Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 04: Tông Khách BaTư Tưởng Phật Học

21 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 10310)
Chương 04: Tông Khách Ba Và Tư Tưởng Phật Học

LỊCH SỬ PHẬT GIÁO TÂY TẠNG

Pháp sư Thánh Nghiêm - Việt dịch: Thích Tâm Trí


CHƯƠNG IV. 

Tông Khách BaTư Tưởng Phật Học

Tiết 1: Bình sinh của Tông Khách Ba

Niên đại về Tông Khách Ba từ lúc chào đời đến khi tìm sư học đạo cũng có nhiều thuyết. Có thuyết nói ông sinh vào năm Vĩnh Lạc thứ mười lăm (1417), đời Minh Thánh Tổ. Thuyết khác thì nói đó là năm Tông Khách Ba (Tson – Kha-pa) viên tịch. Thuyết khác lại nói, ông sinh vào đời vua Nguyên Thuận Đế năm Chí Chính thứ mười bảy (1357), và tịch năm Vĩnh Lạc thứ mười bảy (1419). Có thuyết cho là ông sinh năm Chí Chính thứ mười ba (1353). Tóm lại, ông là vị Đại sư hoạt động Phật sự ở vào niên đại Vĩnh Lạc nhà Minh.

Tông Khách Ba sinh ở huyện Hoàng Trung (một huyện phụ cận Tây Ninh) thuộc tỉnh Thanh Hải. Ông thuộc tộc người An Đa ở địa phương Tông Khách Ba. Tên chính của ông là La Tang Trát Ba (Blo-bgan grags pa). Đời sau vì kính mộ ông, người ta lấy tên làng quê ông để xưng hô và gọi ông là Tông Khách Ba. Song thân ông hơi nghèo, tài sản chỉ có hai mươi con bò và một số ít con dê. Truyền thuyết kể rằng mẹ ông lúc đang tắm dưới sông bỗng cảm thấy trong người khó chịu khiến bà hôn mê và ngã nằm trên một khối đá lớn, bên trên khối đá có khắc kệ tán đức Thích Tôn; đại ý nói chẳng lâu sau bà sẽ sinh hạ Tông Khách Ba. Khi vừa chào đời ông đã có râu trắng, và dung mạo trang nghiêm, cử chỉ khác thường không như các đồng ấu cùng lứa. Ông ít nói nhưng nói ra lời nào cũng hàm chứa trí tuệ sâu xa. Nhân đó có truyền thuyết kể rằng ông xuất gia lúc vừa lên ba. Buổi đầu ông theo học với các vị cao tăng Tây Tạng và họ rất chú trọng việc giáo dục ông. Thuyết khác thì nói ông xuất gia năm lên bảy tuổi, thuyết nữa thì cho rằng ông xuất gia năm mười bốn tuổi; lại có thuyết nói năm mười bảy tuổi ông đến trung tâm văn hóa của Tây Tạng tại Lạp Tát, tại đây ông học Cu Xá, Bát Nhã, Duy-Thức, Nhân Minh, và giới luật của Hiển giáo, ông cũng học về Mật giáo với các học giả Phật giáo đã thành danh cả về tài đức..

Tông Khách Ba cũng từng theo học với vị tổ đời thứ năm của phái Già Nhĩ Mã. Ông cũng từng là môn hạ của Nam Già Khâu Tông (Nam-Mkạh rgyal-mtshen) ở Bất Đan gần La Trát (Lho-brag). Tại đây có vị tăng chủ Khâu Kết Tang Ba (Chos-skyeb bzan-pa) là hậu truyền thứ bảy mươi tám của Đông Đốn, là người chính thức kế thừa mạng mạch phái Cam Đan. Có thuyết lại nói Tông Khách Ba năm mười bốn tuổi xuất gia tại chùa Tát Già ở Trát Thập Luân Bố. Thực tế thì Tông Khách Ba là người kế thừa phái Cam-Đan một cách chính thống, sau đó ông tiếp nhận phái Già Cử, và sau cùng là học thuyết của Đông Đốn thuộc phái Đồ Phổ. Ông được coi là người sáng lập phái Tân Cam Đan. Đương nhiên học vấn của Tông Khách Ba bao quát toàn bộ nền Phật học Tây Tạng. Do đó, không thể đem nguồn gốc của bất kỳ một tông phái nào để hạn cuộc hoặc vây ông lại được.

Chẳng qua là vì thời đại của Tông Khách Ba giữa tôn giáo và chính trị có sự hỗn tạp; Tăng nhân không chỉ cưới vợ, sinh con, mà còn dùng con làm người kế thừa Pháp tự, do vậy mà Hiển giáo không được coi trọng, giới luật dường như bị bỏ phế, trong khi Tăng nhân thì tranh nhau dùng thuật của Mật pháp làm mê hoặc tín đồ như: nuốt đao, phun lửa, lấp biển dời non, họ hám danh hám lợi lừa dối đủ điều làm cho đạo đức tan hoang, phong giáo bại hoại. Tông Khách Ba thấy rất rõ điều đó nên ông tuy là người xuất thân từ Hồng giáo, nhưng ông không chấp nhận những việc làm có tính đồi bại của Tăng nhân Hồng giáo. Ông cho rằng những việc làm đồi bại như vậy tuyệt nhiên không đem lại phúc lợi gì cho chúng sanh. Ông cũng dùng những thuật của Mật pháp tương tự, nhưng chỉ để trợ đạo, bởi theo ông, đạo là gốc ở tâm, nếu tâm đạo không vững thì thuật sẽ không có chỗ dựa.

Những huyễn pháp như nuốt đao phun lửa, cho đến việc tạo quang ảnh giữa trời phải vì ứng cơ mới dùng, còn cho chính mình thì không bao giờ dùng tới. Theo ông, nếu bỏ mất tâm Bồ đề để chuyên vào chú thuật, thì thế đạo nhân tâm, cũng như việc tự độ, độ tha không chỉ là vô ích mà còn gây nên tai hại khôn lường. Chính vì thế mà ông lập chí cải cách Phật giáo Tây Tạngcuối cùng ông thành công. Các nhà sử học ví ông là Mã Ninh Lộ Đức của Tây Tạng. Thực thì so sánh như vậy là không đúng. Mã Ninh Lộ Đức là người làm cách mạng Cơ Đốc giáo, đó là biến các giáo sĩ độc thân thành những Mục sư công khai cưới vợ, sinh con. Trong khi Tông Khách Ba là người cải cách Phật giáo, ấy là đem các Lạt ma đã bị thế tục hóa trở về lại đời sống của Tỳ Kheo có đầy đủ phạm hạnh thanh tịnh. Việc làm của hai người là hoàn toàn tương phản.

Cuộc vận động cải cách:

Trong thời gian phỏng sư tham học, Tông Khách Ba cũng có giai đoạn ẩn tu trong núi Đại Tuyết- nơi quanh năm không có dấu chân người, tại đây ông tu đại khổ hạnh mà ngay cả cha mẹ cũng không thể gặp. Sau đó ông ra khỏi núi và đi đến Lạp Tát, tại Lạp Tát ông khởi sự công cuộc vận động “Hoằng pháp hưng giáo”.

 Tông Khách Ba là bậc chân tu, thực học nên chẳng bao lâu sau khi xuất sơn; ông trở thành người nổi danh khắp các địa khu Tạng thổ. Do đó, đệ tử khắp xứ Tây Tạng đều kính mộ và quần tụ về cầu học có hơn nghìn người. Do quá nhiệt tâm đề xướng cải cách mà giữa ông với Cựu phái có sự va chạm, vì giáo đoàn của ông ngày một lớn mạnh gây sự chú ý sâu sắc đến vị Đại Lạt Ma của phái Tát Già. Truyền rằng: Đại Lạt Ma muốn biết chủ trương cải cách của Tông Khách Ba có áo nghĩa gì mới, vì vậy ông đặc biệt cho mời Tông Khách Ba đến để đàm luận. Tông Khách Ba từ chối lời mời, cuối cùng Đại Lạt Ma phải đích thân đến gặp ông, hy vọng với uy quyền của mình, Đại Lạt Ma sẽ khiến Tông Khách Ba quy hướng.

Cứ ngỡ cuộc hội kiến sẽ diễn ra thuận lợi, sự thực không phải vậy; biết Tông Khách Ba là người đức cao trọng vọng nên Đại Lạt Ma bày ra nghi trượng rất long trọng rồi dùng nghi trượng này đi một mạch đến tăng phòng của Tông Khách Ba; điều bất ngờ là khi vừa đến nơi thì cái hồng mão ông đang đội thình lình rơi xuống đất. Đó là điềm báo trước ông sẽ thất bại.

Bấy giờ Tông Khách Ba đang ngồi kiết già trên Bồ đoàn bằng lông chiên, tay cầm niệm châu, chẳng lý gì đến nghi trượng long trọng của Đại Lạt Ma, và cũng không năng nói gì, hồi lâu không còn đủ kiên nhẫn, Đại Lạt Ma bèn mở lời. Trong lối nói, ngụ ý Đại Lạt Ma muốn chứng minh giáo nghĩa của Cựu phái ưu việt hơn phái Cách Tân. Dù vậy, Tông Khách Ba vẫn giữ im lặng không đáp lại sự biện luận của Đại Lạt Ma. Bỗng nhiên ông thét to làm gián đoạn lời biện luận chưa dứt của Đại Lạt Ma, và hướng về Đại Lạt Ma mà rằng: “Ngài quả là người ăn nói không ngôn, làm mê hoặc đồ chúng. Ngài chỉ biết dùng tay giết rận, nghe đến tên ngài là tôi phiền khổ và đó là nguyên nhân tôi cảm thấy thương ngài”.

Nguyên do là trong lúc đàm thoại, Đại Lạt Ma một tay thì bắt rận còn tay kia thì giết, quên rằng giới sát là trọng giới của Phật đà, vì thế khiến Đại Lạt Ma cả kinh, không biết ứng đối thế nào bèn đến trước Tông Khách Ba bái phục và thừa nhận Tông Khách Ba ưu việt hơn. Từ đó về sau sự nghiệp cải cách của Tông Khách Ba không còn gặp trở ngại, đồng thời cuộc cải cách cũng mau chóng lan truyền khắp xứ Tây Tạng.

Chỉ mỗi truyền thuyết trên đủ để chúng ta kính phục tông phong cải cách của Tông Khách Ba, đồng thời giúp chúng ta hiểu rõ phong cách tôn trọng lý tính của Phật giáo Tây Tạng. Đúng là “Nhất đán lý khuất, cam bái hạ phong”.

Cải cách-thành tựu:

Sau cải cách, Tăng đoàn của Tông Khách Ba luôn tuân theo một bộ luật rất nổi tiếng, và tăng chúng sử dụng y mão đều là màu vàng. Tại Ấn Độ, Tỳ kheo chỉ có y không có mão, tuy trong luật có quy định ở xứ lạnh Tỳ kheo được đội mão. Hình thức tăng-mão của Tây Tạng có thuyết nói đó là phỏng theo mão đen của Bổng giáo sư. Vấn đề mão đội có quan hệ với Thần mão của Vu sư thuộc Tát Mãn giáo. Trong thời cận đại có người lấy mão cao nhọn của Lạt ma Tây Tạng sánh với mão có chóp cao của vị giáo chủ Thiên Chúa giáo và cho rằng Lạt ma Tây Tạng chịu ảnh hưởng Thiên Chúa giáo La Mã. Thực thì cả Thiên Chúa giáo lẫn Lạt ma Tây Tạng đều chịu ảnh hưởng của Tát Mãn giáo, vì Thần mão là sản vật tôn giáo của dân du mục.

Màu vàng không phải do đức Thế Tôn chế định khi Ngài còn tại thế, thuần màu hồng cũng không phải là y dùng hằng ngày. Nguyên lai sự việc bắt nguồn từ vua Thế Tổ nhà Nguyên ban Ca-sa màu hồng cho pháp sư khi giảng kinh mà ra, từ đó Hán tăng sử dụng Đại Hồng Tổ Y. Đến đời nhà Minh lại quy định “Thiền tăng y vàng, Giảng kinh tăng y hồng, Du Già tăng y thông bạch”. Nhà Minh trọng thiền học nên chuộng màu vàng, cũng do chuộng màu vàng mà vua Thái tổ nhà Minh ban cho pháp sư Đạo Tổ “Kim Lũ Tăng Ca Sa”. Còn Thành Tổ thì ban cho thiền sư Tuyết Hiên “Kim Lan Y” (xem Thích Thị Khuê Cổ Lược Tục Tập).

Triều Nguyên chuộng màu hồng, triều Minh chuộng màu vàng, Tông Khách Ba của Tây Tạng hoạt động Phật sự dưới thời triều Minh. Hơn nữa ông là người chủ trương tu học một cách thực tế, bài xích sự huyễn hoặc phù ngoa, ông nhận thấy triều Minh chuộng màu vàng của Thiền tăng cũng là điều thích nghi. Đồng thời Phật giáo Nam truyền cũng dùng màu vàng cam. Các dẫn chứng trên cho thấy truyền thuyết về việc Tông Khách Ba lộn ngược cái mão từ trong ra ngoài để đội, hoặc việc ông nhuộm y không màu nào thành công ngoài màu vàng toàn là chuyện khó tin.

Tăng lữ Lạt ma trước thời Tông Khách Ba chuyên theo đuổi thuật biến hóa, người người đều vậy. Nhờ cuốn “Mật Lạc Nhật Ba Tôn Giả Truyện” mà biết được trong giới Tăng lữ Lạt ma không ít người đã từng “phóng chú sát nhân”, đuổi quỷ trị tà và biến hóa ra mưa đá. Tông Khách Ba tuyệt đối cấm chỉ các thứ dị môn thuật số như nuốt đao phun lửa… vì theo ông chúng chỉ làm thương thân, hại vật chứ chẳng ích gì cho việc tu chứng, giải thóat.

Về phương diện giáo hóa, Tông Khách Ba và các đại đệ tử của ông luôn sử dụng phương pháp hòa bình để dẫn dắt quần chúng quy tín Tam Bảo, như thân giáo, ngôn thuyết và luận biện. Tông Khách Ba và những tăng lữ thọ học với ông đều là những người cẩn trọng nghiêm trì giới luật của Tỳ kheo một cách thanh tịnh. Riêng việc nghiêm trì giới luật một cách thanh tịnh của Tân phái cải cách đã là cao thượng hơn hẳn các Lạt ma cưới vợ, sinh con, uống rượu, ăn thịt của Cựu phái, chưa kể Tông Khách Ba và các học lữ của ông đều là những người có tri thức Phật học uyên bác, tinh thông Hiển giáo, am tường Ngũ minh, thấu rõ áo nghĩa Mật thừa. Do đó, về nhiều phương diện Cựu phái không thể sánh kịp.

Người dân Tây Tạng tin một cách chắc mẩm rằng Tông Khách Bahóa thân của Văn Thù Bồ Tát. Do đó, không phải ngẫu nhiên mà hình thành đạo tràng Văn Thù ở Ngũ Đà Sơn của Trung Quốc-Thánh địa của Hoàng giáo. Lại nữa, có người tin Tông Khách Ba là do Phật A Di Đà hoặc Kim Cang Thủ hóa thân. Có lẽ do sự ứng hóa linh hoạt của ông khiến nhân sĩ các phái Cam Đan đa số đều quy hướng về. Có thuyết nói Đại Tập Hội lần thứ nhất có hơn 12.000 vị Lạt ma của Hoàng y tham dự, cũng từ đó Hoàng giáo lấy ngày rằm tháng giêng hằng năm để triệu tập đại hội.

Lúc tuổi về già, Tông Khách Basáng lập chùa Cát Lặc Đan (Dgah-Idanman-par rgyal-ba) ở dãy núi cách Lạp Tát khoảng ba mươi dặm Anh về hướng đông–đông bắc, và tổ chức đại hội tăng đoàn tại nơi này. Ý của ba chữ Cát Lặc Đan có nghĩa là Đâu Suất Thiên. Người Phật tử Tây Tạng tin A Để Hạp là người ở cung trời Đâu Suất, nên họ cầu vãng sinh về Đâu Suất Thiên nhiều hơn là cầu vãng sinh về cõi Tịnh độ của Phật A Di Đà.

Về sau do chuyển âm mà tên chùa là Cát Lặc Đan thành tên học phái là Cách Lỗ Ba. Ý của các học giả chùa Cát Lặc Đan là ở chỗ đọc âm. Khi đọc ba âm Cách Lỗ Ba có hàm ý là “người phụng trì giới luật”, cũng có thể dịch Cách Lỗ phái là Đức Hạnh phái. Nguyên nhân Tông Khách Ba là người tuân thủ hai trăm ba mươi lăm giới điều của Tỳ kheo một cách nghiêm mật. Theo luật của Nhất Thiết Hữu Bộ thì Tỳ kheo không cưới vợ, không ăn thịt, uống rượu. Luật nầy chế định Tỳ kheo phải có đủ các thứ như: Bình bát, tọa cụ, đại y (Ngoại Sáo Zla-gam), Cà sa màu vàng, mão vàng. Chỉ có mão cao nhọn là phỏng theo Bổng giáo Tây Tạng, các thứ còn lại đều tuân theo Ấn Độ cổ chế.

Năm Vĩnh Lạc mười hai (1414), đệ tử của Tông Khách Ba là Liễm Dạng kiến tạo chùa Triết Phong cách Lạp Tát khoảng ba dặm Anh về phía tây. Một cao đệ khác của ông là Liễm Khâm, năm Vĩnh Lạc mười lăm (1417) kiến lập chùa Sắc Lạp (Se ra) cách Lạp Tát khoảng ba dặm Anh về phía bắc, còn có một đại đệ tử của ông là Căn Đông Châu Ba (sau trở thành Đạt Lai) dựng chùa Trát Thập Luân Bố ở Nhật Khách Tắc. Chùa này hiệp với ba ngôi chùa vừa nêu mà thành bốn ngôi đại tự viện của phái Lỗ Cách. Những đệ tử trứ danh của ông còn có Tiếp Tráp Khải Châu (sau trở thành Ban Thiền). Cấp Lặc Bôi Tang, Bội Đan Dã, Thích Ca Dã, Đạt Nhĩ Ma Nhân Liễm…

Tông Khách Ba là bậc “đại tu hành giả” của Phật giáo, cũng là nhà đại nghiên cứu Phật học; từ cổ chí kim ông là người “đệ nhất tập đại thành” của Phật học Tây Tạng. Ông trước tác hết sức phong phú. Toàn tập của ông có đến mười tám pho với sáu trăm mười sáu bộ. Hiện nay ở Đông Dương văn khố của Nhật Bản còn lưu giữ đầy đủ toàn tập này của ông. Trong số đó có hai bộ đại biểu cho tư tưởng trung tâm của Tông Khách Ba, đó là bộ “Bồ Đề Đạo Thứ Đệ” (Lam rim chen po, còn có tên là Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Luận) và bộ “Chơn Ngôn Đạo Thứ Đệ” (Griags-rim chen-po). Hai bộ này đều có quảng luận và lược luận; “Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Quảng Luận” (rút gọn là Quảng Luận). Gần đây pháp sư Pháp Tôn đã dịch bộ Quảng Luận ra Hán văn, đồng thời ông cũng dịch và chú thích bộ “Chơn Ngôn Đạo Thức Đệ” và đặc tên là “Mật Tông Đạo Thứ Đệ”. Bộ “Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Lược Luận” (rút gọn là Lược Luận), được pháp sư Đại Dũng dịch ra Hán văn. Xin căn cứ vào hai bộ luận đã được dịch, và tham khảo bộ “Tây Tạng Phật Giáo Nguyên Luận” (từ trang 63 đến trang 71), lấy đó làm tư liệu để giới thiệu tư tưởng Phật học của Tông Khách Ba.
 
 

TIẾT II
Tư tưởng Phật học của Tông Khách Ba

- BỒ ĐỀ ĐẠO THỨ ĐỆ LUẬN

Tác phẩm Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Luận mà nội dung của nó là học thuyết tinh yếu của Tông Khách Ba, hiện vẫn còn, và được chia ra thành hai bộ: Quảng Luận và Lược Luận, bộ Lược Luận có sáu quyển, bộ Quảng Luận có hai mươi bốn quyển. Chủ đích là nhằm thuyết minh uyên nguyên học thuyết của Tông Khách Ba, cũng như đề cập những điều cần có khi một vị pháp sư thuyết pháp, và các điều kiện dành cho người cầu học giáo pháp. Kế đó là xiển minh về Hạ Sĩ đạo, Trung Sĩ đạo và bất cộng Thượng Sĩ đạo. Cả hai bộ Quảng Luận và Lược Luận, về mặt văn tự tuy nhiều, ít có khác nhau nhưng về ý nghĩa thì không khác, tiếp đến là nói về Chỉ và Quán. Quyển một và quyển sáu của bộ Lược Luận đề cập đến một bộ phận của Chỉ và Quán. Nhưng bộ Quảng Luận thì sử dụng đến ba quyển để luận về Chỉ, tám quyển để luận về Quán. Về tu Chỉ thì dựa vào Du Già, về tu Quán thì y cứ vào Trung Quán để tường thuật học thuyết của các nhà; tùy vào hoặc “thâm” hoặc “quảng” mà quyết trạchliễu nghĩa hay bất liễu nghĩa của các nhà. Tựu trung là đưa ra phương pháp để tu Chỉ và tu Quán. Về phương diện này, Quảng Luận là đặc sắc hơn cả.

Hiện nay nhà xuất bản Tân Văn Phong ở Đài Bắc có in bộ Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Luận và đã cho lưu thông. Đây là một bộ sách rất có giá trị đối với giới nghiên cứu và người tu hành. Văn nghĩa bộ Quảng Luận quá “thậm thâm” không phải ai cũng có thể lĩnh hội được. Do đó, bộ này chưa được lưu hành. Nhưng theo chỗ tôi (Thánh Nghiêm) biết thì hiện ở Đài Loan có đủ cả hai bộ. Theo cư sĩ Khuất Văn Lục, thì nên đưa hai bộ Lược Luận và Quảng Luận vào Tục Tạng Kinh (của Trung Quốc).

Đương nhiên những cao đệ của Tông Khách Ba không chỉ học những gì do ông trước thuật, bởi những trước thuật của ông nhằm giúp người xuất gia tu học theo một trình tự từ nông đến sâu; trong khi môn hạ thuộc phái Cách Lỗ của ông phải tuân theo một lịch trình tu học Phật pháp hết sức nghiêm chỉnh, lâu dài và rất là phi thường. Pháp môn dành cho người mới nhập đạo là phải thọ giới Ưu Bà Tắc, tiếp theo là thọ Sa Di giới, cùng lúc phải học kinh điển, am hiểu cách tụng kệ tụng, tiếp đến là học “Nhân Minh Thích Luận” của Pháp Xứng, sau đó học “Hiện Quán Trang Nghiêm Luận Sớ” của Sư Tử Hiền, thứ nữa là học Duy Thức Tam Thập Tụng của Thế Thân, qua bộ “Thích Luận” của An HuệLuật Thiên. Kế tiếp là học “Bát Nhã” “Trung Quán Luận” của Long Thọ, qua bộ “Nhập Trung Luận” của Nguyệt-Xứng, rồi học Luật của Nhất Thiết Hữu Bộ, sau cùng là học Cu Xá Luận của Thế Thân. Đến đây được coi như đã hoàn tất việc tu học Hiển giáo. Về Mật giáo, người tu phải theo thứ tự của A Để Hạp thuộc phái Cam Đantu học Mật thừa.

Nhân vì, khi Tông Khách Ba ra đời thì Phật giáo Tây Tạng không còn coi trọng quỹ phạm tu học của A Để Hạp. Tăng chúng tranh nhau tu Mật, với hy vọng mau chóng thành tựu các “dị thuật”. Do đó, Tông Khách Ba mới khởi xướng người tu Mật, trước phải tu học Hiển giáo, lấy Hiển giáo làm cơ sở. Ai phát tâm muốn chấn hưng Phật giáo, phải lấy việc thanh tịnh giới làm căn bản. Muốn vậy phải tu theo trình tự từ giới Sa Di đến giới Tỳ Kheo, giới Bồ Tát, cuối cùng mới là giới Kim Cang. Vì rằng: “Không chỉ tinh tấn dũng mãnh khi đang cầu thọ giới pháp, mà sau khi đã thọ giớiđắc giới, mỗi người tùy theo chỗ tu hành sao cho chung cuộc không phạm giới đã thọ. Nếu phạm giới đã thọ, thì hãy mau y cứ vào “Hoàn tịnh nghi quỹ” để tiêu trừ tội chướng để được trở lại “thanh tịnh” Lược luận – quyển 1, trang 7); không như một số người ngộ nhận rằng tu Mật chỉ cần thọ Kim Cang giới là đủ, không cần thiết phải thọ giới Tỳ kheo, vì Tỳ kheo giới chế định quá nhiều ràng buộc. Thực ra Kim Cang giới là giới tối thượng nên không thể không thọ, nhưng không vì thế mà phá hủy Tỳ kheo tịnh giới.
Do đó mới nói rõ: “Nếu không thủ hộ tam muội daluật nghi, mà bảo đó là người tu theo đạo giải thoát, người tu như vậy đối với Mật pháp, là người rong chơi bên ngoài” (Lược luận – quyền 6, trang 410).

Tác phẩm Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Luận của Tông Khách Ba chủ yếu là dựa vào Hiện Quán Trang Nghiêm Luận của Di-Lặc. Ông cũng y cứ vào Bồ Đề Đạo Đăng Luận của A Để Hạp. Vì vậy, những luận giải của Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Luận đa phần đồng nhất với Bồ Đề Đạo Đăng Luận. Khác chăng là Bồ Đề Đạo Đăng Luận đặc biệt tường minh Đại thừa, trong khi Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Luận thì giải thông cả phàm phu lẫn Tiểu thừa, đồng thời lấy cái học của Hạ sĩTrung sĩ thích ứng và cùng học với Thượng sĩ. Do đó, theo Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Luận không một pháp đại thừa nào là không khái quát các thiện pháp của phàm phunhị thừa. Vì vậy, Tam quyThập thiện là cái học cho cả đại thừa, nhị thừaphàm phu (Hạ sĩ). Pháp Tứ Thánh Đế là cái học của Đại thừaTrung sĩ (hàng Nhị thừa) đã phát vô thượng tâm. Với hạng đã phát vô thượng tâm, rộng hành lục độ, thì đấy là bậc Thượng sĩ (Đại thừa Bồ Tát), có những việc làm mà hàng nhị thừa không thể có được (bất cộng).

Tư tưởng này được lấy từ “Hiện Quán Trang Nghiêm Luận”. Để khái quát toàn bộ Luận, là lấy ba Nhất Thiết Trí làm Bát Nhã Trí. Tam Trí được phân thành tám nghĩa khái quát toàn bộ Bát Nhã kinh. Nói Tam Trí, là lấy Nhất Thiết Trí cộng với Thanh Văn (Nhị thừa) trí, Đạo-trí cộng với Bồ Tát trí, Nhất thiết chủng tríNhư Lai bất cộng trí (Nhị thừaBồ Tát không cùng có trí
này nên gọi là bất cộng). Trong Tam trí, thì Đạo trí của Bồ Tát dưới thông với Nhị thừa, trên tiếp cận được Phật đạo. Trong kinh Đại Bát Nhã, quyển 462 nói: “Chư Bồ Tát ma ha tát nên biết đầy đủ tất cả đạo tướng, đó là Độc giác đạo tướng, Bồ Tát đạo tướng và Như Lai đạo tướng” (“Đại Chánh Tạng” 7, trang 337).

Luận- nói về Bồ Tát đạo, thì giữa Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Luận với Bồ Đề Đạo Đăng Luận cũng có ít nhiều sự không đồng nhất. Bồ Đề Đạo Đăng Luận thì lấy tam học Giới – Định – Huệ làm phần tế, trong khi Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Luận thì lấy Lục Độ làm thống nhiếp, và đem tam học Giới – Định – Huệ dung hợp vào Lục độ. Bồ Đề Đạo Đăng Luận chủ trương dùng Giới – Định – Huệ làm nhân lợi tha, lấy việc phát sinh thần thông, và phước huệ song tu làm quả lợi tha. Về điểm này, Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Luận sau khi luận khái quát về Lục độTứ nhiếp pháp, lại đặc biệt xiển minh việc tu tập Chỉ–Quán, đồng thời giải rõ những gì mà Bồ Đề Đạo Đăng Luận chưa nói đến. Điều đó cho thấy chỗ lập thuyết hết sức tinh tế của Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Luận.

Tu Chỉ Và Tu Quán:
Như trước đã đề cập, bộ Quảng Luận có nói đến việc tu Chỉ và tu Quán. Bộ Luận này dựa vào luận Du Già để giải thích về Chỉ, dựa vào luận Trung Quán để giải thích về Quán. Theo Lược Luận quyển một (trang 60), thì tu Quán là dùng huệ phân biệt để quan sát; tu Chỉ là dùng tâm chuyên nhất an trụ vô phân biệt. Vậy, bằng cách nào để tu Quán? Bằng cách cách nào để tu Chỉ? Đáp: đối với thiện tri thức, tu hành là do tín tâm muốn biểu đạt nghĩa lý thâm diệu nhưng không thành, thì nên nghĩ đến sinh tửvô thường, nghĩ đến nghiệp quả là không sai khác, nghĩ đến lưu chuyển trong các hoạn là do sai lầmphát Bồ đề tâm, thì nên tu Quán. Với người mà tâm không thể trụ vào cảnh sở duyên, khi muốn tâm được yên tĩnh, an trụ vẫn không thể được, thì cần tu Chỉ.

Với những người “hạ mãn đại nghĩa”, tức những người học Phật không bị chướng nạn, nhờ thế mà việc học Phật có thanh thản hơn. Đó là hạng người đầy đủ căn khí học Phật, lại thêm có sự trợ duyên tốt lành của thiện hữu tri thức. Người học Phật được như vậy gọi là điều kiện viên mãn, hay còn gọi là “hạ mãn đại nghĩa”

Lại nữa, Lược Luận quyển sáu (trang 357) nói: “Người tu Chỉ, là người trụ vào chính tâm mình, khi tâm đã trụ phải khéo tư duy các pháp. Khi tác ý tư duy, hãy để sự tác ý ấy tương tục nơi tự tâm. Cứ thế mà chánh tư duy thì tâm sẽ an trụ lâu dài, gọi đó là tu” Chỉ”. Lại nói: “Như khi có được Thắng-tam-ma-địa (định), thì cảnh tượng sở duyênnghĩa lý sở tri phải năng chánh tư trạch” (sự tư duy đúng với chánh pháp). Tư trạch tối hậu phải “Chu biến tầm tư, chu biến từ sát”, nếu là nhẫn, là lạc, là giác, là kiến, là quán, đều gọi chung là Quán”.
Như vậy, “Chỉ” là buộc tâm vào nhất niệm một cách tương tục trong an trụ. Còn “Quán” là tâm ta đối với ảnh tượng của các pháp phải luôn tư trạch quán sát.

Chỉ và Quán đều là phương tiện trước lúc tu Định, nhờ Chỉ và Quán mới nhập được Định. Lúc mới khởi tu, thì Chỉ và Quán là hai phương pháp hỗ trợ nhau; lúc đã tu thành, thì Chỉ và Quán thực sự không khác nhau. Vì vậy, lúc mới tu nên vận dụng cả Chỉ và Quán, tu một thời gian sau, khi có kết quả, mới tiến đến Chỉ-Quán song vận, và rồi sẽ đạt đến bình đẳng nhất như.
Lược Luận (quyển một, trang 61) nói: “Hoặc vì có người không hiểu đạo lý Chỉ-Quán song vận, nên cho rằng người có trí thông tuệ thì tu Quán, người có tư tưởng luôn bị dao động thì tu Chỉ. Hai cách giải trên không đúng, vì cả hai hạng người trên đều có thể “Chỉ Quán song tu” được cả.

Cũng Lược Luận (quyển 6, trang 401) lại nói: “Nếu người tu buổi đầu không tu tập Chỉ–Quán, thì sau sẽ không tu được Chỉ-Quán song vận, cho nên muốn tu Chỉ–Quán song vận, trước tiên phải tu đắc Chỉ–Quán. Ở đây có nghĩa là buổi đầu phải tu đắc Tỳ Bát Xá Na (Quán) thì cũng tu được Chỉ–Quán song vận. Tức do trước đó người tu tự mình đã tu đắc Xa Ma Tha (Chỉ) rồi nương vào Chỉ mà tu Quán, đến khi do sức quán sát đạt đến “Vô công dụng vận chuyển tác ý” thì cũng đạt được Chỉ Quán song vận”. Ý của hai đoạn văn vừa trích là nói người nào trước đó đã kiêm tu Chỉ Quán, thì sau cũng có thể y vào Chỉ mà tu Quán, nếu tu Quán thành công, thì cũng đạt được Chỉ-Quán song vận. Khi đạt đến Chỉ-Quán song vận cũng là lúc không còn bị hôn trầm, trạo cử gây chướng ngại, đồng thời không phải lúc nào cũng dựa vào công dụng Chỉ-Quán, vì đã đạt đến” vô công dụng vận chuyển tác ý”. Trong bốn tác ý, ở đây là đệ tứ tác ý, tức đã nhập vào cảnh sơ thiền.

Nội dung tu Chỉ

Theo “Tây Tạng Phật giáo Nguyên Luận” trang 64, có đưa vấn đề tu Chỉ ra giới thiệu như sau: “Phàm tư lương tu Chỉ có sáu: nương thuận cảnh, thiểu dục, tri túc, ly đa sở tác, thanh tịnh luật nghi, ly dục đẳng phân biệt. Sáu tư lương này giống với sáu tư lương của Bồ Tát địa. Về tu Chỉ, có chín phương tiện để trụ tâm và tám tưởng đối trị, đó là nói về trình tự tu Chỉ. Có truyền thuyết cho rằng chín phương tiện trụ tâm và tám tưởng đối trị là của Từ-Thị và Vô–Trước.

Sở duyên tối hậu của tu Chỉ là: biến tịnh, tịnh hạnh, thiện xảo và tịnh hoặc, bốn thứ phân biệt này cũng được lấy từ “Thanh Văn Địa” (trước hết nên xem “Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Luận” nguyên bản, từ trang 193 trở lui). Bởi tất cả đều tuân theo Du Già để lập thuyết. Nhưng “Đăng Luận” lại cậy vào Giác Hiền nên có sự khác biệt. Đó là nói về phương pháp tu Chỉ, và uyên nguyên học lý được thuật rõ trong Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Luận. Tất cả đều xuất phát từ học hệ tư tưởng Du Già; chẳng hạn Thanh Văn Địa thuộc về Bổn Sự Phần trong Du Già Sư Địa Luận.
Nay xin giới thiệu danh tướng được nói đến trong bộ Lược Luận:

I. Sáu tư lương tu Chỉ, tức sáu công tác cần chuẩn bị:
1. Nương nhờ thuận cảnh; ở nơi dễ có về ăn mặc, nơi không bị mãnh thú nhiễu hại, nơi không bị oán ma phá phách, nơi không đưa đến bệnh tật, nơi có thiện hữu tri thức trợ giúp, nơi không bị sự huyên náo quấy nhiễu, các điều trên là thuận cảnh để tu Chỉ.
2. Thiểu dục: Không cầu nhiều sự cúng dường, việc ăn mặc được coi như liều thuốc hộ thân.
3. Tri túc: Chỉ cần vừa đủ để nuôi sống thân mạng.
4. Ly đa sở tác: Không kinh doanh mưu lợi, không làm các tạp vụ như kê đơn bốc thuốc, bói toán.v.v… giảm thiểu, nếu có thể hãy đoạn tuyệt hẳn mọi giao tiếp thù tạc.
5. Thanh tịnh luật nghi: Tinh tấn nghiêm tri giới luật đã thọ.
6. Ly dục đẳng phân biệt: Luôn tư duy về những sai lầm của các dục, cùng lý vô thường của đời sống thế gian.

II. Tám tưởng đối trị: Là tám phương pháp quán tưởng để đối trị năm thứ sai lầm. Và được coi như công phu rất có ích cho việc tu Chỉ.
1. Dùng bốn quán tưởng: Tịnh tín, ly cầu, tinh tấn, khinh an để đối trị lại giải đãi trong giai đoạn đầu tu Chỉ.
2. Dùng quán tưởng chánh niệm để đối trị lại sự “quá thất” được chỉ dạy trong Thánh giáo.
3. Dùng quán tưởng chánh tri để đối trị những sai lầm do trạo cử gây ra.
4. Dùng quán tưởng ”tác thành công dụng” để đối trị sai lầm là không “khởi tác hành công dụng”.
5. Dùng xả đối với bất tác hành an trú, đối trị sai lầm của công dụng tác hành.

Ba sai lầm (quá thất) ở phần đầu dễ nhận biết, nhưng quá thất thứ tư, thứ năm thì cần giải thích; ấy là lúc thực hành chánh niệm và chánh tri, tuy hôn trầm, trạo cửsinh khởi, nhưng do không tự biết nên không bị quá thất, nhưng nếu hôn trầm, trạo cử đã sinh khởi, và đã tự biết mà không chịu đoạn trừ, thì đó là một quá thất. Vì vậy mới dùng “quán tưởng tác hành công dụng” để đối trị khuyết điểm vừa nêu. Điều này có ý là khi hôn trầm, trạo cử sinh khởi, lập tức vận dụng nhất niệm để đoạn trừ. Một khi đã đoạn trừ xong, ngay cả vi tế hôn trầm, vi tế trạo cử cũng được trừ sạch, lúc ấy tâm vào cảnh định một cách tương tục, nhưng nếu chấp trước việc “dụng công định tâm” thì đó cũng là một quá thất. Vì vậy, cần thiết phải luôn giữ tâm trong trạng thái nhất niệm, và rồi cuối cùng cũng xả luôn nhất niệm.

III. Chín phương tiện trụ tâm: tức là chín giai đoạn trong quá trình tu Chỉ. Nay căn cứ vào Lược Luận quyển sáu để giới thiệu sự phối hợp giữa sáu lực, chín trụ và bốn tác ý.
1. Thính văn lực, chỉ rõ cách “nội trụ tâm” thứ nhất: Do lúc đầu mới nghe vị giáo thọ chỉ dạy cách tu định, rồi thuận theothực hành những gì đã nghe khiến nội tâm trụ, khi tâm trụ và không bị động niệm, lúc này nếu tạp niệm dấy khởi sẽ nhận biết được ngay. Tâm trong trạng thái này giống như “huyến hà”. Đó là tướng phân biệt nhận biết được lúc ban đầu.
2. Tư duy lực, chỉ rõ cách trụ tâm thứ hai: Do lúc nào cũng tu theo chánh tư duy, lúc đầu sẽ “đắc thiểu phần tương tục an trụ”. Đây là lúc nhận biết sự phân biệt, giống như nước trong khe trong suối, lúc ẩn lúc hiện; sẽ có được tướng ngừng nghỉ phân biệt.
3. Niệm lực, chỉ rõ cách “đệ tam an trụ tâm và đệ tứ cận sự tâm”: khi tu, tâm bị tán loạn thì hãy mau chóng “niệm tiền duyên” (tiền duyên ở đây là thính văn lực và tư duy lực) khiến tâm an trụ; muốn vậy, trước hết phải dùng niệm lực khiến tâm không còn tán loạn, rồi theo cảnh (sở duyên) thiếu vắng mà từ từ thu tâm về, và làm cho tâm lần lần nhỏ lại, rồi lại cao lên. Đây là lúc nhận biết tướng phân biệt như nước trong đầm, không còn chao động, hãy an tĩnhtrụ tâm. Như gặp trở duyên tâm không thể trụ được, khi ấy sự phân biệt dấy khởi tâm sẽ tưởng nghĩ lung tung.
4. Chánh tri lực, chỉ rõ cách điều phục tâm thứ năm, và cách tịch tĩnh tâm thứ sáu: cái biết lúc đầu đối với chánh tri là nhận biết các sai lầm của sự phân biệt, và các tâm sở tùy phiền não, nhờ vậy mà tâm không tán loạn, rồi theo đó mà điều phục tâm trong trình tự nhu hòa, vui vẻ tu tam ma địa (định), lúc này tâm đã tịch tĩnh.
5. Tinh tấn lực, chỉ rõ cách tối cực tịch tĩnh tâm thứ bảy và cách nhất hướng trụ tâm thứ tám: Dùng sức tinh tấn để trợ giúp tâm đạt đến trạng thái tối cực tịch tĩnh, vì sự “tối tế” phân biệt và “tối tế” tùy phiền não đã được đoạn trừ; cũng do sức tinh tấn mà các tâm sở hôn trầm, trạo cử không còn sinh khởi. Do bởi “tâm năng tương tục, trụ tam ma địa”.
6. Quán tập lực, chỉ rõ cách tâm trụ thứ chín: Đến đây, không cần phải y vào chánh niệm và chánh tri, mà Tam ma địa vẫn nhậm vận sinh khởi.

Lại nói về bốn tác ý:
1. Thời kỳ sơ trụ và nhị trụ, các tâm sở hôn trầm, trạo cử thường sinh khởi hơn là chánh định, do đó cần gắng sức tu tập tâm mới trụ được vào cảnh sở duyên, vì vậy trong bốn tác ý, thì đệ nhất là gắng sức vận tâm ở vào Tác-ý-vị.
2. Từ trụ tâm thứ ba đến trụ tâm thứ bảy, tuy tâm trụ chánh định nhiều hơn, nhưng tâm sở hôn trầm, trạo cử vẫn còn gây chướng ngại. Do đó, trụ tâm thứ hai có gián khuyết về vận chuyển tâm ở vào Tác ý vị.
3. Lúc trụ tâm ở giai đoạn thứ tám, do luôn gắng công tu luyện nên tâm sở hôn trầm, trạo cử không thể gây chướng ngại; nhờ vậy, có thể tu định (nhập định) một cách trường kỳ. Do đó, vận chuyển tâm ở vào Tác ý vị thứ ba không còn gián khuyết.
4. Đến trụ tâm thứ chín, đây là lúc tâm không còn chướng ngại bởi hôn trầm, trạo cử nên cũng không phải gắng sức dụng công. Do đó, thứ tư là “vô công dụng vận chuyển Tác ý vị”.

IV. Cảnh sở duyên của tu Chỉ, hay là pháp sở duyên trong tu Chỉ. Có bốn pháp. Vì đó là chánh huệ phân biệt của chánh niệm, chánh tri, nên còn gọi là “tác tứ chủng phân biệt”.
1. Chu biến sở duyên gồm có bốn: 
a. Hữu phân biệt ảnh tượng, chỉ có quán sát phân biệt của quán sở duyên.
b. Vô phân biệt ảnh tượng, vô quán sát phân biệtsở duyên của chỉ. Ảnh tượng được nói ở đây là sự vật tự tướng được tâm duyên vào (nhận biết sự vật khách thể), sau đó tâm vin vào ảnh tượng mà nó duyên được rồi nơi tự tâm khỏi hiện lại ảnh tượng đó. (kiến phần thức duyên tướng phần thức – chú của người dịch).
c. Sự biên tế tánh, là cảnh sở duyên đã được an vị, giống như tư duy bản tính của các pháp là” như thị” chứ không có tính nào khác và gọi đó là “như sở hữu biên tế tánh”.
d. Sở tác thành biện, đấy là quả do tu thành đã được an vị, như khi gắng sức tu Chỉ-Quán, kết quả đưa đến là khinh an; hay còn gọi đó là quả của quá trình tu Chỉ Quán. Bốn thứ vừa nêu không thể lìa “tam đại sở duyên” mà có riêng” thể “của mỗi thứ, chúng hiện hữu trong tất cả ba sở duyên lớn. Do đó, nên gọi là chu biến sở duyên.
2. Tịnh hạnh sở duyên: có năm thứ
a. Người nhiều tham lam hãy duyên bất tịnh.
b. Người lắm sân hận hãy duyên từ bi.
c. Người si độn hãy duyên thập nhị nhân duyên.
d. Người nhiều kiêu mạn hãy duyên thế giới sai biệt.
e. Người thường sinh khởi tầm, từ, hãy duyên hơi thở ra vào.
3. Thiện xảo sở duyên: Cũng có năm thứ.
a. Thiện xảo về sắc… duyên ngũ uẩn.
b. Nhãn giới … duyên thập bát giới 
c. Nhãn xứ… duyên thập nhị xứ.
d. Vô minh … duyên thập nhị duyên khởi 
e. Thiện nghiệp sanh khả ái quả làm xứ, bất thiện nghiệp bất sanh khả ái quả làm phi xứ.
4. Tịnh hoặc sở duyên: Có hai thứ
a. Từ cõi dục giới cho đến vô sở hữu xứ thiên, quán sát thấy thô tướng của hạ địa và tịnh tướng của thượng địađiều phục chủng tử phiền não.
b. Tu quán vô thường, vô ngã… Tứ đế, Thập lục hành tướngvĩnh viễn đoạn trừ chủng tử phiền não.

- Nội dung tu Quán:

Về phương diện tu Quán, Tông Khách Ba lấy tư tưởng trung đạo của Long Thọ làm chỉ quy. Bởi đa phần kinh chú Hiển, Mật của Long Thọ đều mang tính huyền ký, vả lại người đời nghĩ rằng Long Thọ là vị đã chứng đắc Tam Địa Bồ Tát, do đó sự lập tông của ông rất súc tíchhoàn toàn khả tín. Nhưng Long Thọ lại y cứ vào những kinh như Bá-Nhã để nhằm hiển thị “Lý” tự tánh vô sanh diệt của tất cả các pháp một cách tinh vi, và chỉ có Đề Bàđệ tử thân truyền của Long-Thọ. Cho nên người đời sau gọi Long ThọĐề Bà là “Thánh Phụ Tử”, và kính ngưỡng Thánh Phụ Tử như là phép tắc tông phong của muôn đời. “Người có khả năng giải thích ý thú của Thánh Phụ Tử một cách không sai lệch, cũng như dùng Trung Quán để tùy nghi ứng phó với ngoại đạo là hai đại luận sư Phật-Hộ và Nguyệt-Xứng” (Lược Luận, quyển 6, trang 380).

Nhưng sau Long ThọĐề Bà, những luận sư Trung Quán kế khởi như: Phật Hộ, Thanh Biện, Nguyệt Xứng, Tịch Hộ mỗi người khi lập thuyết có khác nhau. Thanh Biện đã phá Duy Thức tông, chủ trương “ngoại cảnh hữu”, rồi lập ra “Kinh Bộ Hành Trung Quán phái”; Những vị như Tịch Hộ thì thủ giữ thuyết Du Già và cho rằng đối với thế tục thì “ngoại cảnh vô”, nhưng với “thắng nghĩa tâm” cũng không phải là có, mới lập ra “Du Già Hành Trung Quán phái”. Điều này được luận sư Trí Quân phán biệt: thứ nhất nói Pháp là không, thì không thể lấy tư tưởng của Nguyệt Xứng để khái quát được, bởi Nguyệt Xứng chủ trương “Ngoại cảnh hữu”, Nguyệt Xứng tuy đồng với Thanh Biện, nhưng không vì vậy mà nói Nguyệt Xứng là người thuộc “Kinh Bộ hành”. Do đó, đời sau các học giả Tây Tạng phân chia Trung Quán ra làm:

1. Thanh Biện, Tịch Hộ… tạo ra phái “Tự lập Lượng”

2. Nguyệt Xứng… tạo ra phái “Tùy ứng phá”, trong khi Tông Khách Ba thì lấy tư tưởng của Nguyệt Xứng làm chuẩn. Hệ tư tưởng của Tông Khách Ba là xuất từ A Để Hạp trở lui và lấy Nguyệt Xứng làm tối thắng, nhân vì Nguyệt Xứng là người giải thích Trung Luận, cố nhiên Nguyệt Xứng là người khéo sử dụng ý của Phật Hộ, đối với tư tưởng của Thanh Biện, ông cũng có nhiều tham khảo, nhưng do không hợp với quan điểm của ông, nên ông lại bài xích, do đó, Tông Khách Ba dùng thuyết của Nguyệt Xứng làm tôn chỉ đích thực để vươn tới Long ThọĐề Bà. Uyên nguyên tư tưởng nói về tu Quán trong Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Luận, hiện nay là nhờ vào bộ Tây Tạng Phật giáo Nguyên Luận (trang 65 – 66) và liệt kê như sau:

Với kẻ quyết đoán chọn lấy “không kiến”, thì cần nên giải thích về thứ lớp đi vào chơn thực tánh, vì chơn thực tánh vốn xuất xứ từ phẩm Quán Pháp trong Trung Luận. Phẩm Quán Pháp lấy thanh tịnh làm chơn thực tánh để trừ diệt tất cả tập khí ngã chấp, ngã sở chấp về các pháp nội, ngoại; lại lấy chứng vô ngã trí để đoạn trừ các phiền nào về ngã kiến, nhơn kiến… làm thứ lớp đi và chơn thực tánh. Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Luận đưa ra cương yếu: người tu Du Già Sư muốn tiến vào chơn thực tánh nên biết rằng tất cả phiền não đều nương vào “hữu thân kiến” mà sinh khởi. Sở duyên của hữu thân kiến là ngã, nếu không duyên ngã thì kiến đoạn, kiến đoạn thì tất cả mọi phiền não quá thất đều đoạn tất. Ý tưởng này hoàn toàn dựa vào lời của Nguyệt Xứng trong bộ Nhập Trung Quán Luận.
“Lại nữa, với người quyết trạch nhơn vô ngã, thì lấy xe và trục xe làm thí dụ để giải thích. Giống như xe và trục Xe, không thể nói xe và trục xetương tức, tương dị, tương ưng, hay tương tại… gồm bảy lớp phân biệt (phi nhất phi dị). Nhờ phân tích như thế mà nhận ra vô ngã. Toàn ý đoạn này đồng với thuyết của Nguyệt Xứng trong Nhập Trung Quán Luận.

Lại nữa, vấn đề quyết trạch pháp vô ngã, thì nên dựa vào Bổ-Đặc-Ca-La mà thi thiết. Ấy là uẩn, là giới, là xứ, tất cả đều là pháp nhưng tự thể của chúng là không, là vô ngã. Tổng lược quyết trạch phải dựa vào “tứ biên” để ngăn việc cho rằng các pháp (tự nó) có sinh. Tứ biên là: các pháp không do tự sinh, không do tha sinh, không do câu sinh, không do vô nhân sinh, bởi các pháp mà do tự sinh, thì đã sinh rồi, thành ra vô dụng (tự sinh tắc thành dĩ sinh, ưng vô sinh dụng đẳng). Ý đoạn văn này cũng đồng với thuyết của Nguyệt Xứng trong Nhập Trung Quán Luận”. Từ các trưng dẫn trên, cho thấy Tông Khách Batham cứu và chịu ảnh hưởng tư tưởng của luận sư Nguyệt Xứng về phương diện tu Quán.

Ba tư lương cần yếu để tu Quán: 1) Thân cận thiện hữu. 2) Thính văn chánh pháp. 3). Như lý tư duy. Nhờ ba tư lương này để đi đến quyết trạch chân thực nghĩa một cách chánh kiến minh bạch. Nhờ vậy Tỳ Bát Xá Na mới thông đạt “Như sở hữu tánh”.
Trên đây là dẫn chứng tư tưởng được Tông Khách Ba y cứ vào để giải rõ việc quyết trạch chánh kiến về chân thực nghĩa.

Chân thực nghĩa, Chơn thực tánh. Như sở hữu tánh, được nói ở đây là nói bản tánh của các pháp là tánh không. Do vô minh, phiền não nhiễm ô khiến phàm phu không nhận biết được bản tánh của các pháp là không tánh, cần giải trừ tận gốc vô minh, phiền não mới liễu giải được Như sở hữu tánh. Muốn vậy, trước tiên cần tu Quán để phá trừ ngã chấp. Trừ được ngã chấp là nhổ tận gốc vấn đề sinh tử luân hồi, lập tức tiến thẳng vào chân thực nghĩa của không tánh. Ngã chấp gồm có nhân ngã chấppháp ngã chấp. Do đó, tu Quán là từng bước nghiệm chứng nhân vô ngã, tiếp đến là pháp vô ngã. Khi sinh khởi ngã chấp, người đời theo đó mà chấp ngã, chấp pháp. Muốn tu để đoạn trừ ngã chấp, trước phải tu quán nhơn vô ngã, sau mới tu quán pháp vô ngã. Nay xin giới thiệu phép tu quán Nhân vô ngã.

I. Phép tu quán nhân vô ngã – người tu cần quán sát bốn việc:

1. Quyết định sở phá: ngay lúc ngủ say con người cũng chấp ngã một cách kiên trì bất xả. Chấp ngã như vậy gọi là “câu sinh ngã chấp”. Người tu cần quán sát chấp ngã là chấp cái gì làm ngã? Tại sao chấp ngã? Đặt vấn đề như vậy để quán sát một cách tinh tường về chấp ngã mang tính “câu sinh” này (câu sinh là cùng sinh một lượt với thân, tâm). Khi nhận biết rõ ràng rằng, câu sinh ngã chấp không chỉ chấp cái tổng thể giữa thân và tâm được an lập bởi giả danh, mà chấp luôn cái ngã được giả lập ấy là có tự thể. Chấp ngã như vậy người tu cần phải phá trừ tận gốc.

2. Quyết định nhị phẩm.
Khi nhơn ngã chấp sinh khởi thì hãy quán sát: quả như thân và tâm có được là do ngũ uẩn giả hợp; Vậy sao giữa con người với ngũ ẩn không đồng nhất? (người to cao thì ngã cũng to cao, người nhỏ thấp thì ngã cũng nhỏ thấp). Nếu không đồng nhất ắt phải khác nhau (tương dị) ? Bỏ hai lối chấp này, không có cái thứ ba để chấp.

3. Phá nhất phẩm – Ngã và ngũ uẩn. Nếu cho rằng ngã và ngũ uẩnnhất thể; nói vậy là không thông:
Cái được gọi là Ngã sẽ thành vô dụng.
Ngã lý đáng phải thành nhiều (ngã).
Ngã lý đáng phải có sinh diệt.
Vậy, đủ thấy Ngã và ngũ uẩn chẳng phải nhất thể.

4. Phá dị phẩm. Như cho rằng cái Ngã được chấp với ngũ uẩn là khác nhau (dị) chứ chẳng phải một. Vậy, lý ra lià bỏ ngũ uẩn phải riêng có một cái Ngã. Sự thực thì lìa bỏ ngũ uẩn không có cái Ngã nào cả.
Qua bốn phân tích trên, quán sát cho thấy trong thân, tâm con người hoàn toàn không có cái gì là cái Ngã câu sinh để có thể chấp được cả. Nghiệm chứng được như vậy là bước đầu có được chánh kiến theo Trung Quán. (Chơn thực tánh là phi nhất, phi nhị và phi dị). Nếu người tu trong nhiều đời mới có được chánh kiến này, coi như người đó có lại Thân Bảo đã bị mất sẽ hoan hỷ vô cùng. Nếu người tu có được chánh kiến này chỉ mới trong đời hiện tại, thì coi người đó như luôn lúc nào cũng nơm nớp lo sợ sẽ mất đi vật cực kỳ ưa thích của mình. Còn như không phải là hai hạng người tu vừa nêu, thì biết đó là những người mà nhơn ngã chấp chưa được phá trừ, hoặc giả là họ chưa gia công phá trừ câu sinh ngã chấp một cách đúng mức và rốt ráo.

II. Phép tu Pháp vô ngã phép tu
này được chia thành hai quyết trạchHữu vi phápVô vi pháp, chấp ngã, chấp pháp vốn không có tự tánh. Pháp và Ngã được chấp, cái chấp đó vốn không có tự tánh.

1. Hữu vi pháp vô tự tánh: Hữu vi pháp được phân thành ba.
Sắc pháp vô ngã: Chúng ta quán sát vào thân tâm của chính mình rồi dứt khoát chấp lấy thân thể làm ngã. Nhưng phân tích đến cùng thì cái gì là Ngã? Tại sao chấp thân thể làm Ngã? Nếu chấp thân thể làm Ngã thì bộ phận nào của thân thể là Ngã? Đem thân thể ra giải phẫu, thì rõ là chẳng có bộ phận nào là thân thể. Như thế, quả thực thân thể chẳng phải là Ngã.

Tâm pháp vô ngã: Tâm thức con người luôn chuyển biến trong từng sát na; vậy, thức chuyển biến trước giờ ngọ là Ngã hay thức chuyển biến sau giờ ngọ là Ngã! Nếu bảo niệm niệm đều là Ngã, thì ra có vô số Ngã! Điều đó cho thấy trong tâm thức con người không cái gì là cái Ngã thực tại.
Bất tương ưng hành pháp vô ngã: chẳng hạn một năm có mười hai tháng. Năm là sự giả lập để dễ phân biệt, kỳ thực năm không phải là một thực hữu, cũng không có mười hai tháng thành một năm, vì trong số mười hai tháng không có tháng nào là tự tánh của Năm.

2. Vô vi pháp vô tự tánh: chẳng hạn như hư không giới có bốn phương và trung ương (ở giữa). Mặc dù vậy, những phương hướngvị trí trong hư không chỉ là những danh xưng do giả lập, chúng không có tự tánh riêng. Nếu cho rằng hư khôngphương vị là có tự tánh; Vậy khi phân tích, quan sát hư khôngphương vị thì hư khôngphương vị là một hay là khác? Nếu bảo hư khôngphương vị là một. Vậy tại sao khi hư không ở phương đông có mưa, nhưng các phương còn lại không mưa? Vậy đủ biết hư khôngphương vị không phải là một. Còn như hư khôngphương vị khác nhau. Vậy, khi loại bỏ tất cả phương vị lại vẫn có hư không riêng biệt chứ? Sự thực không phải vậy, thế đủ biết hư không là một vô vi pháp không có tự tánh.

Chỉ – Quán song vận.

Chỉ-Quán song vận là nét đặc sắc của Phật giáo trong việc tu trì. Nếu tu Chỉ không thôi, thì thân tâm được khinh anđạt đến “cửu trụ tâm”. Tu Chỉ mà thành công, tâm trụ cảnh sở duyên một cách kiên cố, tâm xa lìa tính hý động, không tịch tĩnh, đây là trạng thái đạt đến Chánh Xa-Ma-Tha (Chánh định) hay còn gọi là đạt đến đệ nhất tĩnh lự (sơ thiền) “cận phần sở nhiếp thiểu định địa tác ý”. Đó cũng là lối tu Tiên của ngoại đạo. Ngoại đạo tu Chỉ mà không có tâm ly dục, dù họ tu đắc năm thứ thần thông đi nữa, họ vẫn phải nhờ vào cách tu Xa-Ma-Tha
này. (Lược Luận quyển sáu, trang 378). Đệ tử Phật, nếu tu Chỉ mà không tu Quán – Quán nhơn vô ngã, pháp vô ngã để đạt đến thành tựu – cũng chẳng khác ngoại đạo tu tiên; kết quả không giải thoát được sinh tử.

Sau khi hoàn tất việc tu học Hiển giáo, tiếp đến mới tu Mật giáo. Vì “Mật giáo là phép tu đặc biệt quí so với các phép tu khác, nó giúp người tu có thể mau chóng viên mãn hai thứ tư tưởng là Bi và Trí” (Lược Luận quyển sáu, trang 408).
 Bộ “Mật Thừa Đạo Thứ Đệ” có người dịch là “Chơn Ngôn Đạo Thứ Đệ” hay “Mật Tông Đạo Thứ Đệ”, bộ này với bộ “Bồ Đề Đạo Thứ Đệ” là hai bộ đại luận thư của Tông Khách Ba. “Bồ Đề Đạo Thứ Đệ” nói rõ thứ lớp tu hành theo Hiển giáo, trong khi bộ “Mật Thừa Đạo Thứ Đệ” thì chỉ rõ thứ lớp tu hành của Mật giáo.

Tư tưởng Mật thừa của Tông Khách Ba đại để tương đồng với đại sư A Để Hạp trong “Bồ Đề Đạo Đăng Luận”. Tông Khách Ba lấy Lục độChỉ Quán làm pháp môn và chia thành nhiều giai đoạn để người tu Hiển giáo tuần tự tu tập. Khi nói về Hiển-Mật nhất quán, ông lại dùng phép tu Hiển-Mật tương cộng. Ông chủ trương dùng Lục độ và Chỉ – Quán làm cơ sở, từ đó mà tiến đến tu Mật. Lúc khởi sự tu Mật, nên tuân theo những điều được nói trong “Bồ Đề Đạo Đăng Luận”, chẳng hạn phải từ bỏ tất cả của sở hữu, như là bố thícúng dường A-Xà-Lê. Một khi được A-Xà-Lê hoan duyệt thì căn cứ theo những điều được nói trong Mật bộ mà làm phép Quán đảnh cho đệ tử; được vậy, về sau đệ tử mới đủ tư cách kham nhận Mật pháp.
Thứ tự tu học Mật thừa được Tông Khách Ba chia thành năm phẩm:
Thanh Tịnh Bồ đề tâm, điều này tương cộng với Hiển giáo.
Tứ loại Quán Đảnh phải thông qua bốn bộ Mật điển.

Thủ hộ luật nghiTam muội da. Luật nghi ở đây là Bồ tát cộng giới được nói trong “Bồ tát địa” và “Tập Bồ Tát Học Luận”, gồm mười tám trọng giới và bốn mươi sáu khinh giới. Theo “Lược Luận” quyển sáu, trang 409 thì: “Nếu phạm (căn) bản tội, tuy phải chịu trọng tội, nhưng công đức của đạo khi sinh khởi đối với thân tâm cũng khó lưu giữ. Cho nên người tu phải gắng sức đừng để bị nhiễm ô, ngay cả thô tội cũng không nên phạm, nếu đã phạm, hãy mau chóng tạo phương tiện để hoàn tịnh. Đấy là điều căn bản của người tu”.
Còn “Tam Muội Da” là bất cộng giới của Mật thừa. Đây là điều có nhiều thuyết khác nhau nơi các kinh-chú. Nhưng trong kinh Vô-Thượng-Du-Già có nói đến Bất hộ tam muội da, Quán đảnh hạ liệtBất liễu chơn thực tánh, ba hạng người này dù tu tập cách nào đi nữa cũng không thành tựu.

Tất địa giải thoát được viên mãn theo thứ lớp. Thứ lớp viên mãn chủ yếu là Thời Luân, Mật Tập v.v… các phép
này được chỉ dạy trong Vô-Thượng-Du-Già. Về phương diện tư tưởng Mật thừa, giữa Tông Khách Ba và A Để Hạp cũng có chỗ bất đồng. Chẳng hạn A Để Hạp lấy “tối cực cứu cánh” của Vô-Thượng-Du-Già là “Thắng lạc”. Tông Khách Ba lại lấy “Thời Luân” làm tối tôn; lại nữa, A Để Hạp phân tích Mật điển ra thành bảy loại, trong khi Tông Khách Ba chỉ chú trọng có bốn, đó là: Tác Mật, Tu Mật, Du Già Mật và Vô Thượng Du Già Mật. Sở dĩ có sự khác nhau là do Tông Khách Batham cứu những vị khởi lên sau A Để Hạp như Tân thuyết của Bố Đốn … rồi có thêm sự cải cáchhoàn thành.

Xét về nhiều phương diện, Tông Khách Ba xứng đáng là vị Tăng Bảo vĩ đại! Do đó, kể từ triều Minh đến naythời gian năm, sáu trăm năm trong giới học giả Phật giáo Tây Tạng tuy có khác biệt về tông phái cũng như sự nghiên cứu về học thuật có “dung” có “dị”. Nhưng đối với học thuyết của Tông Khách Ba được coi như đã hoàn mỹ về tổ chức và siêu việt cổ kim. Cho nên nếu muốn suy luậntính cách chánh tông mà loại bỏ Tông Khách Ba thì chẳng còn ai khác để nói.

Học Phong Đặc Sắc Của Tông Khách Ba.

Nếu đem học thuyết của Tông Khách Ba và nền Phật học Hán văn của Trung Quốc ra so sánh, thì ít nhất ông cũng có hai điểm đặc sắc. Ông là người có đầy đủ phong cách và quỉ phạm của Đại thừa Phật giáo Ấn Độ thời Vãn–kỳ. Đó là cực trọng thực tiễn. Đại thừa Phật giáo Ấn Độ thời Sơ kỳ, những vị như Long-Thọ, Vô-Trước là những người thừa tiếp học phong của Phật giáo Tiểu thừa nên đối với những biện biệt phân tích về pháp môn, thường là không nhàm chán sự phồn bác. Do đó, đối với cương lĩnh chính yếu để tu học phải đợi hậu nhân ra công loại bỏ bớt sự phồn bác; vì thế phần lớn các trước thuật của các học giả hậu học chủ yếu là tổ hợp. Như bộ “Tứ Bách Luận” làm thành bộ Trung–Quán Luận, hoặc như hai bộ “Nhiếp Đại Thừa Luận” và “Hiển Dương Thánh Giáo Luận” gom lại thành bộ “Du Già Sư Địa Luận”.
Tuy vậy nhưng vẫn chưa giản yếu được các bộ luận
này. Mãi đến những điển tịch của Tịch-Thiên như bộ “Nhập Bồ Tát Hạnh Luận” vì có sự bất đồng nên mới lược bỏ bớt chỗ phồn văn, chỉ giữ phần yếu lý đích thực nhằm giúp người tu dễ bề tiếp thu học tập. Người sau chuộng phong cách giản yếu này và làm cho nó đi đến cực thịnh. Thậm chí họ chỉ biết có “Sư thuyết” và chỉ nhận yếu quyết nơi thầy giáo thọ; và không quay lại lối học “phồn từ”. Bộ “Thiền Định Tư Lương Phẩm” của Giác Hiền tiêu biểu cho học phong này: “Muốn tâm đắc định thì nên thưa hỏi giáo thọ sư, sau đó gia công tu tập bất tất phải cần đến bảy thứ Lượng Luận, bốn loại lý luận, bảy bộ Tỳ Đàm hay Du Già Ngũ Địa v.v… các tướng rồi mới tác ý tu định”. Ngay như việc tu trì phép Quán cũng chỉ lấy điều giản yếu nhất, vì như vậy dễ đi vào Quán pháp hơn. Chính vì thế mà tông nghĩa “Tứ biên gia khiển sinh pháp vô tự tánh” của Long-Thọ là đặc biệt thịnh hành.

Học phong cầu sự giản yếu
này là do A Để Hạp mang vào Tây Tạng, đến Tông Khách Ba nó được Xiển dương một cách rất hữu hiệu. Tông Khách Ba cũng xiển thuật cái học của Nguyệt – Xứng, sự “Tung hoành biện nạn” của Thanh Biện, sự tổ chức nghiêm mật của Duy Thức, tất cả ông đều có tham cứu. Nguyên nhân vấn đề là do học phong cầu sự giản yếu và dễ áp dụng vào thực tiễn mà ra. Nếu đem học phong này sánh với những chú sớ, diễn dịch của Phật giáo Trung Quốc nội địa chẳng khác bỏ gốc chạy theo ngọn. Thực thì cần có thêm sự gia công nghiên cứu.

Do lấy thực tiễn làm nguyên tắc nên đối với các học thuyết của “Chư gia”, Tông Khách Ba lựa chọn một cách có tổ chức; chẳng hạn Phật giáo Đại thừa Ấn Độ, từ “Bồ Tát Địa” của “Du Già Sư Địa Luận” trở lui nghiễm nhiên ông coi đó là Bồ Tát học đã có tổ chức, nếu điều lý chỉ thêm phiền phức. Đến Tịch Thiên, ông lấy lục độ làm cương yếu để xâu kết kinh, luận qua bộ “Tập Bồ Tát Học Luận” của mình. Đến đây mới thấy rõ sự giản yếu. Còn A Để Hạp là người “cấp kỳ dự lưu” (hứng lấy giòng còn lại) mà tạo thành bộ “Bồ Đề Đạo Đăng Luận”, trong bộ
này ông có sự lấy, bỏ giữa các nhà, cố làm sống lại ý thức gốc của Phật pháp.

Đó là điều hoàn toàn xứng đáng để người tu lấy làm chuẩn mực. A Để Hạp là người độc nhất lấy thực tiễn làm mục đích, học phong
này từng một thời hưng thịnh, đồng thời A Để Hạp cũng là người đem học phong này vào Tây Tạng và làm cho nó càng thêm phát huy. Nhân đó, đến lúc Tông Khách Ba chào đời và hoằng hóa, ông lấy cái học Du Già làm nền tảng, lấy cái học Trung Quán làm chuyên sâu, rồi hồn nhiên kết hợp hai đại gia là Long ThọVô Trước làm thành một cái học duy nhất của Đại thừa. Dùng thực tiễn hiển hiện chứ không dựa vào “không ngôn”, Tông Khách Ba dùng học phong này để luận giảng phép tu học Phật pháp. Quả là một sự đích xác đúng đến phi thường! 

Đại sư Thái Hư hết sức ca tụng bộ “Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Luận” của Tông Khách Ba. Ông viết: “Tôi xét thấy phong giáo tu hành của phái Hoàng y trong bốn, năm trăm năm trở lại đây vẫn duy trì được khả năng tồn tại một cách bền vững chỉ bởi họ là một tông phái “nội sung ngoại hằng”. Xa thì có Tây Khương, Thanh Hải và Mãn Châu cũng không bỏ; được thắng duyên như vậy không phải là một, trong đó có sự góp sức của bộ “Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Luận”. Bộ luận Xiển dương Thượng Sĩ Đạo nhưng phải thông qua Trung Sĩ Đạo và Hạ Sĩ Đạo. Ngay những vị thiên về tu Mật giáo cũng phải học tất cả kinh, luật, luận.

Trong bộ “Bồ Đề Đạo Đăng Luận” giảng dạy về Giới Định – Huệ một cách đầy đủ. Đấy thực sự là nguyên nhân chính yếu để Hoàng giáo tồn tại và phát triển”. Về Tông Khách Ba, Thái Hư đại sư viết: “Ông tuy chưa từng chủ trương một pháp môn tu nào của riêng mình, nhưng ông xác định tất cả đều phải tu tập theo một trình tự có thứ lớp hẳn hoi. Làm vậy, vừa không đánh mất tông phái của chính mình, vừa không loại bỏ bất kỳ một phép tu nào. Được vậy là nhờ ông khéo an lập tất cả ngôn giáo đều quy hướng về việc tu chứng”. (Thái Hư Đại Sư Toàn Tập, Văn Tùng, trang 778-779). 

Chỉ mỗi tư tưởng Tam Sĩ Đạo – Hạ Trung Thượng của Tông Khách Ba đã được Thái Hư đại sư đề xướng là tương cận với thuyết” Nhân duyên sinh pháp của ngũ thừa cộng giáo” và “Tam pháp ấn của Tam thừa cộng pháp”, Chư pháp thực tường, cho đến Vô ngại pháp giới của Đại thừa bất cộng pháp. Cũng theo Thái Hư đại sư chỉ vì Tông Khách Ba xưng hô khiêm tốn tự cho mình “Thô lậu dẫn mối, ngữ ngôn chẳng thấu” (Thô dẫn đoạn tự, ngữ yên bất tường). Nhưng khi đọc bộ Quảng Luận được dịch ra Hán dịch, đọc đến phần kiến lập Tam sĩ đạo mới cảm thấy hân duyệt vô cùng.

Phật học Tây Tạng cũng có chỗ chưa đầy đủ. Chẳng hạn bản Hán dịch “Đại Trí Độ Luận” của Long Thọ chưa được truyền vào Tây Tạng. Về phương diện học giới của Đại thừa, họ chỉ biết có “Bồ Tát Địa” và các sách của Tịch Thiên; còn như “Hiển Dương Thánh Giáo Luận” của Vô Trước và những điển tịch căn bản của Hiện Quán Du Già cũng chưa được truyền vào Tây Tạng; vì vậy việc tu tập quán phápTây Tạng duy nhất chỉ có Trung Quán. Những bộ phân giải về Duy thức hoàn toàn bị bỏ qua.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11387)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
(Xem: 11552)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13543)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14124)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10309)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10772)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11326)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11279)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11439)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10169)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9968)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10707)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11318)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42212)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10487)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11864)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10009)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10454)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10620)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45766)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32113)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11325)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10705)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11321)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10632)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13459)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12374)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11022)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10617)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12310)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11169)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11844)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29281)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9215)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10542)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10238)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10584)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10910)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10804)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32136)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27390)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17789)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11873)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12288)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10445)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11698)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10427)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10786)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28065)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10151)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10282)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10648)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10769)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11223)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10402)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10689)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11473)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18254)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10522)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12846)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11751)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29188)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28593)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28302)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13318)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22776)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13435)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11578)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13817)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25722)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26082)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22312)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14482)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12072)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11804)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11689)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11489)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33187)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31844)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12033)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39628)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22487)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11957)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14229)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13347)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14304)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12072)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10399)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11230)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13309)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34523)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12623)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12227)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13532)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12621)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12981)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16298)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11747)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27390)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28431)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant