Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 07: Thuyết bản nguyện tha lực của Đàm Loan

20 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 11953)
Chương 07: Thuyết bản nguyện tha lực của Đàm Loan

LỊCH SỬ GIÁO LÍ TỊNH ĐỘ TRUNG QUỐC

Tác giả: Vọng Nguyệt Tín Hanh - Hán dịch: Thích Ấn Hải
Hiệu đính: Định Huệ - Việt dịch: Giới Niệm


CHƯƠNG VII: THUYẾT BẢN NGUYỆN THA LỰC CỦA ĐÀM LOAN

Tiết 1: Sự tích và trứ tác của Đàm Loan

Căn cứ vào quyển hạ trong An Lạc tập của ngài Đạo Xước, thời Đường, có ghi: “Ở Trung Quốc, những tam tạng pháp sư thích quy ngưỡng Tịnh Độ, tất cả có sáu vị, trong đó có ngài Đàm Loan (sáu vị đại đức là Bồ-đề-lưu-chi, Huệ Sủng, Đạo Trường, Đàm Loan, Đại Hải, Pháp Thượng)”. Ngài Đàm Loan chú thích Vô Lượng Thọ kinh Ưu-bà-đề-xá tụng kệ của bồ-tát Thế Thân trứ tác, Bồ-đề-lưu-chi dịch, ngài cực lực đề xướng yếu nghĩa tịnh độ Tây phươngdựa vào tha lực và thuyết công đức bản nguyện của Phật Di-đà. Hai cương yếu này của tông Tịnh Độảnh hưởng rất lớn đối với hành giả tu Tịnh Độđời sau. Trong Tuyển trạch bản nguyện niệm Phật tập của ngài Pháp Nhiên, người Nhật, nói tông Tịnh ĐộTrung Quốc được chia làm ba hệ phái lớn:

1. Lô sơn Huệ Viễn

2. Tam tạng Từ Mẫn

3. Đạo Xước, Thiện Đạo v.v…

Tư tưởng Tịnh Độ do ngài Đạo Xước và ngài Thiện Đạo truyền đều tôn xưng ngài Đàm Loan là thỉ tổ. Vì ngài Lô sơn Huệ Viễn y theo pháp tu Bát-chu tam-muội, lấy kì vọng ở trong định thấy Phật mà được vãng sinh, còn ngài Đàm Loan thì lấy sức công đức bản nguyện của Di-đà Như Lai nhiếp dẫn chúng sinh mà chóng được vãng sinh, đắc quả vị Bất thoái chuyển. Tư tưởng Tịnh Độ và pháp tu hành của ba hệ phái này, từ nghìn năm trăm năm đến nay, ở Trung Quốc đan chéo lẫn nhau truyền bá rộng rãi không bị suy thoái. Ngài Pháp Nhiên người Nhật truyền thừa tư tưởng Tịnh Độ của ngài Thiện Đạo, phát huy rộng rãi ở Nhật, đồng thời tôn ngài Đàm Loan là tổ thứ năm của tông Tịnh Độ, mãi về sau được mọi người sùng ngưỡng.

Tục cao tăng truyện quyển 6 ghi: Ngài Đàm Loan là người Nhạn Môn, tỉnh Sơn Tây (Đại châu, tỉnh Sơn Tây, hoặc nói ở Vấn Thủy, Tinh châu), do nhà ở gần núi Ngũ Đài nên ngài thường được nghe nói về hóa tích linh cảm ở núi Ngũ Đài; lúc mười tuổi, ngài lên núi du ngoạn, tinh thần cảm thấy vui vẻ, liền phát tâm xuất gia. Ngài học rộng nội điểnngoại điển, nghiên cứu cả bốn bộ luận (Trung luận, Bách luận, Thập nhị môn luận, Đại trí độ luận) và các vấn đề về Phật tính. Khi đọc kinh Đại tập, vì từ ngữ nghĩa lí của kinh này sâu kín, khó để khai ngộ, nên ngài phải chú thích. Ngài chú thích được một nửa, đột nhiên ngã bệnh, về sau tuy bệnh thuyên giảm nhưng ngài nghĩ đến thân mạng vô thường, bèn lập chí trước phải học thuật trường sinh của Tiên đạo. Bấy giờ, ngài đi về phương Nam, đến Kiến Khang (Giang Ninh, Giang Tô), giữa niên hiệu Đại Thông, đời Lương Vũ Đế, ngài đến Nam Kinh, tỉnh Giang Tô, Lương Vũ Đế cho mời ngài đến điện Trùng Vân, đồng thời vua thưa hỏi một vài vấn đề về Phật tính. Hôm sau, Lương Vũ Đế ở điện Thái Cực bước xuống bệ lễ tiếp, đồng thời hỏi mục đích của đại sư Đàm Loan đến phương nam. Đại sư Đàm Loan đáp: “Tôi muốn học Phật pháp nhưng tuổi thọ ngắn ngủi, cho nên đến phương nam, tham vấn Đào Ẩn Cư, cầu các tiên thuật”. Lương Vũ Đế giới thiệu đến tham vấn Đào Hoằng Cảnh ở núi Câu Dung, Đào Ẩn Cư thấy ngài đường xa đến tham vấn nên tiếp đãi vui vẻ, bèn đem mười hai quyển kinh Tiên trao cho ngài để đáp lại thâm ý.

Sau khi được kinh Tiên, ngài Đàm Loan muốn tìm một ngọn núi nổi tiếng để tu luyện tiên thuật. Trở về Bắc Ngụy, trên đường qua Lạc Dương, ngài gặp tam tạng Bồ-đề-lưu-chi, người Ấn Độ, liền hỏi: “Trong Phật pháppháp trường sinh bất tử hơn phép kinh Tiên ở Trung Quốc không?”. Tam tạng Lưu-chi khinh thường kinh Tiên và nói: “Dẫu được trường sinh bất tử, cuối cùng cũng luân hồi trong ba cõi mà thôi, nói pháp trường sinh bất tử thì chỉ có đạo Phật của chúng ta mới có”. Nói xong, Tam tạng Lưu-chi trao cho quyển kinh Quán Vô Lượng Thọ và khuyên ngài Đàm Loan y theo kinh này mà tu hành, sẽ được giải thoát sinh tử, được trường thọ vĩnh cửu. Ngài Đàm Loan nhờ lời khai thị của ngài Bồ-đề-lưu-chi, quyết định thiêu hủy kinh Tiên, chuyên tu pháp môn Tịnh Độ Di-đà của Phật Vô Lượng Thọ. Ngài còn dạy cho rất nhiều tăng tục tu học, tự mình hành, dạy người hành, truyền bá rộng rãi. Đương thời, đế vương Bắc Ngụy tôn trọng đức hạnh của ngài, sắc phong ngài là Thần Loan, đồng thời sắc lệnh ngài trụ trì chùa Đại Nham ở Tịnh châu. Về sau, ngài đến trụ trì chùa Huyền Trung, Thạch Bích, Bắc Sơn, Phần Châu (huyện Giao Thành, tỉnh Sơn Tây), tập hợp chúng chuyên tu pháp môn niệm Phật. Vào tháng 5 niên hiệu Hưng Hòa thứ tư (542TL), thời Đông Ngụy, ngài thị tịch ở chùa Bình Dao Sơn, hưởng thọ 67 tuổi.

Trong lời đối đáp của ngài Đàm Loan lúc gặp ngài Bồ-đề-lưu-chi và tiếp nhận Quán kinh v.v…như đoạn văn trước đã nói, khiến cho chúng ta đâm ra nghi ngờ. Vả lại, Vãng sinh luận chú do ngài soạn, là lời giải thích luận này, lại thêm vào lời phê bình. Nhưng đặc biệt là ngài chú thích ở phía sau chữ “nhất tầm” với lời bình “Người dịch lấy chữ ‘tầm’ để nói, sao mà tối nghĩa quá”. Nếu Bồ-đề-lưu-chi là vị thầy quy y tịnh độ của Đàm Loan thì đây là câu nói vô lễ. Như thế, vị thầy mà ngài Đàm Loan thụ nghiệp cuối cùng là ai, không thể biết được. Nhưng ngài là người nghiên cứu qua bốn bộ luận: Trung luận, Bách luận, Thập nhị môn luậnĐại trí độ luận. Lại xét theo thứ tự sáu vị đại đức Đạo Trường, Đàm Loan v.v…trong An Lạc tập nêu tên ra thì có lẽ ngài là môn hạ thụ học với ngài Đạo Trường, người nổi tiếng đương thời về giảng giải Trí luận. Lại nữa, ngài Đạo Trường từng thụ trì Ngũ Thông mạn-đồ-la, như trước đã nói, nên ngài Đàm Loan chuyển hướng Tịnh Độ, cũng có lẽ là do sự chỉ dạy của ngài Đạo Trường.

Lại nữa, liên quan đến niên đại nhập diệt của ngài, tuy nhiên Tục cao tăng truyện có ghi ngài tịch vào niên hiệu Hưng Hòa thứ tư, thời Đông Ngụy, nhưng thấy trong bài minh Thái tử tạo tượng được lập vào tháng 2 niên hiệu Thiên Bảo thứ 5 (554TL), thời Bắc Tề có khắc trong hai mươi bảy người, liệt kê có tì-kheo tên Đàm Loan. Nếu tì-kheo Đàm Loan này và ngài Đàm Loan nói ở đây là một người thì niên đại nhập diệt kia phải là vào niên hiệu Thiên Bảo thứ 5, thời Bắc Tề trở về sau. Lại nữa, Đàm Loan truyện trong quyển hạ Tịnh độ luận của Ngài Ca Tài có ghi: Vào cuối thời Ngụy, đầu thời Cao Tề, ngài vẫn còn tại thế. Đạo Xước truyện trong Tục cao tăng truyện quyển 20 và Vãng sinh Tây phương tịnh độ thụy ứng san truyện đều có ghi là pháp sư Đàm Loan là người thời Tề. Vậy chúng ta có thể thấy ngài chẳng phải thị tịch vào thời Đông Ngụy.

Những tác phẩm của ngài Đàm Loan để lại đời sau, gồm có bộ Vãng sinh luận chú 2 quyển, Tán Di-đà Phật kệ 1 quyển, Lược luận An Lạc tịnh độ nghĩa 1 quyển. Trong đó, bộ Vãng sinh luận chú giải thích Vô Lượng Thọ kinh luận của bồ-tát Thế Thân. Quyển thượng giải thích hai mươi bốn hàng kệ nguyện vãng sinh, quyển hạ giải thích văn trường hàng, trong luận chú đối với yếu nghĩa Tịnh Độ Di-đà có sự phát huy độc đáo. Tán Di-đà Phật kệ là thơ thất ngôn, tổng cộng một trăm chín mươi lăm bài tụng là căn cứ kinh Vô Lượng Thọ để ca ngợi Phật A-di-đà và công đức trang nghiêm về y báo, chính báo tịnh độ Tây phương của Ngài, cho nên còn có nhan đề là Vô Lượng Thọ kinh phụng tán, hoặc là Đại kinh phụng tán. Lược luận An Lạc tịnh độ nghĩa là nói về tịnh độ Tây phương An Lạc chẳng phải ở trong ba cõi, sự trang nghiêm của quốc độ, phẩm vị của người vãng sinh, biên địa, thai sinhnghi hoặc về ngũ trí[6], cho đến các luận nghĩa về mười niệm tương tục.

Trong Vô Lượng Thọ kinh tông yếu 2 quyển của Nguyên Hiểu, người Tân La, đưa ra ví dụ mặc áo hay cởi áo lội qua sông được nêu trong đây được cho là thuyết của ngài La-thập. Pháp hoa huyền nghĩa tư ký quyển thứ 6 của Chứng Chân, người Nhật Bản, cho rằng sách Lược luận An Lạc tịnh độ nghĩa do ngài La-thập trứ tác, nhưng sách này dẫn dụng có Quán kinh, Vãng sinh luận được phiên dịch sau ngài La-thập, vì thế sách này không phải do ngài La-thập soạn thuật, không cần phải hoài nghi. Lại nữa, trong trứ tác của ngài Linh Không Quang Khiêm, người Nhật Bản, có nói Lược luận An Lạc tịnh độ nghĩa 1 quyển, chẳng phải do ngài Đàm Loan soạn, mà nói sách này là ngụy tác của người Nhật Bản nào đó, chứ chẳng phải thật sự do ngài Đàm Loan soạn. Nhưng trong Tịnh độ luận của ngài Ca Tài, quyển hạ có nêu ngoài Vãng sinh luận chúVô Lượng Thọ kinh phụng tán ra, còn có một quyển Vấn đáp (tức An Lạc độ nghĩa). Trong An Lạc tập của ngài Đạo Xước cũng thường dẫn dụng văn của sách này. Không chỉ như vậy, thời cận đại ở động Đôn Hoàng cũng phát hiện bản cổ của sách này, do đó, không phải ngụy tác của Nhật Bản. Ngoài ra, trong Tục cao tăng truyện có đề cập Điều khí luận; Kinh tịch chí trong Tùy thư có nói đến Liệu bách bệnh tạp hoàn phương 3 quyển, Luận khí trị liệu phương 1 quyển; Nghệ văn chí trong Tống sử thì nêu Phục khí yếu quyết 1 quyển, tất cả đều là do đại sư Đàm Loan trứ tác. Chúng ta có thể thấy đại sư Đàm Loan cũng tinh thông về y thuật. Bởi vì, ngài Đàm Loan đã từng bị ma bệnh quấy nhiễu, vì tìm cách tự trị bệnh cho mình, cho nên ngài cũng tinh thông về y thuật.

Tiết 2: Nói về đạo khó hành và đạo dễ hành

Ngài Đàm Loan đề cao giáo nghĩa Tịnh Độ, lấy Vãng sinh luận chú làm chủ yếu, phần Khai tông minh nghĩa ở trong sách này, ngài trích dẫn ở phẩm Dị hành trong Thập trụ Tì-bà-sa luận của ngài Long Thọ, có ghi: “Bồ-tát cầu A-tì-bạt-trí (Bất thoái chuyển), có hai đạo: 1. Đạo khó hành; 2. Đạo dễ hành.

1. Đạo khó hành, nghĩa là ở đời năm trược, thời không có Phật, cầu A-tì-bạt-trí là khó, giống như đi bộ thì khổ nhọc.

2. Đạo dễ hành, chỉ dùng nhân duyên tin Phật để nguyện sinh Tịnh Độ, Phật lực gia trì tức nhập Đại thừa chính định tụ, chính định tức là A-tì-bạt-trí. Vì đời ngũ trược không có Phật, pháp ngoại đạo thịnh hành, quấy rối hành pháp vô tướng của bồ-tát; pháp tự lợi, tự điều phục của Thanh văn Tiểu thừa làm chướng ngại hạnh đại từ bi của bồ-tát, nên khiến cho họ bị thoái chuyển. Lại nữa, người ác không biết nhân quả, phá hoại đức thù thắng của bồ-tát, thiện quả hữu lậu điên đảo, quấy phá phạm hạnh của bồ-tát; không chỉ như vậy, trong thời không có Phật, người tu hành đều dựa vào năng lực của mình, không có Phật lực gia trì, cho nên khó đắc A-tì-bạt-trí; ví như đi bộ thì khó. Trái lại, đạo dễ hành thì nhờ sức bản nguyện của Đức Phật, nhờ nguyện mà vãng sinh. Được Phật lực gia trì thì nhập Đại thừa chính định tụ, rồi trụ Bất thoái chuyển. Đây tức là nương vào tha lực mà đắc A-tì-bạt-trí, ví như đi đường thủy thì ngồi trên thuyền thì thoải mái, nên gọi là đạo dễ hành.

Bởi vì hai đạo khó hành và đạo dễ hành vốn là do ngài Long Thọ khởi xướng. Ngài cho rằng ở cõi này lâu dài, chuyên tu tinh tấn, trải qua nhiều gian nan rồi mới được Bất thoái chuyển, là đạo khó hành; còn xưng niệm danh hiệu mười vị Phật ở mười phương như Phật Thiện Đức ở phương đông v.v…và danh hiệu chư Phật, bồ-tát như Phật A-di-đà, Phật Thế Tự Tại Vương v.v…thì chóng được Bất thoái chuyển, là đạo dễ hành. Vì vậy, ngài cho rằng ở cõi này hai đạo khó hành và đạo dễ hành đều có thể được Bất thoái chuyển.

Nhưng ngài Đàm Loan lại không có quan điểm như thế, ngài cho là ở cõi này tu hành được Bất thoái chuyển là đạo khó hành, chỉ có vãng sinh Tịnh Độ rồi tu hành được Bất thoái chuyển, mới là đạo dễ hành. Cõi này và Tịnh Độ, khó hành và dễ hành là do phân biệt tương đối mà nói.

Lại nữa, bồ-tát Long Thọ nói: “Xưng niệm danh hiệu chư Phật, bồ-tát đều thuộc pháp của đạo dễ hành”. Ngài Đàm Loan lại phản đối thuyết này. Ngài nói: “Chỉ có xưng niệm một danh hiệu Phật A-di-đà mới là đạo dễ hành, vả lại nhờ sức bản nguyện của Phật A-di-đà mới có thể vãng sinh Tịnh Độ, vãng sinh rồi mới được Bất thoái chuyển”. Như thế thì tất cả đều nhờ sức gia trì của Phật A-di-đà mà được, cho nên bất đồng với thuyết của bồ-tát Long Thọ. Những điều này là ngài Đàm Loan căn cứ vào giáo nghĩa của kinh Vô Lượng Thọ và luận Vãng sinh để rút ra kết luận.

Tuy cách nhìn về yếu nghĩa Tịnh Độ của hai vị có hơi khác biệt nhưng ngài Đàm Loan vô cùng tôn sùng sự vĩ đại của bồ-tát Long Thọ. Ở trong Tán A-di-đà Phật kệ của ngài, có lời tán tụng:

“Đại sư Long Thọ ma-ha-tát

Sinh nhằm thời tượng pháp suy đồi

Đóng bít cửa tà, mở chính lý

Là mắt sáng của châu Diêm-phù.

Xin theo bồ-tát Hoan Hỉ địa

Qui hướng Di-đà, sinh An Lạc.

Giống như rồng lượn, mây cuốn theo

Che mát trùm cả châu Diêm-phù.

Nam mô Từ bi Long Thọ tôn

Chí tâm qui mạng đỉnh lễ ngài.……”.

Đây là những lời tán thán chí thành, sùng kính. Trong đó, câu “Xin theo bồ-tát Hoan Hỉ địa v.v…” là y theo phẩm Kệ tụng trong kinh Nhập Lăng-già do Bồ-đề-lưu-chi dịch vào niên hiệu Diên Xương thứ 2 (515TL), thời Bắc Ngụy, để kể lại lời huyền ký về ngài Long Thọ vãng sinh cõi An Lạc. Ngài Đàm Loan nhờ nghiên cứu bốn bộ luận, do đó từ việc này, chúng ta có thể suy đoán ngài là người rất kính trọng bồ-tát Long Thọ. Cho đến khi thấy được lời văn huyền ký trong kinh Lăng-già thì ngài lại càng sinh tâm sùng kính hơn. Ngài Đàm Loan chắc là phải y theo đây mà phát khởi tín tâm qui nhập Tịnh Độ. Không chỉ như thế, trong Dị hành phẩm của bồ-tát Long Thọ còn liệt kê bản nguyện của Phật Di-đà, lại dùng ba mươi hai hàng kệ tụng để tán thán Phật Di-đà và tịnh độ của Ngài.

Thế nên, ngài Đàm Loan tham khảo, nghiên cứu ý kiến sâu kín của bồ-tát Long Thọ, rồi ước định một Đức Phật Di-đà và đặc biệt luận về đạo dễ hành và nói về sự lợi ích lớn lao của việc đắc Bất thoái chuyển sau khi được vãng sinh.

Tiết 3: Thuyết bản nguyện tha lực

Đại sư Đàm Loan nhấn mạnh sự trọng yếu nguyện lực của Đức Phật Di-đà, đó là ngài y theo kinh Vô Lượng Thọ. Nhưng chắc là ngài được sự gợi ý của bồ-tát Long Thọ. Kinh Vô Lượng Thọ sớm được lưu thông ở phương Nam (đất Lương, thuộc Nam Triều). Trong Cao tăng truyện có ghi: “Như pháp sư Pháp Độ ở chùa Thê Hà, pháp sư Bảo Lượng ở chùa Linh Vị v.v…thường thuyết kinh này. Thế nhưng, họ chưa từng trứ tác sách vở hay lập thuyết, đối với bản nguyện Di-đà cũng chưa có phát biểu ý kiến mới gì cả. Đợi đến khi kinh này được hoằng truyền ở phương Bắc, thì ngài Đàm Loan mới cực lực khởi xướng. Cho nên, ngài Đàm Loan thật sự là người đầu tiên luận về Nguyện lực. Lý luận này có ảnh hưởng rất lớn đối với người tu học pháp môn Tịnh Độđời sau. Trong Vãng sinh luận chú quyển hạ có nói đến sự mạnh mẽ của nguyện lực Di-đà, tu tập ngũ niệm môn để tự lợi lợi tha thì có thể mau đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. Đây là nương nhờ duyên tăng thượng của A-di-đà Như Laichứng đắc. Vì vậy, tất cả người vãng sinh Tịnh Độ, cho đến bồ-tát, thanh văn, người, trời, đại chúng tu tịnh hạnh đều nương nhờ bản nguyện của A-di-đà Như Lai. Nếu chẳng phải nguyện lực của Đức Phật gia bị thì bốn mươi tám đại nguyện của Di-đà chỉ thiết lập suông.

Trong bốn mươi tám đại nguyện, ngài Đàm Loan đặc biệt chỉ ra ba đại nguyện mười một, mười tám và hai mươi hai để luận chứng. Y theo ba đại nguyện này tu hành thì có thể vãng sinh Tịnh Độ, có thể đắc Bất thoái chuyển, có thể đắc Chính định tụ cho đến chóng thành Phật đạo. Nguyện thứ mười một nói về trụ Chính định tụ: “Nếu tôi được thành Phật mà người, trời trong nước tôi không trụ Chính định tụ, chắc chắn được diệt độ thì tôi không thành Chính Giác”. Ngài Đàm Loan cho rằng người nhờ sức bản nguyện này được sinh về nước kia, đều trụ Chính định tụ thì không còn thoái chuyển. Nguyện thứ mười tám: “Nếu tôi được thành Phậtchúng sinh trong mười phương chí tâm tin ưa, muốn sinh nước tôi, cho đến mười niệm, nếu không được vãng sinh thì tôi không thành Chính Giác, chỉ trừ kẻ phạm năm tội nghịchphỉ báng chính pháp”. Ngài Đàm Loan cho rằng nhờ sức bản nguyện này, chúng sinh trong mười phương đều được vãng sinh Tịnh Độ. Nguyện thứ hai mươi hai nói: “Nếu tôi được thành Phật, các chúng bồ-tát ở cõi Phật phương khác sinh đến nước tôi, rốt ráo nhất định đắc Nhất sinh bổ xứ, trừ người có bản nguyện riêng, tự tại biến hóa, vì chúng sinh, mặc giáp hoằng thệ, tích lũy công đức, độ thoát tất cả, đi đến các cõi nước Phật, tu hạnh bồ-tát, cúng dường mười phương chư Phật Như Lai, khai hóa Hằng sa vô lượng chúng sinh, khiến an lập nơi đạo vô thượng chính chân, vượt qua công hạnh của các địa bình thường, hiện tiền tu tập đức của Phổ Hiền, nếu không được như vậy thì tôi không thành Chính Giác”. Ngài Đàm Loan cho rằng nương sức bản nguyện này, nhờ nguyện lực của Phật mà được vãng sinh Tịnh Độ, vượt qua các địa bình thường, nghĩa là vượt qua hạnh của các địa như sơ địa, nhị địa, tam địa v.v… mà mau chứng địa vị Nhất sinh bổ xứ.

Bởi vì, ngài Đàm Loan đã được truyền thừa nguyên ý bất thoái chuyển của bồ-tát Long Thọ, mà lại phát huy thêm thâm ý mau thành Chính Giác. Cho nên, ngài đặc biệt dẫn chứng nguyện mười một, nguyện hai mươi hai. Lại nữa, nhờ vào những nguyện này mà được vãng sinh Tịnh Độ, về sau mới được lợi ích, cho nên ngài nêu thêm nguyện mười tám làm tiền đề. Dùng ba đại thệ nguyện này làm trung tâm để đề xướng bản nguyện luận tha lực: “Đạo khó hành là nương vào tự lực; đạo dễ hành là dựa vào nguyện lực của Phật, nương nguyện vãng sinh, cho đến Phật lực gia trì để mau thành Phật đạo”. Luận chứng thâm ý này đối với giá trị chân chính của giáo lý Di-đà tịnh độtác dụng trình bày và phát huy mạnh mẽ. Đời sau, các ngài Thiện Đạo v.v…đều thừa kế thuyết này và phát huy càng rộng lớn thêm.

Tiết 4: Nói về Ngũ niệm môn

Như trên đã nói, ngài Đàm Loan cho rằng nguyện lực của Phật rất mạnh, nên chúng sinh được vãng sinh, đắc Bất thoái chuyển, chóng thành Phật đạo là cương lĩnh của giáo nghĩa Tịnh Độ. Trong đó, Bất thoái chuyển, chóng thành Phật đạo, Phật lực gia trì, nhất định phải do sự nỗ lực tu trì của bản thân hành giả tu Tịnh Độ mới được. Lại nữa, theo luận Vãng sinh của ngài Thế Thân lấy pháp tu Ngũ niệm môn làm pháp vãng sinh Tịnh Độ. Ngũ niệm môn:

1. Lễ bái môn

2. Tán thán môn

3. Tác nguyện môn

4. Quán sát môn

5. Hồi hướng môn.

Ý nghĩa của năm môn trên, chính ngài Thế Thân đã có giải thích, nhưng ngài Đàm Loan còn nói rộng thêm, đặc biệt ngài trình bày, phát huy và giải thích một cách tường tận.

1. Lễ bái môn nghĩa là trong tâm thường khởi nguyện cầu sinh Tịnh Độlễ bái Di-đà Như Lai. Đối với điều này không còn giải thích nào khác.

2. Tán thán mônxưng niệm danh hiệu Tận Thập Phương Vô Ngại Quang Như Lai (Phật A-di-đà). Luận Vãng sinh có ghi: “Miệng tán thán danh hiệu Như Lai ấy, như ánh sáng trí tướng của Như Lai ấy, như danh nghĩa của Ngài, vì muốn tu hành đúng như thật tương ưng với danh nghĩa ấy”. Ngài Đàm Loan giải thích văn này: Ánh sáng của Phật là tướng trí tuệ, cho nên gọi là ánh sáng trí tướng, ánh sáng này chiếu khắp mười phương thế giới, không bị chướng ngại, có thể phá tan bóng tối vô minh cho chúng sinh trong mười phương, lại có thể làm thỏa mãn tất cả chí nguyện của chúng sinh. Tuy xưng danh, ức niệm nhưng vô minh vẫn còn, và sở nguyện không viên mãn, thế nên như thật tu hành tương ưng với nghĩa của danh hiệu Như Lai thì bóng tối vô minh mới bị phá trừ, tất cả chí nguyện mới được viên mãn.

Sao gọi là chẳng như thật tu hành? Là danh hiệu không tương ưng với nghĩa. Thế nào là chẳng như thật tu hành cùng với danh nghĩa chẳng tương ưng? Chẳng biết Như Lai là thân thật tướng, cho là thân vật chất. Lại có ba loại chẳng tương ưng:

a. Tín tâm không thuần, khi có khi không

b. Tín tâm bất nhất, không có tính quyết định.

c. Tín tâm chẳng tương tục, còn xen lẫn tạp niệm.

Vì thế, chẳng thành như thật tu hành cũng tức là danh và nghĩa chẳng thể nương nhau. Trái lại, nếu tín tâm thuần nhất, tín tâm quyết định, tín tâm tương tục thì danh nghĩa, như thật tu hành tương ưng, tất cả chí nguyện ắt thỏa mãn. Bởi vì luận Đại trí độ quyển 34 có ghi: “Phật có hai thứ thân: pháp tính sinh thân Phật và Hóa thân Phật tùy theo chúng sinh ưu liệt mà hiện. Pháp tính sinh thân Phật là không có việc gì không làm được, không có nguyện nào không thỏa mãn”. Căn cứ vào thuyết chỉ nghe danh Phật ấy thì có thể đắc đạo, cho rằng Phật A-di-đà là pháp tính sinh thân Phật. Vì thế, nếu có thể như thật tu hành, tất cả chí nguyện không nguyện nào không viên mãn. Lại nữa, căn cứ vào thuyết nhất tâm quy mạng Tận Thập Phương Vô Ngại Quang Như Lai trong luận Vãng sinh, cho rằng tín tâm quyết định tương tục thì tương ưng với nghĩa của danh hiệu của Như Lai ấy và có thể trừ bóng tối vô minh. Về sau, ngài Thiện Đạo đặc biệt hoằng dương, lấy đây làm chính nhân vãng sinh Tịnh Độ, cho nên rất xem trọng.

Nhưng sự giải thích của đoạn văn này là chủ trương của cá nhân ngài Đàm Loan, e rằng chẳng phải nguyên ý của luận Vãng sinh. Nguyên nhân vì sao ở trong Tán thán môn thì nói đến như thật tu hành tương ưng? Trong Tác nguyện môn thứ ba có như thật tu hành xa-ma-tha, lại trong Quán sát môn thứ tư có như thật tu hành tì-bà-xá-na, nên có thể so sánh mà biết, như thật tương ưng là theo sự tu hành mà nói, bởi vì chữ tương ưng, Trung Quốc dịch từ chữ Du-già. Du-già có bốn loại: giáo, lý, hành, quả, trong đó công đức tán thán Như Lai là quả Du-già; xa-ma-tha, tì-bà-xá-na tức là hành Du-già; y báochính báo trang nghiêm gồm ba loại, hai mươi chín câu là cảnh Du-già. Nhờ đây, chúng ta có thể biết sự sắp xếp của Ngũ niệm môn chủ yếu là y theo giáo nghĩa của Du-già mà thành lập. Vậy thì, ngài Đàm Loan đem sự giải thích này làm nghĩa của danh nghĩa tương ưng, là điều không hợp với nguyên ý của ngài Thế Thân.

3. Tác nguyện mônnhất tâm chuyên niệmphát nguyện vãng sinh cõi An Lạc, muốn như thật tu hành xa-ma-tha tức là tu Chỉ, vì xa-ma-tha Hán dịch là Chỉ. Ngài Đàm Loan giải thích “Chỉ” là nghĩa dứt điều ác, có ba nghĩa:

a. Nhất tâm chuyên niệm A-di-đà Như Lai, nguyện sinh cõi ấy, nhờ danh hiệu của Như Lai này và danh hiệu của cõi nước kia mà có thể dứt tất cả điều ác.

b. Cõi An Lạc vượt qua ba cõi, nếu người vãng sinh cõi ấy, tự nhiên dứt được điều ác của thân, miệng và ý.

c. Sức trụ trì chính giác của A-di-đà Như Lai tự nhiên ngăn cái tâm của chúng sinh ở cõi kia cầu Thanh văn, Bích-chi-phật.

Ba loại Chỉ này sinh từ công đức như thật của Như Lai, cho nên nói muốn như thật tu hành xa-ma-tha.

4. Quán sát môn là phải chính niệmquán sát ba loại, hai mươi chín câu trang nghiêm của tịnh độ kia, rồi muốn như thật tu hành tì-bà-xá-na tức là tu Quán. Ngài Đàm Loan giải thích Quán có hai nghĩa:

a. Ở cõi này khởi tưởng để quán sát công đức của ba loại trang nghiêm, vì công đức này như thật nên người tu hành cũng được công đức như thậtquyết định được sinh về tịnh độ ấy .

b. Người được sinh về tịnh độ ấy, liền thấy Đức Phật A-di-đà, tuy chưa chứng bồ-tát tâm tịnh nhưng cũng đồng với bồ-tát tâm tịnh được chứng pháp thân bình đẳng. Vì thế, nói như thật tu hành tì-bà-xá-na.

Trong đây, dùng xa-ma-tha để giải thích nghĩa dứt ác, lập riêng ba nghĩa để nói là điều không hợp với nguyên ý. Lại dùng tì-bà-xá-na làm nghĩa sinh về cõi kia, sau đó thấy Phật A-di-đà, cũng không được thỏa đáng và cũng không hợp với ý của bồ-tát Thế Thân. Nhưng lấy Đức Phật làm trung tâm, đứng trên lập trường “Phật lực trụ trì”, mà giải thích ý đồ của tất cả, là đặc trưng giáo nghĩa của ngài Đàm Loan, đây là chủ trương trước sau như một của ngài.

5. Hồi hướng môn là chẳng đem tất cả công đức thiện căn cầu cho tự thân được an vui mà vì muốn dứt trừ tất cả khổ cho chúng sinh nên phát nguyện nhiếp thủ họ đồng sinh tịnh độ An Lạc. Ngài Đàm Loan nói: “Hồi hướng có hai loại: vãng tướng và hoàn tướng. Vãng tướng là đem công đức của mình hồi hướng cho tất cả chúng sinh, phát nguyện cùng sinh về cõi Phật ấy. Hoàn tướng là sau khi sinh về cõi ấy, đắc xa-ma-tha, tì-bà-xá-na và thành tựu phương tiện lực thì quay về thế giới Ta-bà để giáo hóa tất cả chúng sinh cùng hướng về Phật đạo. Nhưng tâm hồi hướng này là chỉ cho tâm Vô thượng bồ-đề, đã được nói trong ba hạng vãng sinhkinh Vô Lượng Thọ. Tâm Vô thượng bồ-đềtâm nguyện thành Phật; tâm nguyện thành Phật tức là tâm độ chúng sinh; tâm độ chúng sinh tức là nhiếp thủ chúng sinh mà sinh vào cõi có Phật. Vậy thì nguyện sinh tịnh độ An Lạc nhất định phải phát tâm bồ-đề này. Nếu không phát tâm này mà chỉ cầu cho bản thân hưởng thụ cõi An Lạc thì không thể vãng sinh cõi An Lạc. Do đây, vì cầu vãng sinhphát tâm bồ-đề, vì vậy tâm bồ-đề được gọi là chính nhân của vãng sinh Tịnh Độ.

Ở trên, ngài Đàm Loan lấy Ngũ niệm môn làm nhân vãng sinh. Trong đó, ngài y theo nguyên ý của Vãng sinh luận, Quán sát môn lẽ là ra hành môn chủ yếu, như trong Quán sát môn đã nói. Nhưng trong Thập trụ Tì-bà-sa luận thì xác tín rằng danh hiệu là thuyết Dị hành. Lại nữa, trong Tán thán môn nói xưng tán danh hiệu Như Lai đối với công đức xưng danh thì được coi trọng hơn. Lại cho rằng xưng danh hiệu Phật thật có công đức rất sâu, và cổ súy mọi người nên tin theo. Phần đầu của Vãng sinh luận chú nói kinh Vô Lượng Thọ dùng danh hiệu Phật làm thể. Lại nữa, danh hiệu Vô Ngại Quang Như Lai có đại dụng phá trừ bóng tối vô minh. Danh hiệu Như Laidanh hiệu quốc độ của Ngài có năng lực dứt tất cả điều ác. Chúng sinh ở trong sinh tử tuy có vô lượng tội lỗi nhưng dùng bảo châu thanh tịnh chí cực vô sinh của Di-đà Như Lai gieo vào trong tâm ô uế của chúng sinh thì có thể diệt được tội trong mỗi niệm của họ, tâm tịnh thì được vãng sinh. Trong Vô Lượng Thọ kinh phụng tán có ghi: “Người nghe đức hiệu của Di-đà, sinh lòng tin, vui vẻ lắng nghe, cho đến một niệm sinh tâm chí thành, hồi hướng nguyện sinh thì đều được vãng sinh”.

Ngài Đàm Loan căn cứ vào điều nguyện thứ 18 trong kinh Vô Lượng Thọ: “Cho đến mười niệm, nếu chẳng vãng sinh thì tôi không thành Chính Giác”. Phần Hạ phẩm hạ sinh trong kinh Quán Vô Lượng Thọ có ghi: nếu xưng Nam mô A-di-đà Phật đủ mười niệm thì tội có thể diệt, được vãng sinh và dùng mười niệm tương tục làm sinh nhân của vãng sinh Tịnh Độ, đồng thời giải thích đó là nhân tố để thành tựu sự nghiệp vãng sinh. Có liên quan ý nghĩa của mười niệm, Vãng sinh luận chú quyển thượng cho rằng nghĩa của ức niệm A-di-đà Phật, hoặc là tổng tướng, hoặc là biệt tướng, tùy theo duyên sở quán vào một tướng nào, tâm khôngý tưởng khác, mười niệm tương tục, gọi là thập niệm. Xưng danh hiệu cũng lại như thế.

Lại nữa, trong Lược luận An Lạc tịnh độ nghĩa có nêu ví dụ mặc áo, cởi áo để qua sông có ghi: “Mười niệm tương tục, giống như có người ở nơi hoang dã bị giặc truy đuổi, do đó nghĩ cách chạy trốn, bỗng thấy trước mặt có dòng sông lớn chắn ngang, nhưng phải vượt qua sông ấy mới có thể thoát được ách nạn. Khi đó, người này chỉ nghĩ vượt qua sông, không có ý nghĩ nào khác. Nói cách khác, khi đó, người này tuyệt nhiên không thể suy đi nghĩ lại là nên mặc áo để bơi qua sông, hay nên cởi hết áo quần để bơi qua sông, nếu mặc áo quần xuống nước thì áo quần sẽ bị thấm ướt, không tiện cho việc bơi lội, e sẽ bị chết chìm; nếu cởi hết áo quần để bơi qua sông thì giặc đuổi đến nơi, thời gian lại không cho phép. Chỉ có một niệm qua sông, lại không có ý niệm khác. Hành giả tu Tịnh Độ nhất tâm chuyên niệm Phật A-di-đà lại không có tâm khác xen tạp trong đó, niệm niệm nối nhau, cho đến mười niệm, đây gọi là mười niệm tương tục. Tức là nói: “Không luận xưng danh hiệu, hay là quán tưởng tướng hảo của Phật Di-đà, chỉ cần nhất tâm chuyên chú, tâm khôngý tưởng khác xen tạp, mười niệm tương tục tức gọi là thập niệm.

Hỏi: Chỉ dùng nhất tâm tương tục này chuyên chú quán tưởng tướng hảo của Phật Di-đà, như vậy làm sao biết được trước sau tổng cộng có bao nhiêu niệm? Như ban đầu quán tưởng tướng hảo của Phật Di-đà, giữa chừng xen tạp sự duyên khác, đợi sự duyên qua đi, lại nhiếp tâm quán niệm, như thế thì có thể tính ra số lần niệm. Nhưng niệm trước niệm sau có bị gián đoạn, cho nên không thành tương tục. Niệm tức là niệm trước và niệm sau gián đoạn, giữa chừng tương tục không gián đoạn. Ngài Đàm Loan đối với thập niệm này đầy đủ, xác nhận đó là điều then chốt để thành tựu sự nghiệp vãng sinh. Nếu ngưng tâm quán tưởng, lại nương vào đây có thể nhớ kỹ bao nhiêu niệm?

Đáp: Kinh nói thập niệmnói hành nghiệp vãng sinh thành tựu, không cần phải biết số niệm, giống như con ve tuy nó sinh vào mùa hạ và cũng chết vào mùa hạ nên nó không biết có mùa xuân, mùa thu như người hiểu biết tự có thể biết rõ mạng số của nó. Mười niệm tương tục có thể thành tựu tịnh nghiệp vãng sinh, đây tuy là việc không biết của hàng phàm phu chúng ta nhưng nhìn từ lập trường của bậc chứng thần thông thì họ biết rõ ràngthành tựu hay không? Vì thế, hành giả chỉ nhất tâm không loạn, tích niệm tương tục, không duyên việc khác, lại có rãnh rỗi đâu mà đi phân biệt số niệm. Nếu cần biết thì cũng có phương tiện, đó là phải truyền miệng chứ không thể hình dung bằng bút mực. Đây là chuyên niệm tương tục được ngài Đàm Loan đặc biệt xem trọng, và lấy đây làm điều then chốt để thành tựu tịnh nghiệp.

Tiết 5: Luận về tịnh độ Di-đà

Thời ngài Đàm Loan đối với thuyết phân loại Tịnh Độ, hình như còn chưa phân biệt rõ ràng, nhưng y theo Vãng sinh luậnĐại trí độ luận cho rằng Tịnh Độ Di-đà vượt qua khỏi ba cõi. Trong Lược luận An Lạc tịnh độ nghĩa có nêu nước An Lạc nhưng chẳng thuộc trong ba cõi. Luận Đại trí độ cũng có nói Tịnh Độ chẳng thuộc ba cõi. Vì sao? Vì Tịnh Độ không có tham dục nên chẳng phải Dục giới; vì là địa cư nên chẳng thuộc Sắc giới; vì có hình sắc nên chẳng thuộc Vô sắc giới. Lại nữa, Vãng sinh luận chú quyển thượng, khi giải thích câu kệ “Thắng quá tam giới đạo”, ngài Đàm Loan nói: “Xưa sở dĩ Phật nói lên công đức thanh tịnh trang nghiêm này, vì ngài thấy ba cõi là tướng hư ngụy, là tướng luân chuyển, là tướng vô cùng, như con sâu đo tuần hoàn, như con tằm tự ràng buộc mình. Than ôi! Chúng sinh ở trong ba cõi này, điên đảo bất tịnh, Đức Phật vì muốn đặt chúng sinh ở chỗ không hư ngụy, chỗ không luân chuyển, chỗ không cùng tận, được ở chỗ rốt ráo an lạc thanh tịnh, cho nên nói ra công đức trang nghiêm thanh tịnh này”.

 

Lại nữa, khi Đàm Loan nói đến vấn đề thân Phật Di-đà là báo thân hay là ứng thân, thì trong Vãng sinh luận chú, ngài nêu lên bồ-tát Pháp Tạng ở chỗ Đức Phật Thế Tự Tại Vương chứng ngộ Vô sinh pháp nhẫn, giai vị này gọi là chủng tính Phật. Ở trong tính này, bồ-tát Pháp Tạng phát bốn mươi tám đại nguyện, mà tu hạnh trang nghiêm tịnh độ tức là tịnh độ An Lạc. Vì thế, cõi này là nhân sở đắc của Ngài. Vì trong quả nói nhân cho nên gọi là tính. Lược luận An Lạc tịnh độ nghĩa cũng nói đến bồ-tát Pháp Tạng ở trước Đức Phật Thế Tự Tại Vương phát hoằng thệ nguyện, để nhiếp thủ sự trang nghiêm thanh tịnh quốc độ của chư Phật, và đã vô lượng a-tăng-kỳ kiếp phát nguyện tu các ba-la-mật-đa để trang nghiêm vạn thiện được thành tựu viên mãn, rồi chứng đắc Phật đạo vô thượng. Đây tức là do biệt nghiệp mà được, cho nên tịnh độ chẳng thuộc ba cõi, ba thân đầy đủ. Do đây không cần hoài nghi Đức Phật kia không phải là báo thân Phật, tịnh độ Tây phương không phải báo độ. Ở trong Quán kinh nghĩa sớ của Cát Tạng có ghi: “Địa luận sư phương Bắc nói rằng tịnh độ Di-đà chẳng thuộc ba cõi. Lại nữa, khi bồ-tát Pháp Tạng đã chứng địa vị bát địa trở lên, là pháp thân đại sĩ, nên tịnh độ mà ngài trang nghiêm là Thật báo trang nghiêm độ v.v…”. Điều này chỉ cho thuyết của ngài Đàm Loan.

Ngài Đàm Loan lại dẫn kinh Vô Lượng Thọ, kinh A-di-đà nói: “Tịnh độ Di-đà có vô lượng vô số chúng Thanh văn” và Vãng sinh luận có ghi: “Chủng tính nhị thừa không sinh”. Hai thuyết này trái nhau, nếu dùng cả hai nghĩa bổ sung cho nhau thì sẽ được dung thông. Hai nghĩa này:

1, Đời ngũ trược, Thích Tôn nơi một phương tiện nói thành ba, Tịnh Độ không có ngũ trược, nên không có sự phân biệt nhị thừa thì Tây phương tịnh độ không có hàng nhị thừa. Kinh Vô Lượng Thọ v.v… nói: có hàng Thanh văn là chỉ cho A-la-hán, thật sự chẳng phải người Thanh văn thừa. Vì A-la-hán đều đã đoạn hoặc, không còn thụ sinh trong ba cõi, nhưng họ chưa được giải thoát hoàn toàn, không cầu vãng sinh tịnh độ ở ngoài ba cõi mà lại cầu đại đạo vô thượng, do đó, trong kinh vẫn gọi là Thanh văn, không hề có sai lầm.

2. Chủng tính Tiểu thừa không được sinh ở tịnh độ ấy, cho nên nói “Chủng tính nhị thừa không sinh”. Ví như ở vùng Giang Bắc tuyệt đối không có cây quýt, mà trong cửa hàng trái cây ở Hà Bắc, Lạc Dương có thể mua được trái quýt. Cũng vậy, trong cõi An Lạc không sinh chủng tính nhị thừa, nhưng không từ chối bậc Thanh văn sinh cõi ấy. Vì thế, nói trong tịnh độThanh văn cư trú. Vấn đề này, đời sau ngài Thiện Đạo v.v… nghiên cứuthảo luận, phần nhiều y theo thuyết sau để giải thích thật sự trong tịnh độ ấy có Thanh văn. Nhưng theo ý của Thế Thân, cõi ấy thuần là chúng Bồ-tát, mà không có chúng nhị thừa.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14433)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14144)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39712)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15313)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13881)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13928)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37331)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40060)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14640)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14311)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12656)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14830)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19214)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13796)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42625)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13831)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37258)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12674)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11760)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22545)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12510)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12571)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13062)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13112)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17267)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33245)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14835)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11047)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12454)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11958)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11935)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13131)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51262)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12381)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6615)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30411)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13124)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13330)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30680)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19363)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12478)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11842)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14763)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13193)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13195)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30683)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12041)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11837)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12726)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31900)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29413)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11782)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11748)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10424)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11562)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9641)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9658)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9989)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35400)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10148)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10097)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10046)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9658)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27802)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15496)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9851)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13681)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9844)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9692)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18320)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12044)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9571)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9693)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8712)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8914)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8417)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11481)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31733)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12334)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13319)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8828)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9442)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11938)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9226)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9073)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9667)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29360)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9076)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9102)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33244)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8431)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30606)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31225)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37120)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32254)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9930)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27096)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8449)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19237)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 13012)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant