Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

02. Ngày thứ hai

12 Tháng Mười 201200:00(Xem: 14785)
02. Ngày thứ hai

TỨ NIỆM XỨ GIẢNG GIẢI

Tác giả: Goenka
Dịch giả: Pháp Thông


NGÀY THỨ HAI

Ngày thứ hai của khóa thiền Tứ Niệm Xứ - satipaṭṭhāna đã qua. Chiều nay chúng ta sẽ bắt đầu nghiên cứu bài kinh satipaṭṭhāna để hiểu nó trong liên hệ với pháp hành thực sự.

Tên bài kinhMahā-satipaṭṭhāna Sutta. Sutta có nghĩa là bài giảng hay bài kinh. Mahā là lớn, và quả thực có một bài kinh khác về satipaṭṭhāna [2] nhưng ngắn hơn. Tuy nhiên, bài kinh giới thiệu ở đây đề cập chi tiết đến nhiều chủ đề hơn và vì thế nó được gọi là mahā - lớn.

Chúng ta đã biết, sati là niệm hay sự nhận biết. Đó là một năng lực rất quan trọng của Pháp (dhamma), như đã nói ngày hôm qua. Niệm là một trong ngũ căn hay quyền - indriyas cần phải được phát triển. Nó còn là một trong các lực (balas) hay sức mạnh phải được tu tập để làm chủ Pháp. Niệm cũng là một trong thất giác chi - bojjhaṅgas, các chi phần của sự giác ngộ. Sammā-sati hay chánh niệm là một phần của Bát chánh đạo. Nghĩa đen của nó, như ngày nay người ta thường dùngẤn Độ là "ký ức" hay "sự hồi tưởng" - smṛti. Thiền minh sát (vipassanā) không liên hệ đến ký ức thuộc quá khứ, mà bạn phải luôn luôn ghi nhớ đối tượng thiền, đối tượng này là thực tại thuộc tâm và vật chất hay danh và sắc trong cấu trúc của chính thân bạn. Vì thế, ý nghĩa đúng đắn của niệm hay sati là sự nhận biết, và sự nhận biết này phải là về thực tại của sát-na này đúng như nó là, về thực tại hiện tiền, chứ không phải quá khứ hay tương lai.

"Paṭṭhāna" nghĩa là kiến lập hay thiết lập. "Pa" là một cách rộng rãi, nó bao gồm yếu tố trí tuệ, paññā. Niệm không chỉ đơn thuần nhận biết sự thực của tâm và vật chất (danh và sắc), mà cũng còn nhận biết về bản chất của sự thực này nữa; nó sanh và diệt như thế nào; nó là nguồn gốc của khổ ra sao; vì sao nó không phải là "tôi" và vô ngã (không có thực thể). Kinh nghiệm trực tiếp đòi hỏi phải có. Đây không phải là sự hiểu biết thuần tri thức về một sự thực bề ngoài (sự thực chế định). Niệm được thiết lập với trí tuệ, vốn là sự hiểu biết về thực chất của thực tại. Chính vì vậy nó mới có tên là Mahā-satipaṭṭhāna Sutta (Đại niệm xứ kinh).

Bài kinh mở đầu bằng:

Evaṃ me sutaṃ

Tôi nghe như vầy - hay điều này đã được tôi nghe:

Những lời này dĩ nhiên không phải là những lời của Đức Phật. Có một lịch sử nằm đằng sau chúng, mà những hành giả minh sát cần phải biết.

Khi Đức Phật nhập diệt ở tuổi 80, các vị đệ tử của Ngài có mặt lúc đó đều là các bậc Alahán, đã giải thoát viên mãn, hiểu rằng mọi người, Đức Phật hay phàm nhân cũng thế, đều phải chết. Đây là quy luật tự nhiên. Trong khi những vị đệ tử khác chưa tu tập Pháp (dhamma) đến mức này (tức đến quả vị Alahán) cảm thấy rất buồn, thậm chí có vị còn khóc lóc thảm thiết. Tuy nhiên có một người, một vị sư, tuổi đã già nhưng không có trí tuệ, không cùng quan điểm với các vị sư kia. Ông cảm thấy rất vui rằng ông già (chỉ Đức Phật) đã chết: giờ đây họ thoát khỏi sự kềm thúc của Ngài và có thể làm những gì họ thích. Suy cho cùng chính lời của Đức Phật là: Attā hi attano nātho - "ta là chủ nhân của ta", hay "ta là nơi nương tựa của ta", cơ mà. Sự việc này cho thấy rằng những thành phần gia nhập Tăng đoàn (saṅgha) có những người không quan tâm đến Pháp (dhamma). Họ đến chỉ vì địa vị, vì muốn sống một cuộc sống phong lưu sung túc, được ăn uống đầy đủ và được kính trọng hơn ở những nơi khác.

Tuy nhiên tôi cảm thấy rất biết ơn vị sư (già) này. Vì sao? Khi Ngài Đại Ca Diếp (MahāKassapa), một vị sư trưởng rất trí tuệ, một bậc Alahán, đã giải thoát viên mãn và là một trong những vị đệ tử quan trọng nhất của Đức Phật, nghe được những lời này, Ngài quyết định bảo tồn những lời dạy chân thực của Đức Phật để chống lại những sự xuyên tạc trong tương lai bởi những phần tử như vậy. Chúng ta biết, trong bốn mươi lăm năm, cả ngày lẫn đêm, Đức Phật đã giảng dạy Pháp (dhamma), họa hoằn lắm mới nghỉ được hai hoặc ba tiếng ban đêm, và ngay cả sự nghỉ ngơi đó cũng không phải ngủ nghỉ bình thường mà với niệm và xả, với trí tuệ. Đức Phật đã thuyết giảng 82.000 pháp môn, các vị đệ tử Alahán của Ngài thuyết 2.000 pháp môn khác. Tổng cộng có 84.000 pháp môn. Ngài Ca Diếp nghĩ rằng những người khác, giống như vị sư già này, trong tương lai sẽ trích dẫn sai lời dạy của Đức Phật, thay thế những lời của họ vào đó và loại bỏ những giới luật thiết yếu ra. Do đó, Ngài quyết định triệu tập một cuộc hội nghị gồm 500 vị trưởng lão Tỳ khưu, các bậc Alahán đã chính mắt chứng kiến lời dạy của Đức Phật, để đọc tụng, sưu tập và xác nhận những lời dạy đúng đắn của Ngài. Tất nhiên có thể chỉ một vài vị đã làm điều này, song để gây ấn tượng cho mọi người và để bảo đảm sự đồng thuận mà ngài đã triệu tập 500 vị ngay sau khi Đức Phật nhập diệt. Các vị đã cùng nhau trùng tuyên từng lời của Đức Phậtchính thức xác nhận tính xác thực của nó.

Ānanda

Ānanda được tiến cử đến Tôn giả Ca Diếp như thành viên thứ 500 của cuộc đại hội này. Ānanda sanh cùng ngày với Đức Phật Gotama, là anh em họ với ngài và đã trải qua thời thơ ấu của mình với Ngài. Khi Đức Phật chứng đắc giác ngộ, Ānanda là một trong những thành viên trong gia tộc đã từ bỏ đời sống gia chủ để xuất gia theo ngài. Khi con số những người đi theo càng đông, công việc (giảng dạy) cũng tăng lên, Đức Phật cần phải có một người thị giả (hầu cận bên ngài). Một số vị đã đến, nhưng với những động cơ khác. Người thì với hy vọng sẽ được bí mật chứng kiến những phép lạ, mặc dù Đức Phật ngăn cấm việc thi triển thần thông trước công chúng. Người thì mong nghe được những câu đối đáp về một số vấn đề triết lý mà bình thường ngài không trả lời trước công chúng. Những người như vậy không thể ở lại lâu, và họ đã ra đi.

Khi Đức Phật năm mươi lăm tuổi, nhu cầu phải có một người thị giả ổn định đã được ngài chấp nhận. Nhiều vị sư cao niên rất muốn được hầu hạ ngài, nhưng ngài vẫn thích chọn Ānanda hơn. Tuy thế Ānanda vẫn giữ yên lặng. Cuối cùng Ānanda thực lòng thỉnh cầu Đức Phật chấp nhận một số điều khoản. Có bảy hoặc tám điều gì đó, rất lành mạnh, và Đức Phật đã chấp nhận tất cả. Một điều trong đó là nếu khi nào Đức Phật thuyết pháp mà Ānanda không có mặt ở đó, Đức Phật phải lập lại bài pháp ấy cho ngài khi trở về. Như vậy ngài đã nghe được mọi bài pháp trong suốt hai mươi lăm năm cuối đời của Đức Phật. Tất nhiên ngài cũng nghe được cả những bài pháp trước thời gian đó. Ānanda có một khả năng ghi nhớ kỳ diệu do việc thực hành của vị ấy và cũng do những phẩm hạnh tốt ở quá khứ. Nếu được nghe điều gì một lần, ngài có thể lập lại nó bất kỳ lúc nào, đúng từng chữ một, giống như một chiếc máy vi tính hay máy thu băng ngày nay vậy.

Ānanda đã phục vụ Đức Phật suốt hai mươi lăm năm. Tôn giả sống rất gần với Đức Phật và là một người thị giả đắc lực của ngài, thế nhưng tôn giả vẫn chưa phải là một bậc Alahán, bậc đã giải thoát viên mãn. Tôn giả chỉ là một vị thánh Nhập lưu - sotāpanna, đã đạt đến tầng giải thoát thứ nhất sau khi thực chứng Niết Bàn lần đầu tiên. Vượt qua đó là giai đoạn Tư-đà-hàm (Sakadāgāmī), rồi A-na-hàm (Anāgāmī), và A-la-hán (Arahant). Từ điều này chúng ta cần phải hiểu rằng Đức Phật không thể giải thoát cho ai được cả. Ānanda biết Pháp (dhamma) rất rõ: có thể nói hàng ngàn người do tôn giả dạy đều là bậc Alahán, tuy thế tôn giả vẫn tiếp tục phục vụ Đức Phật, không có thời gian để tự mình thăng tiến.

Vì thế ngài Ca Diếp (Kassapa) đi đến tôn giả, nói rằng bây giờ Đức Phật đã diệt độ rồi, Ānanda có nhiều thời gian (rảnh rỗi), và là một bậc thầy, Ānanda biết kỹ thuật (minh sát) rất rõ. Ngài Ca Diếp yêu cầu tôn giả hãy thực hành để trở thành một bậc Alahán và tham dự cuộc kết tập kinh điểntôn giả sẽ là một nhân vật rất cao quý ở đó. Ānanda hoan hỷ chấp nhận; tôn giả hứa sẽ hành trong vài ngày để trở thành một bậc Alahán, và tham gia cùng mọi người.

Tôn giả bắt đầu thực hành rất nhiệt tình, nhắm đến việc trở thành một bậc Alahán. Là một bậc thầy tôn giả thường khuyên người khác không nên để phát triển cái tôi hay bản ngã, vì đó là một chướng ngại rất nguy hiểm. Thường thì người thầy, khi thực hành, bao giờ cũng quên những lời mình dạy, và đây là những gì đã xảy ra với Ānanda. Mục đích của tôn giả là - "Ta phải trở thành một bậc Alahán" và thế là tôn giả chẳng tiến bộ được chút nào cả. MahāKassapa (Ca-Diếp) đi đến và nói với tôn giả rằng cuộc kết tập sẽ bắt đầu vào ngày mai; nếu cần sẽ không có tôn giả. Nếu Ānanda không thành một bậc Alahán đại hội sẽ cử người khác. Tôn giả lại cố sức hành cả đêm - "Ta phải trở thành một bậc Alahán". Đêm đã qua và mặt trời ló rạng. Kiệt quệ vì công việc (thực hành minh sát), tôn giả quyết định đi nghỉ. Tôn giả không than khóc, đó là một phẩm chất tốt của tôn giả. Giờ đây tôn giả không nhắm đến việc trở thành một bậc Alahán nữa. Tôn giả chỉ chấp nhận sự kiện rằng tôn giả không phải là một bậc Alahán, tôn giả chỉ là một vị Nhập Lưu (sotāpanna). Tựa như một hành giả tốt, duy trì chánh niệm trên các cảm thọ đang sanh và diệt, tôn giả nằm xuống nghỉ. Tâm trí tôn giả giờ đây không còn nghĩ đến tương lai, mà chuyên chú vào thực tại của sát-na hiện tiền. Trước khi đầu chạm gối, tôn giả trở thành một bậc Alahán.

Đó là trung đạo. Với sự lơi lỏng quá mức bạn chẳng thành tựu được gì. Còn với nỗ lực quá mức tâm sẽ mất thăng bằng. Ānanda tham dự cuộc kết tập.

Bây giờ, Ānanda được hỏi chính xác những gì Đức Phật đã nói, và tất cả những lời dạy (của Đức Phật) đều được sưu tập lại, rồi chia làm ba nhóm gọi là Tipiṭaka hay Tam Tạng. "Ti" có nghĩa là ba. Piṭaka thường gọi là cái giỏ, mặc dù nó cũng nói đến kinh điển. Thứ nhất là Kinh Tạng - Sutta Piṭaka, những bài giảng có tính chất đại chúng. Thứ hai là Luật Tạng - Vinaya Piṭaka, những bài giảng dành cho các vị Tỳ khưu và Tỳ khưu ni về luật và giới (Sīla). Đối với những gia chủ, ngũ giới được xem là vừa đủ, song đối với các vị sư và tu nữ có hơn 200 sīla (giới), đó là lý do vì sao vị sư già bất đồng quan điểm.

Thứ ba là Vi diệu Tạng - Abhidhamma piṭaka, giáo Pháp cao siêu, những sự thực sâu xa hơn về các quy luật của tự nhiên mà đối với người bình thường không dễ hiểu tí nào. Đó là một nghiên cứu phân tích về toàn bộ lĩnh vực của tâm và vật chất (danh và sắc) với đầy đủ chi tiết về thực tại gắn liền sắc (rūpa), tâm (citta) và các tâm sở hay nội dung tâm trí (cetasikas). Vi diệu pháp (abhidhamma) giải thích đầy đủ cách chúng tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau như thế nào, cách danh và sắc kích thích sự sanh khởi của tự thân và sự sanh khởi của nhau ra sao, nó cũng giải thích những mối quan hệ liên kết, những dòng, và những dòng cắt (hoạt động của tâm) tận sâu bên trong. Tất cả những điều này trở nên rõ ràng, dĩ nhiên không chỉ do đọc Vi diệu pháp, mà do hành thâm Vipassanā (thiền minh sát). Ānanda được đại hội yêu cầu trùng tuyên Kinh (Suttas) và Vi diệu pháp (abhidhamma), trong khi một vị Alahán khác, tinh thông giới luật, tôn giả Upāli (Ưubali), được yêu cầu trùng tuyên Luật Tạng (Vinaya).

Bài kinh Satipaṭṭhāna này nằm trong Kinh Tạng (Sutta-piṭaka) Ānanda bắt đầu với Evaṃ me sutaṃ, "Điều này tôi nghe" hay "Tôi nghe như vầy", bởi vì tôn giả đã trực tiếp nghe điều đó từ Đức Phật. Tôn giả cũng đưa ra lời giải thích về bối cảnh thuyết kinh. "Một thời Đức Thế Tôn đang sống (viharati) giữa những người dân Kurūs tại Kammāssadhammaṃ, một thị tứ của dân chúng Kurū". Chữ viharati thường được người Ấn dùng để trỏ những người đã giác ngộ hay những người đang thực hành Pháp (dhamma). Kurū lúc đó là một trong mười sáu tiểu quốc ở bắc Ấn, ngày nay gọi là Haryana, một nơi gần Đềly (Delhi) và Punjab. Đức Phật gọi các vị Tỳ khưu (Bhikkhus), đó là những hành giả (nói chung) có mặt ở đó, và nói.

Kurū

Đức Phật thuyết kinh này ở Kurū vì một lý do. Không riêng gì Đức Phật mà những người khác cũng đánh giá cao người dân xứ Kurū này. Trong một truyền thống Ấn Độ khác, sách Bhagavad Gita [3] bắt đầu với những lời: Dhammarkṣhetre, Kurukṣhetre, nghĩa là trong "lĩnh vực của Pháp (dhamma), lĩnh vực của Kurū". Ở một bài kinh khác Đức Phật giải thích những người Kurūs đã sống một cuộc đời giới hạnh, từ vua chúa đến thứ dân như thế nào. Điều này hoàn toàn lạ thường, và những gì bây giờ người ta gọi là sīla dhamma (giới - pháp) thì hồi đó gọi là Kurū-dhamma (Kurū pháp). Vì Giới hay đạo đứcbản chất của họ.

Trong một kiếp quá khứ của Đức Phật, thời đó Bồ tát (Bodhisatta) là người cai trị xứ Kurū. Kaliṅga, một tiểu quốc khác bây giờ gọi là Orissa, lâm vào cảnh hạn hán và đói kém hết năm này đến năm khác. Người ta tin rằng những nạn đói như vậy xảy ra khi con người không còn sống một cuộc sống giới hạnh. Những vị bô lão xứ Kalinga khuyên đức vua nên thọ trì ngũ giới, để tất cả thần dân của ngài bắt chước theo, và giữ ngũ giới như vậy. Điều quan trọng là giới phải được thọ nhận từ một người hoàn hảo trong giới hay giữ giới trong sạch. Về điều này họ đề nghị đức vua nên xin giới nơi vua xứ Kurū, một con người hoàn hảo, mọi thần dân của ông đều sống một cuộc sống giới hạnh.

Hai sứ giả Bàlamôn được phái đi. Họ tâu với vua Kurū toàn bộ câu chuyệnthỉnh cầu ông viết những giới điều (ngũ giới) trên một tấm bảng đá: thay mặt vua họ sẽ đọc to những giới ấy, và mọi người dân xứ Kaliṅga sẽ bắt đầu thực hành theo và như vậy thoát khỏi đại hạn. Đức vua xứ Kurū từ chối. Mặc dù ông đang sống một cuộc sống hoàn hảo về giới, song ông cảm thấy mình đã phạm một sai lầm nhỏ. Vua gởi họ đến mẫu hậu của mình. Bà cũng nói là bà đã phạm một lỗi nhỏ. Vì thế đoàn sứ giả lại được gởi tới chánh cung hoàng hậu; và tương tự, lần lượt họ đến bào đệ của vua, đến quan thừa tướng, quan thủ khố, thương nhân, thậm chí xuống đến người đánh xe (ngựa) và người gác cổng. Tất cả đều nói họ đã phạm một lầm lỗi nhỏ.

Tuy vậy những lầm lỗi này không có gì quan trọng cả. Chẳng hạn, đức vua trong lúc chứng tỏ tài nghệ bắn cung của mình, đã bắn một mũi tên. Mũi tên ấy rơi xuồng hồ, và không nổi lên. Có lẽ nó đã xuyên qua một con cá. Không biết điều này có thực là vậy hay không, vẫn còn là mối hòai nghi. Người dân Kurū là người rất cẩn trọng.

Một nền tảng giới luật là rất quan trọng. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian giữa một vị Phật này và một vị Phật khác xuất hiện (rất dài, không tính được), các phần khác của Pháp - dhamma bị thất truyền, và đây là những gì đã xảy ra. Thực sự Pháp mà một vị Phật tuyên thuyếthoàn hảothanh tịnh - kevalaparipuṇṇaṃ (đầy đủ và hoàn chỉnh), kevalaparisudhaṃ - (trọn vẹnthanh tịnh) - không có gì phải thêm vào hoặc lấy ra. Khi thời gian qua đi những phần quan trọng của Pháp lạc mất. Trí tuệ (paññā), phần khó nhất, biến mất trước tiên: chỉ tuệ thế gian còn lại. Rồi định thanh tịnh, thuần khiết mất: những tưởng tượng còn lại, song chánh niệm về thực tại không còn. Giới còn lại, trong khi những bước khác thất lạc, nó bị cường điệu quá mức và bị mở rộng ra đến những cực đoan khiến cho tâm trở nên mất thăng bằng. Điều này đã xảy ra ở Ấn Độ ngày nay: người ta trở nên quá mất quân bình trong việc thực hành định (samādhi) và tuệ (paññā) đúng đắn.

Đức Phật luôn luôn lên án sīla-vata-parāmāsa - chấp thủ giới. Ở đây chữ vata nghĩa là lời thề nguyện, hay phát nguyện, parāmasachấp thủ. Không có định (samādhi) hoặc tuệ (paññā) đích thực, người ta liền phát nguyện (vata); và quay qua mở rộng chỉ một giới (sīla), nghĩ rằng nó sẽ giải thoát cho họ. Thực sự thì không có gì sai với giới (sīla) hoặc phát nguyện (vata), cả hai đều quan trọng. Chẳng hạn, phát nguyện không ăn chiều sẽ trợ giúp cho thiền của bạn, hoặc nguyện nhịn ăn một ngày để giữ cho bạn sức khỏe. Nhưng khi nó được mở rộng ra thành cực đoan thì người ta nhịn ăn đến cả tháng, chỉ để chứng tỏ cái Pháp (nhịn ăn) của họ, và điểm cốt yếu, hay mục đích không thấy đâu nữa.

Đây là tình trạng đã xảy ra ở Kurū lúc đó. Giới của họ rất tốt, nhưng đã bị mở rộng ra thành cực đoan. Mặc dù điều đó sai, song giữ giới (sīla) chắc chắn vẫn tốt hơn nhiều so với không giữ giới. Những gì họ thiếu trong Pháp (dhamma), có thể tìm được bằng kỹ thuật (minh sát) này. Bởi thế, bài kinh không nói về giới (sīla) nữa, vì căn bản vững chắc này đã có sẵn ở đó rồi. Với một căn bản tốt như vậy, người dân Kurū chắc chắn sẽ hiểu những chi tiết của kỹ thuật này rõ hơn. Do đó, Đức Phật mới thuyết kinh này ở Kurū.

Rồi Ngài (Đức Phật) gọi các vị Tỳ khưu (bhikkhu). Trong ngôn ngữ thông thường của Ấn Độ, bhikkhu có nghĩa là một vị sư (Tỳ khưu), một vị samôn, nhưng trong hầu hết những lời dạy của Đức Phật thì bhikkhu lại có nghĩa là bất kỳ người nào đang thực hành giáo pháp. Do đó, chữ bhikkhu ở đây ngụ ý một người hành thiền, một hành giả, dù đó là nam hay nữ cư sĩ, hoặc một vị sư hay tu nữ.

Những lời mở đầu

Ekāyano ayaṃ, bhikkhave, maggo

Đây là con đường (đạo lộ) độc nhất.

Sattānaṃ visuddhiyā: để tịnh hóa các chúng sinh. Điều này phải hiểu ở mức tâm, vì tắm gội thân bên ngoài sẽ không làm cho tâm trong sạch. Những kết quả của việc thanh tịnh này là như sau:

Soka-paridevānaṃ samatikkamāya : vượt qua sự buồn rầu trong thâm tâm (thường dịch là sầu) - soka, và sự thể hiện của nó qua việc than, khóc bi ai - parideva. Khi bạn thực hành, nó trồi lên bề mặt và quan sát, bạn sẽ vượt qua sầu, bi ấy, samatikkamāya.

Dukkha-domanassānaṃ atthaṅgamāya. Ở một mức vi tế hơn vẫn có cảm giác khó chịu trong tâm, domanassa - hay ưu, và cảm thọ khó chịu trên thân, dukkha hay khổ. Những điều này cũng được đoạn trừ, atthaṅgamāya.

Ñāyassa adhigamāya. Ñāya nghĩa là sự thực. Nếu bạn hành với sự quán tưởng hay tưởng tượng những kết quả như thế sẽ không đến. Chỉ có bề mặt của tâm được thanh tịnh. Cái khổ thâm sâu nhất chỉ có thể được nhổ bật ra khi bạn quan sát thực tại của tâm và vật chất (danh và sắc) và sự tương quan của chúng, từ sự thực thô bề ngoài đến sự thực tối hậu, vi tế nhất bên trong. Sự thực hay chân lý do Đức Phật kinh nghiệm chỉ giải thoát được một mình ngài. Một vị Phật chỉ có thể chỉ đường, còn bạn phải đi trên con đường đó. Ñāyassa adhigamāya là đạo lộ cao thượng của giải thoát.

Nibbānassa sacchikiriyāya. Niết Bàn phải được thể nghiệm, phải được thực chứng, sacchikiriyāya, bằng cách quan sát sự thực. Bạn phải đi vào thực tại vi tế nhất của tâm và vật chất (danh - sắc) và rồi vượt qua thực tại ấy để chứng kiến một cái gì đó vượt ngoài nó. Toàn bộ lãnh vực của tâm và vật chấtlãnh vực của vô thường (anicca), lãnh vực của sanh và diệt không ngừng. Ở mức thô, nó sanh lên, dường như dừng lại một lúc, rồi diệt. Ở mức vi tế hơn, nó diệt với vận tốc lớn. Ở mức vi tế nhất chỉ có sự dao động. Sự thực tối hậu vượt ngoài tất cả và ở đây không có sự sanh hay diệt. Nó nằm ngoài tâm và vật chất (danh - sắc), nằm ngoài lãnh vực của giác quan. Sự kinh nghiệm Niết Bàn có thể chỉ trong vài sát-na, vài phút, hay vài giờ; điều đó còn tùy, song chắc chắn là bạn trở lại với một con người đã thay đổi. Bạn không thể giải thích kinh nghiệm ấy. Tất nhiên người ta có thể đưa ra những giải thích thật dài dòng theo lý trí, nhưng trong trạng thái Niết Bàn các giác quan đều ngưng hoạt động, vì thế chúng không thể được dùng để giải thích nó. Ân Đức cuối cùng trong sáu ân đức của Pháp (dhamma) là paccattaṃveditabbo - tức là pháp phải được kinh nghiệm trực tiếp và bởi tự thân mỗi người trong chính (con người) họ.

Ekāyamo maggo , "Con đường độc nhất”, có vẻ như hơi thiển cận. Những người không từng bước đi trên con đường đó, hay bước đi nhưng không được nhiều lắm, có thể cảm thấy khó chịu. Nhưng đối với những người đã bước đi trên đạo lộ này, rõ ràng nó là con đường độc nhất. Suy cho cùng, đó là quy luật phổ quát của tự nhiên mà thôi. Nó cần phải được kinh nghiệmcần phải được hiểu bởi mọi người, từ bất kỳ tôn giáo, hay xứ sở nào. Lửa sẽ đốt cháy tay của bất cứ ai. Nếu bạn không thích bị phỏng, bạn phải tránh tay ra, dù bạn là một Phật tử hay một tín đồ Thiên chúa, một người Úc hay người Mỹ. Có hay không có Newton, định luật hấp dẫn vẫn hiện hữu. Có hay không có Einstein quy luật tương đối vẫn hiện hữu. Tương tự, quy luật của tự nhiên vẫn có mặt dù có hay không có một vị Phật ra đời. Quy luật đó là quy luật nhân - quả. Hai phân tử hydrô (hydrogen) và một phân tử oxy (oxygen) tạo thành nước. Nếu một trong hai (phân tử) vắng mặt trên hành tinh, sẽ không có nước. Đây là một quy luật tự nhiên. Đây là Pháp (dhamma). Khi bạn tiếp tục thực hành vào sâu hơn, bạn sẽ hiểu được điều này. Nếu bạn không muốn khổ, bạn phải loại trừ nhân (sanh khổ). Lúc đó quả khổ sẽ tự động bị loại trừ.

Nếu bạn nghĩ rằng một quyền năng siêu nhiên nào đó sẽ giải thoát cho bạn mặc dù mọi bất tịnh là của bạn, thì điều đó chỉ là chuyện ước mơ. Nó sẽ không bao giờ xảy ra. Bạn phải làm việc theo quy luật của tự nhiên. Mô thức thói quen phản ứng thâm căn cố đế hiện nay của bạn xuất phát từ vô minh, do kết quả của nó bạn cứ nếm trải khổ đau không ngừng, và mô thức này phải được thay đổi, nếu bạn muốn hết khổ.

Chính theo nghĩa này mà nó là ekāyano maggo - con đường độc nhất, và bây giờ Đức Phật mô tả thêm.

Yadidaṃ cattāro satipaṭṭhānā: đó là, bốn niệm xứ (cattāro satipaṭṭhāna). Ở giai đoạn này hành giả phải chú ý vì sao có bốn satipaṭṭhānas, hay bốn cách thiết lập niệm với trí tuệ. Thứ nhất là:

Kāye kāyānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā, vineyya loke abhijjhādomanassaṃ.

Kāye kāyānupassī viharati : Sống chứng kiến (quán) thực tại của thân trong thân. Việc thực hành được làm rất nhiệt tâm, tinh cần - ātāpī, với trí tuệ - sampajāno (thấy rõ) sự sanh và sự diệt, và với chánh niệm satimā. Không có sự tưởng tượng liên quan ở đây, thay vào đó chánh niệm trực tiếp, với trí tuệ tỉnh giác. Sự thực thuộc về thân phải được quán sát, được kinh nghiệm trong chính thân này. Điều này được làm với vineyya hay viễn ly, abhijjhādomanassaṃ, tham và sân (ưu) đối với thế gian - loke, các hiện tượng tâm - vật chất hay danh - sắc.

Vedanāsu vedanānupassī viharati ātāpī sampajano satimā, vineyya loke abhijjādomanassaṃ.

Thứ hai là vedanāsu vedanānupassī viharati: sống chứng kiến hay quán sát sự thực của các cảm thọ thuộc thân. Một lần nữa không có sự tưởng tượng ở đây. Sự thực được quan sát trong những cảm thọ thuộc thân, bằng kinh nghiệm trực tiếp theo cùng cách như trên.

Citte cittānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā, vineyya loke abhijjhādomanassaṃ.

Tương tự, thứ ba là citte cittānupassī viharati: chứng kiến hay quán thực tại của tâm trong tâm.

Dhammesu dhammānupasī viharati ātāpī sampajāno satimā, vineyya loke abhijjhādomanassaṃ.

Thứ tư là dhammesu dhammānupassī viharati: chứng kiến hay quán thực tại của Pháp hay các nội dung tâm trí, quy luật của tự nhiên, của tâm và vật chất (danh và sắc), trong quy luật (ở đây phải hiểu là Pháp), trong các nội dung tâm trí. Điều này được làm theo cùng cách như trên.

Bốn niệm xứ (satipaṭṭhāna) này - quán sự thực của thân, hay các cảm thọ, hay tâm, hay các nội dung của tâm (pháp) - tất cả phải được kinh nghiệm trực tiếp. Sự hiểu biết trên phương diện tri thức sẽ cho bạn nguồn cảm hứng và sự hướng dẫn cách làm thế nào để hành đúng, nhưng chỉ có kinh nghệm trực tiếp mới cho bạn những kết quả. Điều này phải được hiểu rõ khi chúng ta tiến hành.

Bây giờ bạn đang làm việc với hơi thở, thực tại của sát-na này, đúng như nó là, (hơi thở) đi vào và đi ra, sâu hoặc nông. Bạn cũng cố gắng duy trì chánh niệm về thực tại của cảm thọ trong vùng thân này, tức vùng dưới mũi và trên môi trên, đúng như nó thể hiện từ sát-na này đến sát-na khác. Đối tượng là vùng thân ấy. Cố gắng duy trì tính liên tục của chánh niệm cả ngày lẫn đêm, trừ khi bạn rơi vào giấc ngủ sâu. Phần lớn thời gian, tâm sẽ lang thang. Bạn sẽ quên, bạn không thể không thế được, nhưng ngay khi bạn nhận ra, hãy đem tâm trở lại. Đừng phát sinh thất vọng hay chán nản. Chỉ chấp nhận rằng tâm đã lang thang, và bắt đầu trở lại, vậy thôi. Bạn hãy làm việc một cách nghiêm túc hơn, chuyên cần hơn. Thời gian rất ngắn. Bạn đã đến với một khóa thiền, với một bầu không khí rất nghiêm túc, không bị khuấy động bởi những thiền sinh mới. Hãy tận dụng nó cho lợi ích của bạn cho sự tốt đẹpgiải thoát của bạn. Cầu mong tất cả hưởng được sự bình yên, hài hòa, và hạnh phúc chơn thực.

Cầu mong tất cả chúng sinh được an vui.

--ooOoo--

[1] Sutavā: Hán dịch cụ văn giả, tức người được nghe (Pháp) đầy đủ, ở đây chúng tôi tạm dịch là hàng Thanh văn (sāvaka) cho hợp với mạch văn sau - ND.

[2] Kinh niệm xứ (Satipaṭṭhāna) xuất hiện hai lần trong Tạng kinh. Một là kinh số 22 của Trường bộ, hai là kinh số 10 của Trung bộ. Bài kinh trong Trường bộ đề cập chi tiết hơn về phần quán Pháp, nên gọi là Mahāsatipaṭṭhāna. Song nội dung của hai bài kinh đều giống nhau. ND

[3] Bhagavad Gita (hay bài ca của Người Chân Phúc, Krishna) là tác phẩm phổ biến nhất trong văn học tôn giáoẤn Độ. Nó được suy tưởng, bình giải, yêu thích và được dịch ra nhiều thứ tiếng, và đã vượt ra khỏi các biên giới Ấn Độ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25665)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37883)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19607)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18679)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14263)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20109)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9507)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14380)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35571)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10656)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19713)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23214)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13367)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10752)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20232)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10607)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9972)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14883)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17662)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17611)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13194)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31178)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25774)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13983)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17516)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10980)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12296)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10475)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12276)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11772)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9620)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12359)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9201)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8498)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9967)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9758)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12040)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14429)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9912)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11210)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8298)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10970)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14092)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9910)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15210)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13042)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23082)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 24007)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12577)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15435)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17794)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15063)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16561)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16095)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17649)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11598)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11622)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17834)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10787)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10524)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11330)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12086)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11055)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36420)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8964)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9682)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34717)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17269)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10245)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10473)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12204)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13638)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14674)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9155)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24813)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11640)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10316)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15949)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15579)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14527)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13005)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12455)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14590)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18367)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9574)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18524)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18591)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19025)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18836)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11835)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13350)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47996)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11069)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13556)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13045)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11068)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12559)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11055)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31781)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11671)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant