ đến ngày Phật đản...
(Xem: 14961)
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2556 - 2012 của Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 14838)
Tự do là điều có thể. Chúng ta không phải bị nhốt trong đau khổ. Có con đường để thoát khổ. Và con đường đó không gì khác là thực hành bát chánh đạo.
(Xem: 22868)
Trần gian cung phụng Đản sanh Mỗi Tâm mỗi Bụt viên thành truyện xưa Quản chi tạt gió xan mưa...
(Xem: 16047)
Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng...
(Xem: 16210)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
(Xem: 15258)
Nói chung, sự hiện thân của đức Từ Phụ Thích Ca làm cho thế giới đang rưng rưng lệ bỗng hóa thành nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt của vạn hữu.
(Xem: 26112)
Bao la biển rộng sông dài. Tháng Tư ấm đậm tình người Việt Nam Lũy tre hiện mái chùa làng...
(Xem: 17194)
Tướng chữ 卍 vạn là phù hiệu của điềm lành được xưng là "Cát Tường Hải Vân" hoặc là "Cát Tường Hỷ Thí".
(Xem: 15796)
Đại lễ Phật đản 2508-1964 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng và mở ra một trang sử mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Nguyên Ly
(Xem: 19772)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 17673)
Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát.
(Xem: 14685)
Vào ngày thứ ba, trong một thông điệp nhân ngày lễ Phật Đản của Phật Giáo (Lễ Vesak), một vị Hồng Y Thiên Chúa Giáo La Mã đã ca ngợi Phật Giáo...
(Xem: 14733)
Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật...
(Xem: 19129)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15121)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 33058)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17491)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19129)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 21823)
Lumbini…! Sáng nao bình minh xanh lấp lánh Rừng cây reo, chim muôn cành xào xạc Khấp khởi nắng vàng, rộn rã nghìn hoa
(Xem: 23009)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16624)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16470)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16513)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 22995)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26393)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12749)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29516)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27721)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25914)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 18463)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant