Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tọa Đàm 01 - 12

01 Tháng Mười Hai 201200:00(Xem: 7144)
Tọa Đàm 01 - 12
THIỆN CĂN, PHƯỚC ĐỨCNHÂN DUYÊN

Tác giả: Cư sĩ Diệu Âm


THIỆN-CĂN, PHƯỚC-ĐỨC, NHÂN-DUYÊN

Tọa Đàm 1

Nam Mô A Di-Đà Phật.

Diệu Âm này là phàm phu, tội chướng sâu nặng, trí huệ chưa khai! Cư sĩ Tâm Nhật Thuyết nói rằng cư sĩ Diệu Âm cho lời pháp thoại thì Diệu Âm này không dám nhận. Chỉ biết rằng mình là người nghiệp chướng sâu nặng nên thông cảm với những người cùng nghiệp chướng sâu nặng như chúng ta... Cho nên những lời nói này là lời tâm sự.

"Đồng hoạn tương thân"! Tức là cùng hoạn nạn với nhau, chúng ta thương nhau, đùm bọc với nhau để dìu dắt nhau nương theo pháp Phật, cầu mong cho trong một báo thân này chúng ta có phước phần giải thoát, giải tất cả những cái ách nghiệp của người phàm phu, thoát qua sáu đường sanh tử.

Sở dĩchúng ta nói được như vậy là vì đức Thế-Tôn biết rằng chúng sanh nghiệp chướng sâu nặng như chúng ta vẫn được cái phước phần vượt qua sanh tử luân hồi. Ngài ban cho chúng ta một pháp môn rất dễ mà lại vô cùng vi diệu. Dễ vì ứng hợp với căn cơ thấp kém hạ căn như chúng ta. Vi diệu vì nhờ phương pháp này mà thay vì khi buông báo thân chúng ta bị đọa lạc hàng vô lượng kiếp trong ba cảnh xấu ác, nay lại vượt về tới Tây-Phương Cực-Lạc để một đời này bất thối thành đạo.

Xin thưa với chư vị, là một phàm phu tục tử khi gặp được cái cơ duyên này chúng ta thấy mừng rỡ vô cùng. Tất cả chúng ta ai ai cũng được quyền hy vọng thành đạo. Thấy vậy mới biết pháp Phật vi diệu! Vi diệu bất khả tư nghì!...

Nếu chúng ta là một đại Bồ-Tát, trong một đời này đi về Tây-Phương để thành đạo thì không có gì đáng tuyên dương hay đáng mừng rỡ. Nhưng mà tuyệt vời chính ở chỗ một người phàm phu tục tử, tội chướng tràn đầy, oan gia trái chủ chập chùng, chúng ta đang đứng trước cửa ngõ của ba đường ác hiểm, ấy thế nhờ một câu A-Di-Đà Phật mà về được tới Tây-Phương Cực-Lạc để một đời thành đạo... Thật quá vi diệu! Đức Phật nói rõ rệt như vậy!

Cho nên, khi biết rằng là hạng phàm phu tục tử, chúng ta hãy thương yêu nhau, đoàn kết với nhau, yểm trợ cho nhau, dìu dắt nhau đi cho đúng con đường này. Con đường thành đạo ngắn nhất. Con đường thành đạo lạ lùng mà đến nỗi không ai có thể giải được!

Tại sao lại như vậy?... Chỉ khi nào về được Tây-Phương rồi, thành Phật rồi, chúng ta mới hiểu được chuyện này. Một người tội chướng sâu nặng, thì trong nhiều kinh điển đã nói rằng, với hạng người như chúng ta nhất định phải chịu đọa lạc, nhất định tiếp tục trầm luân, chịu ách nạn sanh sanh, tử tử lũy kiếp không biết ngày nào mới thoát nạn được!...

Ấy thế mà đức Phật còn có nói rõ rệt rằng, một người nào tin vào câu A-Di-Đà Phật, một người nào nghe câu A-Di-Đà Phật mà tâm hoan hỷ, tin ưa, hạ một chí nguyện quyết đi về Tây-Phương Cực-Lạc, rồi thành tâm niệm câu A-Di-Đà Phật. Niệm "Nam Mô A-Di-Đà Phật" cũng được, niệm bốn chữ thôi "A-Di-Đà Phật" cũng được, lược bớt đi hai chữ, bốn chữ thôi, cứ thế mà đi... Lòng tin hôm nay thì vững hơn hôm qua... Sau khi chúng ta cộng tu rồi, lòng tin phải vững hơn trước khi chúng ta cộng tu... Khi chúng ta ăn cơm, chúng ta có cái niềm tin vững hơn trước khi ăn cơm... Rồi ngày mai... ngày mốt... niềm tin cứ tiếp tục tăng lên, đừng bao giờ giảm xuống. Trước những giờ phút xả bỏ báo thân, chư vị vẫn giữ nguyên ý nguyện này...

- Nghĩa là niềm tin không lay chuyển...

- Nghĩa là chí nguyện vãng sanh không được bữa có bữa không...

- Nghĩa là tâm ý không được chờn vờn, phân đo...

Chờn vờn, phân đo nghĩa là hôm nay thì chúng ta muốn vãng sanh, ngày mai thì chúng ta nói thôi để suy nghĩ đã... Rồi ngày mốt thấy đời khổ quá thì nguyện vãng sanh trở lại... Không được chập chờn như vậy!... Tức là, Tín phải vững lên! Nguyện phải càng ngày càng tha thiết, không được giảm! Câu A-Di-Đà Phật phải nở mãi trên môi chúng ta. Cái môi niệm Phật, thì tâm phải niệm Phật. Thành tâmniệm Phật.

Phật dạy rằng, không cần nhất định phải nhất tâm bất loạn, không cần nhất định phải chứng đắc, chí thành lên, chí thiết lên, trì giữ câu A-Di-Đà Phật, Ngài nói quý vị làm như vậy, rồi trước những giờ phút lâm chung cất lên một niệm "A-Di-Đà Phật" cầu về Tây-Phương, nếu mà chư vị không đi về tới Tây-Phương Cực-Lạc để một đời thành tựu đạo quả, thì A-Di-Đà Phật thề rằng Ngài không giữ ngôi Chánh-Giác.

Xin thưa với chư vị, khi nghe lời nói này, chư vị có cảm thấy sung sướng không?... Có thấy ngộ ra con đường thành đạo của chúng ta không?... Đây là con đường duy nhất cho chúng sanh như chúg ta trong một báo thân này thành đạo. Ngoài con đường này nhất định không có con đường thứ hai để chúng ta có quyền nói: Thành tựu đạo quả.

Trở lại chuyện của hàng hạ căn, chúng ta phải thương yêu với nhau, phải đoàn kết với nhau, phải bảo vệ với nhau. Để chi?... Để cho những người gọi là "Đồng Hoạn" này, đồng cái hoạn nạn của nghiệp chướng, một đời này rủ nhau đi về Tây-Phương gặp đức A-Di-Đà... Nam cũng thành tựu đạo quả, nữ cũng thành tựu đạo quả, một người dù nghiệp chướng sâu nặng này cũng được thành đạo quả. Nếu chúng ta có nhiều phước báu, trước khi ra đi có thể ngồi cười hề hề không bị bệnh khổ gì cả. Nhưng vãng sanh dưới hình thức nào, chúng ta vẫn bình đẳng thành tựu đạo quả trên cõi Tây-Phương.

Mong cho chư vị củng cố niềm tin cho vững vàng, quyết lòng nương theo câu A-Di-Đà Phật đi về Tây-Phương. Cái điểm quan trọng của chúng ta đã được chư Tổ nói rất kỹ trong những lời khai thị.

- Hãy chí thành, chí kính, hãy khiêm nhường tối đa, rồi dùng cái lòng chí thành đó niệm câu A-Di-Đà Phật.

- Hãy bỏ lại sau lưng tất cả những nghiệp mà chúng ta đã tạo ra trong quá khứ.

- Hãy bỏ lại sau lưng tất cả những tập khí sai lầm, đối với một người phàm phu lấy lòng khiêm nhường chí thành, thật thà, gọi là "Lão thật để niệm Phật". Chỉ vậy mà thôi...

Hy vọng rằng tất cả mọi người ngồi đây, đều về Tây-Phương thành tựu đạo quả, để cùng với chư Phật đi khắp mười phương pháp giới cứu độ chúng sanh.

Thành tâm chúc mừng cho chư vị... nếu sau những lời này tất cả đều vững tâm, vững chí, một lòng một dạ đi về Tây-Phương Cực-Lạc...

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

THIỆN-CĂN, PHƯỚC-ĐỨC, NHÂN-DUYÊN

Tọa Đàm 2

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

Vãng Sanh” là cái pháp tu thấp nhất, căn bản nhất, dễ dàng nhất, hợp với căn cơ của chúng ta.

Trong thời mạt pháp này. Căn cơ của chúng ta thấp lắm, không cao đâu. Nếu mà căn cơ chúng ta cao một chút, gọi là thượng căn thượng trí, thì ta không thèm nói chi đến pháp hộ niệm, ta sẽ niệm Phật cho đến nhất tâm bất loạn rồi đứng cò cò vãng sanh, biểu diễn một sự vãng sanh giống như ngài Thiện-Đạo Đại Sư, Ngài leo trên cây cao thiệt cao, Ngài giăng hai cánh tay ra rồi bay tà tà tà tà xuống... Ngài ngồi xếp bằng dưới đất, bắt ấn tam muội vãng sanh luôn.

Nhưng niềm mơ ước để được nhất tâm bất loạn đối với chúng ta khó cách nào có thể thành hiện thực được! Mình nói như vậy có phải là bi quan lắm không? Xin thưa với chư vị, không phải bi quan, mà đây là điều thực tế.

Trong kinh Đại-Tập, đức Thế-Tôn có nói: “Thời mạt pháp ức vạn người tu khó tìm ra một người chứng đắc”. Nhất tâm bất loạn là một cảnh giới chứng đắc. Cho nên ta mới nói rằng ức vạn người đang tu hành ngày hôm nay tìm không ra một người chứng đắc. Mà đã không được chứng đắc để nhất tâm bất loạn, thì bắt buộc ta phải có cách khác để phải được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc. Vì tự ta không thể nào tự mình thành đạo được, nên phải tạo cho được sự trợ duyên tốt, tạo cho được sự trợ duyên viên mãn để ta lấy cái nhân niệm Phật hôm nay kết thành cái quả báo viên mãn trên cõi Tây-Phương.

Như hồi sáng nay chúng ta đã nói qua, niệm Phật là cái “Nhân”, nhưng mà không chú ý cái “Duyên”, thì coi chừng cái “Nhân niệm Phật” hôm nay nó sẽ nở ra cái “Quả” trong một vạn kiếp nào đó ở tương lai, chứ không nở trong đời này. Trong khoảng thời gian dài vằn vặc đó ta có thể bị nạn!…

Chính vì vậy, chúng ta phải chú ý rất kỹ điểm này. Các vị Tổ Sư toàn là những vị thượng thiện-căn, nhưng đến sau cùng hầu hết các Ngài đều chuẩn bị sự hộ niệm rất cẩn thận, dặn dò các hàng đệ tử hộ niệm trợ duyên cho các Ngài một cách hết sức chu đáo.

- Thứ nhất, chính các Ngài luôn luôn giữ cái tâm khiêm nhường để làm gương cho chúng sanh.

- Thứ hai, chính Ngài cũng nhiều khi nhận rằng vẫn còn có nghiệp chướng.

Chúng ta nên nhớ, còn nghiệp chướng là còn trong sanh tử luân hồi. Nếu tu nhiều thì có phước nhiều. Có phước nhiều thì nghiệp ác không có hoặc rất nhỏ, nhưng mà chúng ta vẫn còn có cái nghiệp thiện. Hồi sáng này chắc quý vị có nghe nhắc đến lời nói của ngài Tĩnh-Am, vị Tổ thứ mười một của Tịnh-Độ Tông Trung Hoa. Ngài nói dù những người không có nghiệp ác, toàn là nghiệp thiện thôi, nhưng Ngài lại nói: “Nghiệp thiện càng lớn thì sanh tử càng nặng”… Còn nếu chúng ta nghiệp ác càng lớn, thì tam đồ càng nặng! Đổi chữ “Sanh Tử” thành chữ “Tam Đồ”, một chút vậy thôi!...

Chính vì thế, chúng ta tu hành không nên định nghĩa rằng làm thiện là đủ. Hoàn toàn không đủ đâu! Chúng ta nhất định phải tu “Tịnh nghiệp”. Tu tịnh nghiệp nhưng mà cầu chứng đắc nhất tâm bất loạn, để được an nhiên tự tại, bay tà tà từ trên cây xuống, ngồi xếp bằng thị tịch như ngài Thiện-Đạo, thì không có đâu chư vị ơi!...

Ngài Thiện-Đạo là A-Di-Đà Phật tái lai mới biểu diễn được chuyện đó. Còn ở đây chúng ta là hàng phàm phu tục tử thì nhất định không bao giờ có được chuyện đó đâu… Chính vì vậy, cư sĩ Tâm Nhật Thuyết bất ngờ nhắc đến chuyện hộ niệm, thật là thích hợp trong khung cảnh tu hành với căn cơ hạ liệt như chúng ta.

Xin thưa với chư vị, muốn tu thành đạo trong đời này hãy nhớ cho kỹ lời dạy của Ngài Ấn-Quang Đại Sư. Chúng ta nên nhớ kỹ, Ấn-Quang Đại Sư là Đại-Thế-Chí Bồ-Tát tái lai chứ không phải tầm thường, nhưng suốt cuộc đời của Ngài, khi nói lên một câu nào, Ngài thường hay khởi đầu bằng câu này trước: “Lão Tăng là hàng phàm phu tục tử, tội chướng sâu nặng, trí huệ còn mê mờ...”. Quý vị để ý coi.

Tại sao Ngài nói như vậy? Ngài nói vậy không phải là nói cho Ngài đâu à!... Mà đây là những lời Ngài nói cho hàng hạ căn phàm phu tục tử trong thời mạt pháp như chúng ta. Ngài dạy từng chút, từng chút cho chúng ta để những người phàm phu tục tử này được phước phần vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc. Hay lắm chư vị ơi!...

Ngài nói như thế nào?...

- Càng tu hành ta càng thấy ta nghiệp nặng…

- Càng tu hành ta càng thấy ta hạ căn…

- Càng tu hành ta thấy chỉ còn có ta là phàm phu, nghiệp chướng sâu nặng, còn tất cả mọi người đều là Bồ-Tát hết.

Hồi sáng tôi nói: “Xin chư vị đại Bồ-Tát...”. Tại vì tôi coi tôi là hạng phàm phu mà. Xin thưa thật, từng điểm, từng điểm những lời khai thị của ngài Ấn-Quang Đại Sư nó khớp, nó hợp với những người phàm phu như chúng ta để theo đó tu hành thành đạo. Diệu Âm này tình thật mà nói, không biết sao lại có một sự cảm ứng rất mạnh với những lời khai thị của ngài Ấn-Quang Đại Sư. Ngay như những lời thơ “Khuyên Người Niệm Phật” cũng do ngài Ấn-Quang Đại Sư khai thị cho. Ngài nói, “Mình biết niệm Phật, mình biết con đường vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc, thì làm sao nỡ để anh em, cha mẹ, vợ con của chúng ta tiếp tục chìm đắm trong bể khổ sông mê”. Vâng lời Ngài, chúng ta hãy cố gắng khuyên người niệm Phật cầu về Tây-Phương đi, để giúp cho một người phàm phu vãng sanh về Tây-Phương thành bậc Chánh-Giác.

Hồi sáng này chúng ta nói niệm Phật dễ. Nhưng thật ra niệm Phật mà không để ý... không cẩn thận... Chưa chắc gì dễ đâu! Thật sự!... Ngài Tịnh-Không thường hay nhắc lại lời nói của ngài Lý-Bỉnh-Nam. Ngài Lý-Bỉnh-Nam nói: “Một vạn người tu niệm Phật, suy cho cùng ra còn có hai-ba người vãng sanh”. Hai-ba người vãng sanh trong mười ngàn người đâu phải là dễ!…

Chính vì thế mà ta phải cẩn thận tối đa, đúng như cư sĩ Tâm Nhật Thuyết đã nói: “Chuẩn bị hộ niệm”.... Lạ lắm! Một người niệm Phật mà không có chuẩn bị hộ niệm, thì sau cùng hình như một vạn người tu vẫn chỉ có một-hai người vãng sanh mà thôi! Ấy thế, cũng là một người niệm Phật như vậy, nhưng kèm theo sự hộ niệm, chuẩn bị sự hộ niệm cẩn thận, khuyên nhắc kịp thời, thì “Một ngàn người tu một ngàn người vãng sanh chư vị ơi! Một vạn người niệm Phật một vạn người vãng sanh. Muôn người tu muôn người đắc. Đây là lời nói của chư Tổ chứ không phải là lời nói của Diệu Âm đâu.

Như vậy thì câu nói “Một vạn người tu, một vạn người đắc” đây có nghĩa là, những người quyết lòng niệm Phật nhưng phải chuẩn bị cái duyên thuận lợi khi rời bỏ báo thân này, luôn luôn hỗ trợ tốt cho nhau, đừng bao giờ tách rời đường dây tiếp độ của A-Di-Đà Phật, thì “Một vạn người tu, một vạn người đắc”.

Ngài Vĩnh-Minh nói rằng: “Vạn nhân tu vạn nhân khứ”. Ngài Thiện-Đạo nói: “Muôn người tu muôn người vãng sanh”. Ngài Ấn-Quang nói: “Người nào niệm Phật cũng được vãng sanh hết”.

Khi chúng ta hiểu được đạo lý này thì chuyện hộ niệm cho người vãng sanh trở nên là đại ân nhân, đại cứu tinh cho những người trong thời đại mạt pháp này muốn vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc. Chắc chắn như vậy!... Một chứng minh cụ thể, hồi sáng này tôi có khoe ra một người Thiên Chúa giáo vãng sanh. Một người Thiên Chúa giáo thì đâu có niệm Phật nhiều như mình. Họ chưa bao giờ kết hợp với nhau thành một nhóm như thế này để ngồi bên địa chung niệm “A-Di-Đà Phật” đâu. Thế mà được cái “Duyên” là người ta khuyên niệm câu A-Di-Đà Phật khi bị ung thư chờ chết. Khuyên người đó niệm Phật là “Duyên”. Người đó phát tâm niệm câu A-Di-Đà Phật là “Nhân”. Cái nhân này kết hợp với sự “Hộ Niệm” tức là “Nhân Duyên” đầy đủ. Kết quả là người đó vãng sanh về Tây-Phương Cực-lạc.

Giả sử như ta khuyên người đó niệm Phật. Khi người đó niệm Phật rồi, mình nghĩ rằng vậy là đủ, cứ để mặc họ tự tu lấy... Thì sau cùng người đó cũng đành phải chìm đắm trong nghiệp báo để chịu nạn nhiều đời nhiều kiếp mà thôi!...

Chính vì vậy, khi hiểu được con đường hộ niệm vãng sanh, xin hãy cố gắng nghiên cứu thêm cho thật kỹ, rồi chúng ta hãy kết bè với nhau tu hành theo tiêu chuẩn của ngài Ấn-Quang Đại Sư đưa ra trong thời này thì rất tốt.

Ngài đưa ra như thế nào?... Một Niệm Phật Đường, một Đạo Tràng thành tựu là đưa được một người vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc, chứ không phải là một đạo tràng có hàng vạn người tới tu…

Xin quý vị nghe kỹ câu nói này của ngài. Lạ lắm!... Nghĩa là, một chỗ nào đó có thể giúp cho một người vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc, thì đạo tràng đó được gọi là “Đạo Tràng Thành Tựu!”... Lạ không?...

Như vậy, những đạo tràng nào mới dễ được thành tựu?... Ngài giới thiệu cho chúng ta một kiểu mẫu: Kết nhóm với nhau, năm người, mười người, nhiều lắm là hai chục người với một trưởng tràng nữa là hai mươi mốt người... Đủ rồi. Không cờ, không bảng hiệu, không khoe trương, không làm pháp hội, không hóa duyên... Cứ âm thầm lặng lẽ, một đường mà tu, một câu A-Di-Đà Phật mà niệm, rồi hỗ trợ cho nhau khi lâm chung, tức là hộ niệm cho nhau… thì đạo tràng này sẽ là đạo tràng thành tựu trong thời mạt pháp này.

Chúng ta lấy toàn những lời nói của chư Tổ, và đúng là ứng hợp căn cơ chúng ta. Cho nên rất là may mắn khi quý vị đã kết hợp với nhau tu hành theo hình thức này. Đây đúng là tiêu chuẩn của ngài Ấn-Quang Đại Sư đưa ra. Nghĩa là, cuối cùng chúng ta đã đi đúng đường rồi. Thành tâm chúc mừng chư vị.

Chúng ta đang đi càng ngày càng gần với Tây-Phương Cực-Lạc. Khi xả bỏ báo thân này nhất định chúng ta sẽ trở về Tây-Phương thành Đại Thượng Thiện Nhân để thành tựu đạo quả trong một đời này.

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

THIỆN-CĂN, PHƯỚC-ĐỨC, NHÂN-DUYÊN

Tọa Đàm 3

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

Nếu nói “Khai Thị”, xin thưa thật là Diệu Âm không dám nhận lời. Hướng dẫn một vài điểm nhỏ nhoi trong công cuộc niệm Phật vãng sanh về Tây-Phương, thì biết được chút nào Diệu Âm xin thành tâm nói chút đó, chứ không dám nhận lời khai thị đâu.

Ngày hôm nay chúng ta kết hợp với nhau đến ngày thứ hai để niệm Phật, đây là một cơ duyên thù thắng, dù rằng phương pháp tu hành này còn hơi mới mẻ, thành ra chúng ta cũng có chút ít bỡ ngỡ, và cái phước báu chúng ta cũng không lớn lắm, nên khung cảnh tu tập cũng hơi chật hẹp, nhưng điều này không quan trọng. Điều quan trọng là làm sao chúng ta phải về cho được Tây-Phương trong một báo thân này, đó mới là chính.

Muốn về được Tây-Phương thì lòng “Khiêm Nhường - Chí Thành - Chí Kính” là điểm chính yếu để chúng ta thành đạo. Thật sự chúng ta đều là hàng hạ căn phàm phu! Đã là hàng hạ căn phàm phu thì chỉ nhờ tấm lòng chí thành chí kính mà được đức A-Di-Đà tiếp dẫn ta về Tây-Phương…

Có dịp nào đó quý vị về Việt Nam, hãy đi hỏi những vị hộ niệm, người ta sẽ kể cho quý vị nghe những chuyện vãng sanh. Hầu hết ban hộ niệm nào cũng đều có sự nhận định hơi giống nhau một điều này, là chỉ có người nào tánh tình hiền lành, chất phát, thật thà, khiêm nhường mới dễ được vãng sanh. Nhờ kinh nghiệm này, mà các ban hộ niệm không cần đòi hỏi người bệnh đó tu giỏi, tu dở. Người ta không cần điều tracông phu trong quá khứ của người này như thế nào, mà chỉ cần họ thấy người này hiền lành, chất phát thì họ rất hoan hỷ, những vị thành viên trong ban hộ niệm cũng rất sốt sắng đến hộ niệm cho người đó.

Những người trưởng ban hộ niệm kể lại chuyện vãng sanh, hầu hết họ đều chú ý về yếu tố hiền lành này. Nếu gặp một người bệnh hiền lành thì họ có thể đoán trước rằng người bệnh đó trên chín mươi phần trăm sau khi ra đi sẽ để lại thoại tướng rất là tốt. Lạ lắm! Tình thật, Diệu Âm cũng không phải là người lịch lãm lắm trong phương pháp hộ niệm, nhưng cũng từng tham dự hộ niệm qua một số ca rồi, cũng rất đồng ý với sự phán đoán này.

Những người nào càng hiền lành chừng nào, càng chất phát chừng nào, càng thật thà chừng nào lại càng dễ vãng sanh chừng đó. Lạ lắm!...

Trong những khoảng thời gian gần đây có một số người chủ trương niệm Phật nhất tâm bất loạn để vãng sanh, và thường đưa ra những phương thức giúp cho người đồng tu niệm Phật được nhất tâm bất loạn. Diệu Âm thấy rằng những chương trình này tốt chứ không phải xấu, tại vì nhất tâm bất loạn là cái điểm cao tột của người niệm Phật. Nếu ta công phu chứng đắc được ta sẽ an nhiên tự tại vãng sanh về Tây-Phương. Đến lúc đó chúng ta không cần nhờ đến những người hộ niệm làm chi. Đây là điều đáng khen.

Nhưng thực tế, trong thời đại này, với cái căn cơ cỡ như Diệu Âm đây, tình thật mà nói là không cách nào có thể đạt được cái cảnh giới nhất tâm bất loạn! Vì vậy, khen thì khen, nhưng chính Diệu Âm này không dám thực hiện! Diệu Âm chỉ thường khuyên rằng, chư vị hãy cố gắng khiêm nhường, thật thà để cầu cảm thông được với A-Di-Đà Phật, cảm thông với chư vị đại Bồ-Tát, và nhất là cảm thông chư vị oan gia trái chủ để khi mình nằm xuống chỉ cần chắp tay lại nói một lời:

- Nam Mô A-Di-Đà Phật. Chư vị ơi! Hồi giờ tôi mê muội, tôi làm sai rồi!... Bây giờ tôi thành tâm xin sám hối với chư vị. Xin chư vị buông tha cho tôi, chúng ta hãy cùng nhau về Tây-Phương thành đạo. Tôi hứa ngày nào còn sống, tôi còn niệm Phật hồi hướng công đức cho chư vị. Ngày mà tôi về được Tây-Phương Cực-Lạc rồi, tôi sẽ quyết lòng tìm mọi cách để cứu độ chư vị...

Xin thưa, chỉ cần một lời nói chân thành như vậy, một lần, hai lần, ba lần thì tự nhiên những oán nạn về oan gia chủ nợ hình như biến mất đi hồi nào không hay. Nhất là được những người hộ niệm đến bên cạnh mình, tiếp sức với mình, thành khẩn điều giải oan gia trái chủ, thì hầu hết những oán nạn đều có thể được giải tỏa. Tôi chỉ nói hầu hết chứ không dám nói một trăm phần trăm đâu.

Ấy thế một khi chúng ta muốn niệm Phật cho nhất tâm bất loạn, nếu là người thượng căn, hàng đại Bồ-Tát thì không có vấn đề gì xảy ra cả. Nghĩa là thật sự họ an nhiên tự tại vãng sanh. Chứ còn nếu hàng trung hạ căn như chúng ta mà mơ cầu đến chuyện đó thì thật sự thường gặp phải những chướng nạn khá lạ lùng!...

Hôm nay Diệu Âm cũng xin thưa lại những việc có thật đã xảy ra, để chư vị tự suy nghĩ thử, hầu thấy được con đường nào là dễ hành, con đường nào là khó tu?...

Thứ nhất, khi mình niệm Phậtquyết lòng cầu nhất tâm bất loạn, thì với cái hạng căn cơ như chúng ta thường thường đưa đến tình trạng vọng tưởng nhiều lắm, có những chứng đắc giả nó ứng hiện ra. Rồi vì tâm cơ của mình yếu quá nên không nhận ra được đó là hão huyền! Những điều hão huyền đó càng ngày càng thấm sâu vào tâm, đến một lúc nào đó mình không còn sáng suốt để nhận ra nữa!... Vì thế mà sau cùng rất dễ bị hại!

Ở tại Úc, Diệu Âm có một người bạn đã quyết lòng niệm Phật cầu nhất tâm bất loạn. Anh đã chứng những cảnh giới gì đó không biết, mà nghe kể ra thì cũng hay lắm! Cách đây gần hai năm Diệu Âmthành tâm khuyên anh ta hãy giữ lòng khiêm nhường niệm Phật đi thì hay hơn, đừng nên mơ cầu thái quá. Nhưng anh vẫn khẳng định là mình có chứng đắc. Anh ta đôi lúc có thấy được hào quang gì đó phóng đến và trí huệ của anh hình như sáng ra!?…

Có nhiều lúc anh ta gặp tôi thì nhìn qua, nhìn lại, nhìn phía sau... Dường như anh đang nhìn thấy được cái quang minh gì đó? Lạ lắm!... Tôi nói, thôi đi!... Tôi không có quang minh gì đâu. Anh hãy lo niệm Phật đi, cố gắng đừng có mong cầu như vậy nữa nhé… Nhưng anh không nghe theo.

Thì cách đây cỡ hai tháng, tôi có đến thăm anh, nhưng lần này tôi lại đến thăm một người đã bị tẩu hỏa nhập ma rồi! Anh ta phải vào trong bệnh viện tâm thần, bác sĩ tâm thần đang theo dõi liên tục. Tôi không biết bây giờ tình trạng của anh như thế nào?... Tôi đã đoán biết rằng hiện tượng bất tường này có thể sẽ xảy ra cho anh ta, nhưng tôi đã khuyên hai-ba lần rồi, mà anh ta không nghe theo. Tôi đành chịu thua! Không biết cách nào khác hơn là đành chờ đến ngày anh ta thọ nạn rồi đến thăm mà thôi! Thấy anh bị nạn, tôi cũng định dùng phương pháp điều giải để hóa gỡ dùm cái chuyện nhập thân, nhưng chỉ mới nói chuyện qua được có một lần, sau đó thì có một vị nào đó giới thiệu tới một thầy pháp nào hay lắm! Vậy thì cũng tùy duyên thôi, chứ tôi cũng không biết làm cách nào khác hơn?

Có một vị khác nữa cũng tới nói với tôi rằng, “Mình đã đột phá được cảnh giới Hoa-Nghiêm rồi”. Chư vị có biết đột phá cảnh giới Hoa-Nghiêm có nghĩa là sao không?... Có nghĩa là người đó đã “Minh Tâm Kiến Tánh” rồi, là thuộc hàng Sơ Trụ Bồ-Tát rồi đó. Sơ Trụ Bồ-Tát mới bắt đầu đột phá được tới cảnh giới Hoa-Nghiêm. Tức là họ đã trở về được với “Chân Tâm Tự Tánh” rồi.

Vị này có những năng lực giống như là thần thông rất cao vậy. Ví dụ như anh đang nghĩ gì, ngày hôm qua anh đã làm gì, họ có thể nói ra vanh vách hết. Vị đó ở cách xa Diệu Âm cỡ trên một trăm năm mươi cây số, nhưng có thể nghe được mình nói gì. Có một thời gian Diệu Âm bị bệnh, buổi sáng không tụng kinh được, thì sau một tuần vị đó đến thăm và hỏi Diệu Âm như thế này:

- Tại sao trong tuần qua chú không tụng kinh? Trong khi hàng ngày mỗi sáng thường khi chú tụng kinh Vô-Lượng-Thọ, mà tại sao trong tuần qua chú không tụng?

Tôi nói:

- Dạ, tại vì con bị bệnh...

- Anh không cần nói tôi cũng biết rồi. Tôi nhập vào trong định và quán thì thấy được quang minh của anh, tôi biết anh bị bệnh. Chính vì vậy mà tôi về thăm anh đây.

Vị đó nói như vậy. Tức là chứng tỏ đã có một sự chứng đắc gì đó khá cao?... Có nhiều vị khác thấy vậy phải quỳ xuống muốn tôn làm sư phụ. Ấy thế mà có một dịp đến gặp Hòa Thượng Tịnh-Không, thì khi tiếp vị đó khoảng năm phút, Hòa Thượng đã quyết định dứt khoát mời vị đó ra khỏi Tịnh-Tông. Sau đó ra ngoài ở khoảng chừng hai tháng sau thì vị đó đã bị trở ngại vô cùng!...

Những chuyện này Diệu Âm biết qua, xin kể sơ lại thôi. Đây là những bài khai thị rất tốt để cho chúng ta biết rằng, sự chứng đắc đối với hàng phàm phu chúng ta khó lắm! Đã khó mà chúng ta cứ muốn làm, nhiều khi tâm nguyện chúng ta thì quá cao, mà lực của chúng ta thì quá yếu, gọi là “Lực bất tòng tâm”... Có nghĩa là cái tâm chúng ta muốn đạt cảnh giới cao, mà cái khả năng, cái năng lực của chúng ta không đạt tới được! Khổ một nỗi, đạt không tới được mà cái tâm của chúng ta vẫn cứ vọng cầu. Nếu đạt tới gọi là chánh cầu, đạt không tới gọi là vọng cầu. Hễ vọng cầu thì thường ứng với vọng cảnh! Ứng tới vọng cảnh, nhưng khổ một nỗi là tâm chúng ta chưa sáng, trí huệ chưa khai, nên thường lầm lẫn! Lầm lẫn giữa vọng cảnh và chứng đắc, thành ra bị vướng nạn! Tu hànhsơ ý, sau cùng rất dễ bị nạn là như vậy…

Với lòng thành tâm, trong thời gian gần đây Diệu Âm luôn luôn khuyên đồng tu nên nghe lời dạy của ngài Ấn-Quang để tu hành, hãy cố gắng giữ tâm niệm khiêm nhường, khiêm cung, từ ái... để tu mới tốt.

- Nhờ cái lòng khiêm cung và chí thànhchúng ta cảm thông được với chư Thiên-Long Hộ-Pháp gia trì.

- Nhờ cái lòng khiêm cung chúng ta mới điều giải được với các vị trong pháp giới hữu duyên.

- Nhờ cái lòng chân thành rất dễ cảm ứng với đại nguyện của đức A-Di-Đà.

Ngài đã phát một lời thề là người nào nghe danh hiệu của Ngài mà chí thành tin tưởng, vui vẻ, rồi đem các công đức lành hồi hướng về nước của Ngài rồi cầu nguyện vãng sanh về Tây-Phương thì Ngài sẽ cứu chúng ta về Tây-Phương. Đây là lời đại thệ Ngài cứu độ vô lượng vô biên chúng sanh, bao gồm cả thượng, trung, hạ căn đều được tiếp độ về Tây-Phương Cực-Lạc. Đại nguyện này cũng chính là để cứu độ những người phàm phu tục tử như chúng ta.

Thấy được điều này, Diệu Âm xin khuyên rằng, chúng ta hãy mau mau xác định ta là hàng phàm phu hạ căn. Giả sử như mình nói sai một chút, vì mình là hàng thượng căn mà lại cho là hạ căn thì càng tốt. Người thượng căn mà tánh tình khiêm nhường như vậy lại càng dễ thành đạo. Nếu ta là hàng trung căn mà cứ tự nhận mình là hạ căn thì lại được Ngài tiếp đón còn dễ hơn nữa. Chứ nếu mình làm những cái gì đó vượt qua căn cơ của mình, mơ cầu những gì vượt qua căn cơ của mình thì thường thường tâm thượng mạn dễ tăng lên lắm! Một khi thượng mạn tăng lên, ít khi cảm thông được với chư vị Thiên-Long Hộ-Pháp, ít khi cảm thông được với chư vị Bồ-Tát. Ngược lại, thường dễ bị oan gia trái chủ cài vào những cái bẫy làm cho chúng ta bị hại, khó có thể ngăn ngừa được! Chính vì thế sau cùng thường bị nhiều khó khăn!...

Ngưỡng mong chư vị cố gắng lấy lòng khiêm nhường này để chúng ta cùng nhau tu hành, nương nhau đi về Tây-Phương thành đạo…

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

THIỆN-CĂN, PHƯỚC-ĐỨC, NHÂN DUYÊN

Tọa Đàm 4

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

Diệu Âm nghe cư sĩ Tâm Nhật Thuyết nói về “Trình bày”, tôi tưởng là trình bày về hộ niệm, không ngờ anh ấy lại chuyển chữ “Hộ Niệm” thành “Tu Tập”. Chữ “Tu Tập” của người hạ cănchúng ta đang chọn lựa một phương cách tu tập rất đơn giản, đơn giản nhất trong tất cả các pháp môn. Trong kinh Phật gọi là pháp mônDị Hành”. Pháp môn dễ làm. Dễ làm nhưng lại có kết quả thù thắng.

Tại sao đức Thế-Tôn lại đưa ra một pháp môn rất là dễ dàng, trong khi cũng có rất nhiều pháp môn tu tập rất khó khăn? Xin thưa, đến cái thời mạt pháp này, nếu mà không có một pháp môn dễ dàng, thì chúng sanh không còn có cơ hội nào được độ thoát. Nếu đức Thế-Tôn không đại từ đại bi, không có chỉ bày cho chúng ta cái pháp môn niệm Phật, thì đến thời mạt pháp này, người tu thì có tu, mà người đắc thì không có đắc!...

Nếu một giáo pháp đưa ra mà không có một người nào chứng đắc, thì chẳng lẽ giáo pháp đó bị ế rồi làm sao?...

Trong thời mạt pháp này mà những người tu hành như chúng ta lại được vãng sanh về tới Tây-Phương Cực-Lạc, xin quý vị hãy suy nghĩ thử?... Chúng ta đang ngồi trong một căn nhà nhỏ, một cái Niệm Phật Đường về hình thức thì không có trang nghiêm, đồ sộ, nguy nga như những nơi khác, ấy thế mà chúng ta lại có một niềm hy vọng rất vững chắc để được vãng sanh thành đạo. Phải chăng hình như là chúng ta đang ở trong thời kỳĐại chánh pháp”, chứ không phải là thời “Chánh phápbình thường. Kỳ lạ không quý vị?...

Ngài Ấn-Quang Đại Sư nói rằng, nếu mà chúng ta bỏ con đường niệm Phật cầu về Tây-Phương, thì trong chín pháp giới chúng sanh không thể nào nghĩ rằng có thể có người thành tựu đạo quả. Ngài nói tới chín cõi pháp giới chứ không phải chỉ là cõi người không. Cõi người chẳng qua là một trong sáu cõi trong lục đạo, còn phải cộng thêm ba cõi nữa là Thanh-Văn, Duyên-Giác, Bồ-Tát, là những vị vượt qua tam giới rồi đó. Ngay cả những vị đã vượt qua tam giới đó, nếu họ không tu trì theo pháp niệm Phật, thì họ cũng không thể thành tựu đạo quả.

Chính vì vậy, mình là người sinh ra trong thời mạt pháp thì tội chướng rất sâu nặng, nhưng nếu chúng ta:

- Nhất định quyết lòng nghe lời Phật dạy

- Nhất định không còn thay đổi gì nữa.

- Nhất định một đường mà đi… Thì theo như kinh Phật nói.

- Nhất định những người này là những đại hành giả đang đi về Tây-Phương, một đời thành đạo.

Chư Tổ truy trong kinh ra mà nói rằng, những người tin vững vàng, những người một đường đi về Tây-Phương, rồi trì giữ danh hiệu A-Di-Đà Phật mà niệm, thì các Ngài nói: “Một ngàn người tu một ngàn người đắc. Một vạn người tu một vạn người đắc. Muôn người tu muôn người đắc”.

Trong khi cũng là trong kinh, đức Thế-Tôn nói: “Thời mạt pháp ức vạn người tu, khó tìm một người chứng đắc”. Ấy thế mà chư Tổ lại nói: “Muôn người tu muôn người đắc”. Hai câu nói này hình như là một sự đối nghịch nhau hoàn toàn! Lạ lùng!…

Vậy thì, đúng nghĩa câu Phật nói: “Ức vạn người tu khó tìm ra một người chứng đắc”, là chỉ cho những người trong thời mạt pháp này mà không chịu niệm Phật. Còn câu nói: “Muôn người tu muôn người đắc”, là chỉ cho người nào nương theo pháp niệm Phật thì đều có cơ hội chứng đắc. Đây là câu nói dành riêng cho những người quyết lòng trì giữ câu A-Di-Đà Phật.

Chính vì thế mà trong mấy ngày qua, Diệu Âm thường hay nhắc nhở rằng phải giữ cái tâm này vững vàng thì một đời này chúng ta thành tựu. Nếu chúng ta niệm Phật, niệm năm này qua năm nọ, sao thấy pháp môn có vẻ đơn giản quá! Nhẹ nhàng quá!… Đi ra ngoài nghe có người nói rằng, làm gì mà có chuyện niệm Phật vãng sanh dễ dàng như vậy! Tâm ta liền bị thối chuyển! Tâm ta liền bị phân vân!... À!… Ông này nói cũng phải. À!… Vị kia nói cũng đúng... Thế thì chúng ta lại trôi theo cái dòng người gọi là: “Ức vạn người tu hành khó tìm ra một người chứng đắc” rồi!... Chúng ta đành đoạn bỏ cái cơ hội vãng sanh về Tây Phương thành đạo rồi! Thật sự oan uổng vô cùng!...

Cẩn thận hơn, chúng ta đã nói niệm Phật rồi, mà còn nói thêm hộ niệm nữa là để xác định vị trí của chính chúng ta trong pháp giới là thuộc hàng dở ẹt! Dở thậm tệ! Mình phải tự xác định mình là hàng dở thậm tệ. Đức A-Di-Đà phát đại thệ tiếp độ chúng sanh, thật ra đại thệ của Ngài là nhằm cứu những người dở thậm tệ này. Đây là lời nói của Ngài Pháp-Nhiên Thượng-Nhân, một vị đại Tổ Sư Tịnh-Độ-Tông của Nhật Bổn. Sau này phát hiện ra Ngài chính là Đại-Thế-Chí Bồ-Tát ứng thân mà mình không hay. Ngài thị hiện lăn lộn trong đại chúng, cũng bị tù bị tội, cũng bị người ta ép uổng chịu khổ đủ thứ hết!... Nhưng cuối cùng phát hiện ra Ngài chính là Đại-Thế-Chí Bồ-Tát tái lai. Ngài nói, A-Di-Đà Phật phát đại thệ để cứu những người rất là dở, tội chướng thật sự thâm trọng. Vì để cứu được người quá dở, tội chướng sâu nặng nên Ngài chỉ đưa ra cái điều kiện rất dễ dàng:

Các con phải tin lời nói của ta, các con phải phát nguyện vãng sanh về nước của ta, các con hãy trì giữ danh hiệu của ta là được rồi.

Bao nhiêu nghiệp chướng trùng trùng trong quá khứ, chúng sanh tội chướng sâu nặng như chúng ta hình như đã bỏ xa nghiệp chướng ra rồi. Nghiệp chướng không còn vướng mắc chúng ta nữa rồi…

Xin thưa với chư vị, trong thời mạt pháp này mà chúng ta gặp được cái cơ may này, quý hóa không thể nào mà tưởng tượng được! Một nỗi vui mừng lớn lao không có nguồn vui nào lớn hơn! Ấy thế mà xin thưa với chư vị, vẫn còn phải cố gắng cẩn thận một điều. Ngài nói là Ngài quyết lòng cứu độ tất cả chúng sanh, chữ tất cả này có nghĩa là chỉ cho hàng phàm phu tục tử, chứ không bao giờ chữ tất cả này nhằm chỉ cho hàng đại Bồ-Tát đâu. Như vậy chúng ta là hàng “Đương Cơ” của pháp môn niệm Phật. Mà đã là đương cơ của pháp môn niệm Phật rồi thì phải tự xác nhận rằng mình có tội chướng sâu nặng mới được! Người tội chướng sâu nặng nếu chỉ cần gợi lên trong tâm một ý niệm tăng thượng mạn thì đành phải rời quang minh của A-Di-Đà Phật để tự hứng chịu những cảnh trầm luân, báo hại bởi nghiệp chướng!...

Vì thế, mấy ngày nay, Diệu Âm nói rất tha thiết rằng, muốn vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc thì hai chữ “Khiêm Cungnhất định chúng ta phải gìn giữ từ giờ này cho đến ngày vãng sanh! Nhớ được điều này, thì dù chúng ta niệm Phật có miên mật như thế nào đi nữa, dù tâm chúng ta có an khang như thế nào đi nữa, xin chư vị cũng cố gắng nhớ lời của Bồ-Tát Đại-Thế-Chí ứng hiện thành Ấn-Quang Đại Sư nói: “Càng tu phải càng khiêm nhường. Càng tu phải coi mình là hàng phàm phu tục tử. Nhất định phải nghĩ mình có nghiệp chướng sâu nặng”. Ngài còn dạy là phải đem chữ “Tử” dán ở trên đầu.

Một người phàm phu mà chết thì bị đọa lạc! Vì sợ bị đọa lạc nên phải lo ngày lo đêm để niệm Phật. Chúng ta đang ngồi trong này có hơi ấm, nếu bước ra ngoài cửa thì lạnh buốt xương. Đứng ở bên ngoài chịu lạnh buốt xương như vậy một tiếng đồng hồ thôi chư vị sẽ thấy cái khổ sở của khí lạnh như thế nào! Lúc đó mình mới mong cho người ta mở cửa để được bước vô trong nhà. Bước vào trong rồi mới thấy cái giá trị ở trong cửa và ngoài cửa khác nhau như thế nào?...

Chỉ cần có ai đó mở cửa cho chúng ta vào, tự nhiên đây là cả một cái ân huệ vô cùng lớn lao cho ta khi đang bị lạnh. Xin thưa chỉ cần ở ngoài khí lạnh một tiếng đồng hồ thôi mà chúng ta còn có cảm giác khó chịu như vậy, huống chi là bị đọa lạc!… Ngài Ấn-Quang đại sư nói, người nghiệp chướng sâu nặng này khi chết sẽ chịu trầm luân trong lục đạo. Mà thật ra... chịu trầm luân trong ba cảnh khổ đời-đời cho đến vạn kiếp nữa! Bị cái cảnh này dễ sợ vô cùng! Quá sợ đi! Vì quá sợ, nên mới thấy được giá trị của câu A-Di-Đà Phật, nhất định nó quý không tưởng tượng được. Ngài nói:

- Sợ địa ngục mà lo niệm Phật.

- Sợ tam đồ mà lo niệm Phật.

- Sợ chết rồi vạn kiếp không thoát được những cảnh khổ mà phải lo niệm Phật.

Ngài dạy phải dùng cái chữ “TỬ” mà dán trên đầu. Mình đâu có dám dán! Dán như vậy bị người ta cười chê! Kỳ quá! Ai dám dán! Nhưng chúng ta phải nghĩ rằng khi chết đi, có thể ta bị đọa lạc! Một lần bị đọa lạc, thì vạn kiếp chịu khổ đau! Thế mới biết câu A-Di-Đà Phật thật sự là một đại cứu tinh cho chúng ta. Bên cạnh đó chúng ta nghiên cứu thật kỹ phương pháp hộ niệm. Phương pháp hộ niệm là đại cứu tinh trong đại cứu tinh giúp chúng ta vững vàng đi về Tây-Phương Cực-Lạc đó.

Vì sao vậy?... Vì xin thưa với chư vị, chúng ta đang niệm Phật là do thiện căn phước đức nhiều đời nhiều kiếp ứng hiện về. Nhưng bên cạnh đó nhiều rất là nhiều, lớn rất là lớn những nghiệp chướng vẫn có song song bên cạnh, ở sát bên ta chứ không đâu xa cả! Oan gia trái chủ trùng-trùng điệp-điệp vẫn ở sát bên ta, đang chờ từng ngày, từng giờ, từng phút cái thời điểm ta chết để người ta báo oán, người ta đòi nợ, người ta trả thù những chuyện mình làm sai lầm với họ.

Muốn giải ách nạn này, hằng ngày chúng ta phải thành tâm đem công đức tu hành hồi hướng cho pháp giới chúng sanh, hồi hướng cho chư vị oan gia trái chủ. Muốn hồi hướng cho họ, muốn điều giải được với oan gia trái chủ thì quan trọng nhất chính là sự khiêm cung của người niệm Phật. Một người niệm Phật mà không có tính khiêm cung thì nhất định không thể nào điều giải được nạn oan gia trái chủ!… Chắc chắn! Không có ý niệm khiêm cung thì nhất định bị oan gia trái chủ lợi dụng. Lợi dụng để hãm hại những người không biết tu thì quá đơn giản, nhiều khi họ không cần làm. Lợi dụng để hảm hại, trả thù một người đã biết niệm Phật thì họ cần phải lựa những đòn thế vô cùng tinh vi, vô cùng tế nhị mới được. Nếu chúng ta không để ý thì cũng khó mà biết đó.

Ví dụ như mấy ngày qua chúng ta đưa ra những người tự xưng mình là đã đột phá cảnh giới Hoa-Nghiêm làm ví dụ. Những người đã đột phá được cảnh giới Hoa-Nghiêm tức là đại Bồ-Tát rồi. Đối với chúng ta họ là những vị Phật rồi. Bốn mươi mốt vị Phật trên cảnh giới Hoa-Nghiêm, họ là một trong những vị Phật đó rồi.

Nhưng tội nghiệp thay! Những người tự xưng như vậy chắc chắn đã vô ý quên đi cảnh giới phàm phu tục tử của mình. Đã sinh ra trong thời mạt pháp mà còn dám tự xưng này xưng nọ!... Chỉ một sơ ý này thôi, bị oan gia trái chủ cài bẫy liền. Cài bẫy gì?... Cài cho một sự chứng đắc tuyệt vời! Cách xa một trăm năm mươi cây số vẫn nghe tiếng một người nói chuyện. Quý vị hãy tưởng tượng đi. Có nhiều người cảm phục đến nỗi muốn quỳ xuống tôn làm sư phụ. Chắc chắn họ phải có những sự chứng đắcvi diệu chứ? Nhưng khi đối trước ngài Tịnh-Không đã bị mời ra khỏi đạo tràng. Hai tháng sau đó thì không còn ai dám chứa nữa!…

Đây là những lời khai thị rất sắc bén để chúng ta cố gắng gìn giữ. Nhất định ta là phàm phu phải đi theo con đường phàm phu thấp nhất và khiêm cung nhất thì chúng ta sẽ được cảm ứng đến đại nguyện của đức A-Di-Đà Phật, cảm thông với hai mươi lăm vị Bồ-Tát Quán-Thế-Âm, cảm thông với rất nhiều chư Thiên-Long Hộ-Pháp. Các Ngài sẽ bảo vệ cho chúng ta và sau cùng chúng ta được A-Di-Đà Phật phóng quang tiếp độ vãng sanh về Tây-Phương.

Nguyện mong chư vị, những lời nói đơn giản mộc mạc này có lẽ cũng giúp cho chúng ta biết được con đường nào là đường an toàn để đi về Tây-Phương. Còn những ý nghĩ nào là điều sơ suất có thể làm cho chúng ta đáng lẽ được bước lên đài sen thành đạo, mà lại bước lui vào cảnh thối chuyển thì phải tránh!... Một khi lui ra khỏi đài sen thì bị sụp xuống một cái hố rất sâu. Trên miệng hố đó… ngước nhìn lên... dường như ta thấy được con thuyền Bát-nhã của A-Di-Đà Phật, nhưng lúc đó cũng đành chịu thua rồi, ta không còn cách nào đi về Tây-Phương được nữa!...

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

THIỆN-CĂN, PHƯỚC-ĐỨC, NHÂN-DUYÊN

Tọa Đàm 5

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

Trong cảnh sanh tử luân hồi, lại đi vào thời mạt pháp rồi thì thường thường sau khi mãn báo thân này chúng ta khó có thể tránh ba đường ác hiểm! Đây là điều mình sợ nhất! Còn những thứ chướng nạn gì khác trên đời, xin bạch với Sư Cô cùng chư vị, thật ra không có gì đáng sợ lắm đâu…

Có nhiều lúc mình thấy là “Nghịch Duyên”, nhưng nếu biết ứng xử thì có thể biến cái nghịch duyên đó thành thuận duyên mà không hay! Nhiều khi tưởng là thuận duyên, nhưng nếu mình sơ ý có thể lại biến thành nghịch duyên! Trong mấy ngày hôm nay chúng ta có đưa ra những chuyện như vậy. Ví dụ như hồi sáng mình kể một câu chuyện một người tưởng rằng mình đang thuận duyên tu hành, có chứng đắc, khai mở trí huệ, đạt được những sự thần kỳ diệu dụng… Nhưng không ngờ đó lại là nghịch duyên, làm cho vị đó bị trở ngại quá nặng!... Trong khi đó thì cũng có những người mới nhìn qua tưởng như là nghịch duyên, là ách nạn, nhưng thật ra lại là duyên lành.

Một người thì bị ách nạn liên quan tới chữ ái, đã bị trở ngại trên mười năm. Nhưng khi hiểu ra đạo lý, mới đem lòng chân thành, chí thành ra điều giải, không ngờ lại biến thành thuận duyên, đôi bên đều lưỡng lợi, vui vẻ. Một cảnh nghịch duyên khác thuộc về ác duyên, giống như chư vị oán thân chủ nợ trong nhiều đời nhiều kiếp đến báo thù đòi nợ rất hung hãn, làm cho vị đó đã tự tử hai lần, nhưng may mắn là không chết. Sau cùng cũng đem lòng chân thành chí tình ra khuyên giải, rồi quyết lòng niệm Phật. Cả hai trường hợp chỉ giải quyết trọn vẹn trong vòng ba ngày. Rõ ràng là đôi bên đều lưỡng lợi. Mình thì an toàn niệm Phật hồi hướng cho pháp giới chúng sanhchắc chắn không quên hồi hướng về Tây-Phương trang nghiêm Tịnh-Độ, còn các vị đó cũng được cái công đức của mình bồi đắp cho họ và do lời khuyên chí thành của người gọi là bị nạn mà giúp cho họ biết con đường tu hành.

Rõ rệt, lòng chí thành chí kính có thể hóa giải được chướng nạn. Cái điểm quan trọng là mình có thật sự thành tâm chí thành để điều giải hay không?...

Hôm nay nói về “Nhân Duyên”, Diệu Âm xin kể thêm một câu chuyện nữa thuộc về một phương diện khác, nhưng cũng có thể hóa giải được. Câu chuyện này liên quan đến không phải là oán thân trái chủ, cũng không phải là chữ ái, mà là thuận duyên.

Đó là vào năm 2005 khi Diệu Âm về Việt Nam, có một vị Phật tử phụ nữ, đi xe Honda tới gặp Diệu Âm tại nhà. Sau lúc nói chuyện tu hành, thăm hỏi qua lại cỡ chừng bốn mươi lăm phút, thì cuối cùng trước khi ra về, vị Phật tử đó có nói như thế này:

- Thưa thật với anh Diệu Âm, tôi tới thăm anh là do đứa em của tôi dẫn tới đây gặp anh.

Diệu Âm mới hỏi:

- Tại sao đứa em của chị không đến đây, và làm sao cô đó lại biết tôi?

Thì chị đó mới nói:

- Đứa em của tôi đã chết rồi!…

- Chết bao lâu?…

- Chết bảy năm nay. Chết từ lúc còn nhỏ.

Đứa em của chị đó chết trong lúc còn nhỏ. Người chị này vì quá thương đứa em, ngày đêm sầu khổ, khóc than! Có thể vì nỗi thương nhớ quá mạnh, nên cảm ứng sao đó không biết... đứa em mới nhập vào người chị. Trong khoảng thời gian đầu nhập thân, thường làm cho chị nóng nảy, buồn bực, không an. Gia đình có mời một vài vị nào đó tới giúp đỡ. Nhưng đứa em đó ngỗ nghịch quá, thường phá phách! Phá dữ lắm! Một lần nổi cơn phá phách như vậy làm cho chị cảm thấy nóng nảy, giận tức... Nhiều khi sợ, nhiều khi giận, nhiều khi buồn... Nói chung, tâm trí bất an!

Thì sau khi gặp một số vị Sư khuyên cái vong đó nên tu hành. Chị đó cũng được các vị khuyên cứ an tâm lo tu hành niệm Phật hồi hướng công đức. Chị mới phát cái tâm thành ra, (Đây là lời chị đó chỉ kể lại), là chị khuyên người em đó như vầy:

- Thôi bây giờ em lo tu hành đi, lo niệm Phật đi. Chị cũng niệm Phậthồi hướng công đức cho em.

Sau khi thành tâm khuyên như vậy, thì theo như chị nói, cỡ chừng sáu-bảy tháng nay đứa em không còn quậy phá chị nữa. Bây giờ đứa em cũng chấp nhận lo tu hành niệm Phật và chị cũng lo niệm Phật để hồi hướng công đức cho đứa em. Đứa em cũng hứa sẽ hộ pháp cho chị để cùng tu hành luôn. Câu chuyện xảy ra đại khái như vậy…

Lúc đó Diệu Âm cũng lấy lòng thành ra khuyên chị đó tiếp tục niệm Phật. Chị đó nói, đó là cái duyên của chị với đứa em. Đứa em là tình ruột thịt, nhập vào chị có lẽ cũng do cái duyên đặc biệt. Nhân gặp duyên mới thành ra sự việc này.

Cái nhân chính có lẽ vì chị quá thương mến đứa em. Vì quá thương nhớ nên thường buồn khóc, có thể chị đã thầm khấn cầu: “Em ơi! Hãy ứng mộng cho chị thấy, hay là về báo cho chị biết em ở đâu?... Khổ sở như thế nào?”...

Khi đứa em chết, gia đình không có một người nào biết hộ niệm, mà chỉ lấy lòng thương tiếc, khóc than đối xử với nhau!... Có lẽ nhiều khi chính vì tình thương của người chị quá mạnh, nên đứa em cũng không đành đi đầu thai. Đó là cái nhân mà sinh ra chuyện này. Đứa em lúc chết cỡ chừng bốn-năm tuổi thôi.

Bây giờ đã là nhân duyên, là chị em với nhau, nên tôi khuyên người chị đó hãy cố gắng niệm Phật tu hành. Rồi tôi cũng thành tâm khuyên người em đó luôn. Lúc đó tôi không biết đứa em có đang ở đó hay không? Nhưng tôi thầm nghĩ rằng đứa em đang ở tại đó. Tôi có hỏi chị:

- Hiện giờ đứa em của chị có ở trong mình của chị hay không?

Chị nói:

- Có.

Có! Như vậy thì những lời nói chuyện với nhau này đứa em của chị đã biết hết. Tôi cũng nghiêm chỉnhthành tâm khuyên người em rằng:

- Bây giờ nếu chị em đã có duyên như vậy, thì Diệu Âm này xin thành thật khuyên em cố gắng lo tu hành đi. Trở về cảnh giới của mình lo tu hành. Nếu thương chị thì chớ nên ứng nhập trong thân của chị nữa, nhiều khi hai cái cảnh giới khác nhau không được tốt! Hơn nữa, còn làm cho chị mình bất an và làm chính em cũng không biết đường nào để siêu thoát.

Tôi khuyên người em có thể nên tìm đến những đạo tràng, những cảnh chùa... Lúc nào ở đó người ta cũng rộng mở để cho mình tới tu hành. Thuận theo duyên của mình thích ở đâu, hãy nói với người chị tới chỗ đó để hỏi xin, hầu giúp mình có thể tới đó tu hành niệm Phật...

Rồi tôi nói với người chị cũng đừng có sợ. Đây là cái duyên lành, chứ không sao đâu. Em của mình không nỡ nào làm hại mình đâu. Tôi khuyên người chị hãy cố gắng niệm Phật. Trong thời này, công đức lớn nhất là niệm Phật. Phải niệm Phật. Cứ dùng lòng thương hại khuyên em niệm Phật cầu nguyện vãng sanh. Chị cũng phải niệm Phật nguyện vãng sanh. Nếu chị có cơ duyên đi về Tây-Phương trước, thì công đức của chị lớn vô cùng, chị sẽ hồi đáp cho đứa em thì đứa em nhiều khi cũng được siêu sinh Tịnh-Độ. Hiện tại bây giờ chị có công đức nào thì hồi hướng cho em công đức đó, và xin đứa em cũng lo niệm Phật đi, lo tu hành đi để cùng vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc. Câu chuyện đã xảy ra như vậy.

Quý vị thấy đó, vấn đề chướng duyên liên quan đến oan gia trái chủ, do lòng chí thành chí kính, ba ngày giải quyết cũng xong. Vấn đề tình ái giữa âm và dương xảy ra mười mấy năm trường, mà thành tâm hòa giải, thật sự hòa giải, chí thành hòa giải, đừng nên lưỡng lự, thì cũng trong ba ngày giải quyết xong...

Trở lại chuyện này, khi nói chuyện xong, thì chị đó đi về. Sau đó tôi không biết kết quả như thế nào? Nhưng có điều chắc chắn là đã hơn gần mấy tháng trước, đứa em không còn quậy phá chị nữa. Tại sao người em lại dẫn người chị đó tới gặp tôi?… Để làm gì? Tôi không biết!... Có duyên thì tôi cũng thành tâm tôi khuyên nhau như vậy.

Đây cũng là một lời khai thị khá hay cho chúng ta. Tất cả đều có nhân duyên trong đó. Có nhân duyên mới kết thành sự việc. Ta không nên buồn phiền, lo sợ thái quá nếu khi có sự việc tương tự xảy ra.

Giả sử, khi người chị gặp cái “Duyên” là người em nhập vào thân, nhưng người chị quá lo sợ, hoảng kinh chạy tìm pháp này pháp nọ để trục cái vong của người em ra, thì coi chừng cái “Thuận Duyên” này có thể biến thànhNghịch Duyên”, tình cảm chị em sẽ biến thành thù hận!

Từ nguyên nhân vì trước đó mình quá thương đứa em, một đứa em bị chết lúc còn quá trẻ. Vì quá thương em, tình cảm chị em quá mạnh, cho nên người chị thường thường khóc và nghĩ tới đứa em nhiều quá. Trong khi đó, đứa em chết đi đáng lẽ cũng được đầu thai chuyển thế rồi, nhưng chuyển thế không được vì quyến luyến đến tình thương quá nặng của người chị. Còn người chị thì cứ cầu này cầu nọ, mong sao cho em mình hiện thân về báo cho biết rằng em ở đâu để chị được yên tâm!... Không ngờ, vì tình thương này mà đưa đến đứa em nhập vào người chị, làm cho người chị cũng khó khăn trong vòng mấy năm trường!…

Nhưng cũng may mắn, gặp được vị Sư khuyên tu hành. Khi gặp Diệu Âm, thì Diệu Âm cũng chỉ thành tâm khuyên tương tự như vậy mà thôi. Diệu Âm cũng thành tâm khuyên đứa em đang ở trong thân của người chị, hãy nên tu hành đi, đừng nên bám víu vào cái cảnh vô thường này nữa. Đối với người em đã bị vô thường rồi, người chị cũng sẽ bị vô thường theo! Người em đang bị vô thường, không có chỗ nương dựa, phải nương nhờ vào thân người chị. Nương vào người chị thì sẽ làm cho người chị đau khổ không tốt, mà cuộc đời của người chị sau khi mãn rồi... Chẳng lẽ?... Chị em sẽ đi đâu đây?… Phải không?...

Cho nên, những chuyện này mình có thể dùng lời chân thành khuyên giải nhau được.

Thật sự, mình thấy rõ ràng là người âm cũng có tình cảm, người ta cũng có lý trí, người ta cũng có đủ tất cả những cái nào là: buồn, thương, nhớ... như chúng ta, chứ họ cũng không có gì gọi là quá đáng đâu.

Tôi ví dụ, như chuyện tại Niệm Phật Đường Liên-Hoa bên tây Úc, chắc quý vị đã nghe qua rồi chứ gì? Một ông chú chết rồi, chết vì xì-ke, mới ứng hiện về nhập vào thân người cháu, rồi dẫn người cháu đi đánh bài kiếm tiền để hút xì-ke. Mình thấy khi chết rồi, sống trong cảnh giới đó mà họ cũng có những cơn ghiền như người ở thế gian. Nhưng sau khi khuyên giải, khuyên tha thiết rằng hãy lo niệm Phật cầu vãng sanh. Người chú cũng chấp nhận tìm đường giải thoát. Một tuần sau ứng về nhập lại vào thân người cháu một lần nữa, dẫn tới đạo tràng đó để báo cáo: “Xin cám ơn chư vị, chư vị đã giúp cho tôi con đường siêu thoát. Bây giờ tôi đã biết đường siêu thoát rồi”... Diệu Âm không biết là đã siêu thoát về đâu, chỉ biết người chú đã trả lại cuộc sống bình thường cho người cháu.

Gặp trường hợp này nếu mình vội vã dùng những thế lực mạnh mẽ để xua đuổi họ, để đàn áp họ, nhiều khi nói những lời lỗ mãng với họ, thì từ “Cảnh Thuận” dễ biến thànhCảnh Nghịchhồi nào không hay!…

Như trường hợp vị ở gần chùa Hoằng Pháp là một ví dụ. Tôi dặn vị đó không được cho họ là những người ác, không được cho họ là ma, hay gọi là ma chướng, hay là oan gia trái chủ. Hoàn toàn trường hợp này không phải là oan gia trái chủ, mà họ chỉ vì chữ ái. Trong kinh Phật nói “Bất cát ái, bất ly Ta-bà”. Chữ Ái mà không buông thì nhiều khi mình đành phải chịu nhiều đớn đau lắm! Họ vì chữ ÁI của thế gian, thì bây giờ mình nên dùng chữ ÁI của nhà Phật để hóa giải.

Chữ “ÁI” của thế gian là “Tình Ái”. Chữ “ÁI” của nhà Phật chính là “Từ Bi”. Mình lấy lòng từ bi ra khuyên giải. Cái duyên “ÁI” thì mình lấy chữ “ÁI” để giải. Chữ “ÁI” này chính là “TỪ BI, THƯƠNG YÊU, BẢO BỌC, KHUYÊN NHẮC...”. Người ta thương mình, mình cũng dùng cái tình thương này để khuyên họ một câu. Khi người ta cảm động, họ có thể hồi đầu tỉnh ngộ. Khi họ hồi đầu tỉnh ngộ rồi, mình vẫn tiếp tục tu hành thoải mái, rồi đem tất cả công đức bồi đắp cho họ, hồi hướng cho họ. Được vậy, họ hộ pháp cho mình, mình thì hồi hướng công đức cho họ, thành ra âm dương lưỡng lợi. Đừng bao giờ thấy những tình cảnh này mà vội vàng tung những đòn thế quá ư nghiệt ngã, vô tình biến “Thuận Duyên” thành “Ác Duyên”.

Hiểu được như vậy rồi, ta tu học Phật thì lấy cái tâm đại từ đại bi của Phật mà hóa giải người hữu duyên, khuyên họ phát tâm Bồ-Đề cùng nhau tu hành. Xin thưa chư vị, không có chuyện gì mà phải khó khăn điều giải đâu.

Trong những ngày sau nếu có duyên, Diệu Âm sẽ kể thêm những chuyện mà thật sự Diệu Âm đã gặp qua. Lấy những kinh nghiệm đó, mình thấy hình như điều giải không phải là khó khăn lắm. Cái khó là:

- Chính mình thật sự có tấm lòng từ bi hay không?...

- Chính mình thật sự có phải là dùng chánh pháp để điều giải hay không?...

Nếu mình không chịu dùng chánh pháp, mình lại dùng những cái gọi là bất bình đẳng, nói rõ hơn tức là ghét người này, ghét người kia, khinh người nọ, chê người kia... Mình lấy tham sân si mạn... ra mà đối đãi với chúng sanh, thì chúng sanh sẽ dùng đến tham sân si mạn để đối đãi lại với chúng ta. Từ đó, bạn bè trở nên thù địch! Yêu thương biến thành hận thù! Điều này hoàn toàn không tốt!...

Nguyện mong cho chư vị hiểu được lý đạo này, đem cái nhân duyên của Phật ra để giảng giải cho nhau. Nhất định chúng ta có thể hóa giải trong vòng một-hai ngày là hết!...

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

THIỆN-CĂN, PHƯỚC-ĐỨC, NHÂN-DUYÊN

Tọa Đàm 6

A-Di-Đà Phật.

Hôm nay chúng ta được cái cơ duyên thù thắng hội tụ với nhau một chỗ niệm Phật cầu sanh Tịnh-Độ. Trong thời mạt pháp này mà chúng ta được cơ duyên này thật sự là một sự hy hữu. Từ trong kinh nói ra, thì đây có thể là sự hy hữu trong vô lượng kiếp, không phải là bình thường!...

Thế giới hiện nay bảy-tám tỷ người, giờ phút này trong bảy-tám tỷ người đó có được bao nhiêu người ngồi lại với nhau thành tâm niệm Phật như một nhóm người nhỏ bé của chúng ta đây?...

Chính vì thế mà cơ hội này thật sự quá ư thù thắng. Cái thù thắng này không phải là chúng ta kết hợp niệm vài câu Phật hiệu cho vui vui, tán tụng cho hay hay, rồi giữ đó làm kỷ niệm trong đời... Không phải! Mà chính cái cơ hội này nó đưa chúng ta vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc. Vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc có nghĩa là công phu chúng ta tu tập hôm nay, đưa chúng ta đến chỗ thành tựu đạo quả. Bất khả tư nghì!

Trong vô lượng kiếp qua có thể chúng ta cũng làm thiện, cũng làm lành, cũng có tu hành sao đó… Nhưng xin thưa thật, nếu mà ngồi với nhau, nghe với nhau một lời hướng dẫn, nhắc nhở với nhau một câu A-Di-Đà Phật, chỉ dẫn cho nhau một lời nguyện vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc… thì trong vô lượng kiếp qua chưa chắc gì chúng ta đã có. Tại vì sao?... Tại vì nếu trong quá khứchúng ta đã có cơ hội này, thì có thể chúng ta đã ở trong những cảnh giới của Phật rồi, không ở cảnh giới Tây-Phương thì cũng ở cảnh giới Hoa-Nghiêm, không ở cảnh giới Hoa-Nghiêm thì cũng ở cảnh giới Đông-Phương với Dược-Sư-Lưu-Ly-Quang Phật rồi. Chúng ta không còn là phàm phu tục tử ở trong cảnh giới Ta-bà khổ ải để chịu nạn đắng cay như ngày hôm nay nữa đâu...

Cho nên nếu mọi người đều ngộ ra rằng, cơ duyên này thật sự vô cùng quý báu để chúng ta về Tây-Phương, thì như trong kinh A-Di-Đà nói rằng, một người muốn về Tây-Phương thì phải có đủ Thiện-Căn, Phước-Đức, và Nhân-Duyên, thì chúng ta đã có đủ rồi đó.

Ngày hôm nay ta có nhân-duyên là ngồi với nhau niệm Phật, chúng ta quyết lòng đi về Tây-Phương với lời nguyện tha thiết cầu vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc, rồi ta quyết lòng tranh thủ thời gian niệm câu A-Di-Đà Phật, chuyên nhất. Nên nhớ phải chuyên nhất nghe chư vị. Nếu mình niệm Phật mà không chuyên nhất, thì coi chừng bị trở ngại! Nếu chúng ta làm được thật sự ba điểm này thì ta có đủ Thiện-Căn, Phước-Đức, Nhân-Duyên.

Trong kinh A-Di-Đà có nói, một người thiếu cái thiện-căn, nghĩa là ít thiện-căn, ít phước-đức, ít nhân-duyên, không thể vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc được…

Rõ ràng, cơ duyên và niềm hy vọng vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc đang tràn đầy trong tâm hồn của chúng ta, mà thật sự chúng ta cũng vững tâm đi về Tây-Phương, thì thật sự chúng ta đã có thiện căn rồi chư vị ơi!... Chúng ta đã có phước-đức rồi chư vị ơi!... Và chúng ta đã có cơ duyên rồi chư vị ơi!... Ba cái điểm này đầy đủ, nhất định sẽ đưa một hành giả đang ngồi trong một đạo tràng nhỏ mà trang nghiêm này đi về Tây-Phương trong một đời này chứ không phải đến đời thứ hai.

Khi đi về Tây-Phương rồi chư vị hãy tưởng tượng thử cái năng lực của chư vị như thế nào? Tới đó, chắc chắn ta không cần tới ai giải thích cho biết trong vô lượng kiếp chúng ta đã bị như thế nào đâu, mà chư vị có thể tự trả lời câu hỏi này, tại vì khi đi về trên Tây-Phương Cực-Lạc, chư vị có tất cả những thần thông diệu dụng. Ví dụ có túc mạng thông, cho phép chúng ta biết được trong vô lượng kiếp, nghĩa là từ vô thỉ cho đến hiện tại, ta đã trải qua bao nhiêu cảnh giới khổ đau, ta đã đi qua những cảnh giới phước báu nào, ta đã tạo ra bao nhiêu thiện-căn trong những kiếp đó, bên cạnh đó cũng có lúc ta làm biết bao nhiêu điều mê mờ. Tất cả ta đều biết hết.

Còn bây giờ ngồi đây chúng ta không biết gì hết! Ta chỉ lấy trong kinh ra để nói rằng ta có thiện-căn. Trong kinh nói, nếu một người nghe câu A-Di-Đà Phật không tin, nghe lời nguyện vãng sanh không muốn nhắc đến, và nghĩ rằng cuộc đời này không thể nào vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc được, thì người này phải tu thêm thiện-căn, phải bồi thêm phước-đức, tu bồi thêm cho khi nào đầy đủ rồi mới tin được.

Nhưng ở đây chư vị đã tin tưởng niệm Phật, thì nhất định ba tư lương chúng ta đã có đầy đủ. Quý vị quyết lòng đi về Tây Phương thì ba điểm này đừng nên hỏi một người nào nữa cả. Hãy niệm câu A-Di-Đà Phật đi, càng niệm càng ngày quý vị càng thấy rõ ràng con đường này. Vì sao vậy?... Vì trên con đường niệm Phật này quý vị cũng sẽ tiếp tục giúp người có đầy đủ thiện-căn phước-đức đi về Tây-Phương. Những người đó hình như họ thua sút hơn ta. Tại vì muốn cho người đó niệm câu A-Di-Đà Phật, ta phải khai thị lên khai thị xuống, dẫn dắt lên dẫn dắt xuống, phải tìm mọi thiện xảo phương tiện nhắc nhở cho họ, có thế họ mới niệm được câu A-Di-Đà Phật. Những người như vậy mà khơi được cho họ một chút niềm tin. Nhờ một chút niềm tin được khởi lên đó thôi, mà họ dồn lại bao nhiêu thiện-căn phước-đức trong nhiều đời kiếp để họ được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc.

Còn bây giờ chư vị ngồi tại đây, xin hỏi rằng có ai khuyên chúng ta không? Có ai khai thị cho chúng ta không? Có ai dùng thiện xảo phương tiện gì mà dụ khị chúng ta niệm Phật không?...

Không!... Chúng ta hoàn toàn tự nguyện, thành tâm tự nguyện, tha thiết tự nguyện niệm câu A-Di-Đà Phật.

Xin thưa thật với chư vị, trong kinh, Phật đã thọ ký rõ rệt rằng, đây là những người mà trong vô lượng kiếp đã tu bồi thiện-căn phước-đức lớn không tưởng tượng được.

Trong kinh Vô-Lượng-Thọ có nói đến vị A-Xà-Vương Tử cùng với năm trăm vị trưởng giả tới tham dự pháp hội Vô-Lượng-Thọ của đức Thế-Tôn. Khi đức Thế-Tôn giảng về Phật A-Di-Đà, cõi Tây-Phương Cực-Lạc. Họ thấy y chánh báo trên cõi Tây-Phương Cực-Lạc quá ư vi diệu, họ phát nguyện thầm trong tâm rằng nhất định chúng ta quyết lòng phải tu hành thành tựu như A-Di-Đà Phật. Chắc quý vị nghe những lời pháp của ngài Tịnh-Không, bây giờ Diệu Âm chỉ nhắc lại mà thôi. Đức Thế-Tôn biết liền và tán thán những vị này. Phật nói, đây là những người mà trong quá khứ đã cúng dường tới bốn trăm ức đức Phật Như-Lai rồi, nhờ thiện-căn và phước-đức cúng dường bốn trăm ức đức Phật Như-Lai rồi, nên khi nghe Phật nói về A-Di-Đà Phật, nói về Tây-Phương Cực-Lạc, họ mới phát niềm tin lên và phát nguyện sẽ tu hành để thành đạo, thành đạo như A-Di-Đà Phật.

Nhưng khi nghe ngài Tịnh-Không giảng về đoạn kinh văn này, thì chúng ta mới ngỡ ngàng hiểu ra rằng thiện-căn phước-đức của chư vị đó chẳng qua cũng chỉ là thiểu thiện-căn, thiểu phước-đức mà thôi, chứ không phải là đầy đủ thiện-căn, đầy đủ phước-đức!

Tại sao vậy?... Tại vì ngài A-Xà-Vương Tử và năm trăm vị trưởng lão đó đã không chịu phát nguyện vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc, mà họ chỉ muốn tu… tu cho đến đời đời kiếp kiếp nào đó, cho đến ngày được thành tựu như đức A-Di-Đà Phật. Đức Thế-Tôn có lời tán thán, nhưng chỉ tán thán cái niềm tin của những người đó, chứ Ngài không tán thán cái đường tu hành của A-Xà-Vương Tử. Còn Ngài tán thán trọn vẹn là gì?... Ngài tán thán những người nghe Ngài nói về A-Di-Đà Phật thì bắt đầu tin vào đại nguyện của đức A-Di-Đà Phật, phát nguyện vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc.

Nếu người nào thành tâm phát nguyện vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc thì thiện-căn phước-đức nhất định đã vượt trội A-Xà-Vương Tử và năm trăm vị trưởng lão, vì nhất định những người này trong vô lượng kiếp họ đã cúng dường không phải bốn trăm ức đức Phật Như-Lai, mà cúng dường đến vô lượng đức Phật Như-Lai rồi mới có đủ khả năng mạnh mẽ nghe lời Ngài, niệm A-Di-Đà Phật cầu về Tây-Phương.

Chính vì vậy mà hôm nay nói đến chỗ này để cho chúng ta vững tâm vững chí. Nên nhớ thời mạt pháp này khi khởi một cái tâm tu hành, thì luôn luôn có ma sự ở bên cạnh tìm cách cản ngăn. Một khi quý vị phát một Bồ-đề tâm nhất định bên cạnh đó có ma chướng.

- Ma chướng tại đâu?... Ma chướng ở tại cái tâm của mình sao xuyến, phân vân, so đo, kèn cựa!...

- Ma chướng tại đâu?... Ma chướng tại vì xã hội này tìm ra một người đủ thiện-căn phước-đức khó vô cùng!…

Chính vì tất cả những người chung quanh ta đều bị thiếu cái chỗ đó, thành ra họ sẵn sàng dùng cái thiếu thiện-căn phước-đức đó để kéo chúng ta trở về trong lục đạo luân hồi. Họ có thể nói rằng, một người phải tu trong vô lượng kiếp mới được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc, chứ làm gì mà một hai ngày niệm Phật, một đời niệm Phật lại đi về Tây-Phương.

Thì hôm nay gặp được cơ hội này, xin chư vị hãy mạnh dạn nói rằng:

- À! Ngài cứ việc tu trong vô lượng kiếp nữa đi rồi đi về Tây-Phương sau cũng được! Còn tôi, một đời này tôi quyết đi thẳng về Tây-Phương. Tại sao?... Tại vì trong vô lượng kiếp tôi đã tu rồi!…

Nếu như người đã có thiện-căn phước-đức tu được trong vô lượng kiếp, mà vừa nghe một người nói ra như vậy thì chao đảo tinh thần, liệng bỏ tất cả những thiện-căn phước-đức trong quá khứ đi, bây giờ lò mò tu lại thêm vô lượng kiếp nữa!... Xin thưa thật, không biết sau khi mãn báo thân này họ có cơ duyên gặp lại được câu A-Di-Đà Phật để đi về Tây-Phương hay không?!...

Mong chư vị càng ngày càng vững “Niềm Tin”. Nhất định cùng nhau đi về Tây-Phương thành đạo Vô-Thượng…

Nam mô A-Di-Đà Phật.

 THIỆN-CĂN, PHƯỚC-ĐỨC, NHÂN-DUYÊN

Tọa Đàm 7

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

Diệu Âm thường hay nói với chư vị rằng Diệu Âm này chính thị là phàm phu tội chướng sâu nặng, cho nên không dám nhận lời khai thị đâu. Có thể nói là nhắc nhở, tọa đàm, hay bàn bạc gì đó thì được, chứ còn khai thị thì xin thưa là không dám.

Trong cái cơ duyên chúng ta ngồi chung với nhau, tại một căn nhà không phải rộng mấy để niệm Phật với nhau, thì trong kinh Phật gọi đây là “Cơ-Duyên” hay là “Nhân-Duyên”. Nhân-Duyên dù là nhỏ hay lớn vẫn là nhân-duyên, mà cái nhân-duyên này là niệm Phật để cùng nguyện vãng sanh thì nhân-duyên này thật sự là thù thắng. Trong kinh Phật nói rằng, thiện-căn phước-đức nhân-duyên giúp ta vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc.

Trong kinh Phật có nói thiện-căn phải đầy đủ, phước-đức phải đầy đủ, và nhân-duyên phải đầy đủ mới được vãng sanh!…

Hôm nay ta có một cái tiểu nhân-duyên, ngồi chung với nhau. Nói là tiểu vì căn nhà này chật hẹp, chúng ta đi kinh hành cũng phải vấp lên vấp xuống. Tuy nhiên chúng ta lấy cái nhân-duyên này mà tìm cách xây dựng, củng cố, phát triển lên, thì nhờ cái nhân-duyên này nó sẽ nẩy nở ra thiện-căn, tô bồi phước-đức, tô bồi nhân-duyên. Thì từ cái chỗ thiểu thiện-căn, thiểu phước-đức, thiểu nhân-duyên này sẽ trưởng dưỡng thành đại thiện-căn, đại phước-đức, đại nhân-duyên để đưa chúng ta có cơ hội vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc…

chắc chắn chư vị cũng đã từng đi hộ niệm cho người khác. Khi hộ niệm cho một người ở trong một căn phòng chật hẹp, không thể được bày biện trang nghiêm như thế này đâu, mà chỉ có một tấm hình A-Di-Đà để che cái tấm màn ti-vi, bên cạnh đó chúng ta cũng cố gắng dẹp dọn chén bát cho gọn lại một chút rồi niệm Phật. Rõ ràng đầu tiên đó chỉ là một tiểu nhân-duyên. Nhưng vì lòng chân thành, lòng thanh tịnh, lòng quyết cứu độ người sắp sửa rời bỏ báo thân vãng sanh, chúng ta đã biến cái duyên nhỏ hẹp đó thành đại nhân-duyên.

Cái thiện-căn của người bệnh đó đầu tiên yếu lắm, vì lòng tin vẫn chưa vững! Nhưng nhờ lòng chân thành của người hộ niệm đã trưởng dưỡng cái lòng tin yếu kém của người bệnh thành đại thanh-tịnh, đại chân-thành, hay nói rõ hơn là thành đại thiện-căn.

Người bệnh có cái phước báu nhỏ bé vì đang bị ung thư nằm eo xèo trên giường bệnh, cũng đã biến thành đại phước-báu... Đi về Tây-Phương là người có đại phước-báu.

Cho nên “Đại” hay “Tiểu” đều nằm ngay tại tâm này, chứ không phải ở ngoài. Ví dụ như có người đến đây tu học, họ thấy cái nhà này chật chội quá! Họ thấy nản lòng! Họ chê đủ thứ! Họ nói rằng tu hành kiểu gì mà kỳ lạ vậy!… Chùa không ra chùa! Nhà không ra nhà! Bồ đoàn thì xẹo lên xẹo xuống! Đường đi thì chật hẹp!... Họ chê đủ thứ!... Chê rồi thì họ rời bỏ nơi này. Rời bỏ đi thì cơ duyên nhỏ bé này sẽ biến thành cơ duyên tí-tẹo! Cơ duyên tí-tẹo thì không phải là chỗ đất tốt cho thiện-căn sinh trưởng. Thiện-căn không sinh trưởng được thì dù đầu tiên thiện-căn có lớn cho mấy, nó cũng bị hao hụt đi, mất mát đi. Dù có phước-báu lớn cho mấy đi nữa, thì phước-báu đó không thể nào trưởng dưỡng thành một thứ tư lương để về Tây-Phương được!

Vì chê chán, chấp trước đó mà chúng ta rời bỏ chỗ niệm Phật, vô tình thiện-căn dù lớn tới đâu đi nữa cũng chỉ tiếp tục tụng một bài kinh, tụng một bài chú, niệm vài câu A-Di-Đà Phật để cầu xin phước-báu nhân thiên là cùng! Nghĩa là sao?... Nghĩa là phước-báu đó đáng lẽ được đi về Tây-Phương hưởng đại phước, bây giờ lại tiếp tục trôi lăn trong lục đạo luân hồi để hưởng cái tiểu phước. Một cái phước của con người còn trong cảnh tử tử sanh sanh!…

Ngài Ấn Quang nói, “Nhiều khi đời sau ta không còn là thân người để hưởng phước nữa”! Cũng có lúc phước-báu thì lớn đó, nhưng Hòa Thượng Tịnh-Không nói, “Nổi một cơn sân giận lên thì đi xuống địa ngục”! Xuống địa ngục rồi thì hưởng phước dưới địa ngục!… Hưởng phước dưới địa ngục bằng cách nào? Người ta thì bị tra tấn một vạn lần trong một ngày, còn ta chỉ bị tra tấn một ngàn lần trong một ngày thôi! Rõ ràng là bị tra tấn ít hơn người ta một chút! Hoặc là có lần Hòa Thượng nói, “Làm phước thì hưởng phước, nhưng dại khờ ngu si thì đi vào cảnh giới súc sanh để hưởng phước”. Có nghĩa là sao?... Ngài đưa ra những ví dụ như một con chó ở trong nhà người tỷ phú, nó có thể sung sướng hơn, nó hạnh phúc hơn, nó ấm cúng hơn nhiều người. Nhưng có được ấm cúng gì đi nữa thì nó vẫn là súc sanh! Vì chấp vào nghiệp ngu si, nên cứ mãi mãi mang thân súc sanh đời đời kiếp kiếp, không biết bao giờ mới thoát nạn!...

Chính vì vậy trong kinh Phật nói đến: Thiện-Căn, Phước-Đức, Nhân-Duyên. Trong pháp niệm Phật chúng ta thường hay nghe nói: Tín-Nguyện-Hạnh. Thật ra nói cách nào cũng được cả.

- Thiện-Căn chính là niềm tin.

- Phước-Báu chính là câu phát nguyện vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc.

- Nhân-Duyên chính là người mở lời niệm câu A-Di-Đà Phật.

Qu‎‎ý vị nghĩ thử có đúng hay không? Nói cách nào cũng đúng hết trơn.

Như vậy thì:

- Một người quyết lòng niệm câu A-Di-Đà Phật… Nhất định họ đã có đại Nhân-Duyên rồi.

- Một người quyết lòng nguyện vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc… Nhất định họ đã có cái Phước-Báu rồi

- Một người khởi phát niềm tin vững vàng vào câu A-Di-Đà Phật họ đã có đại Thiện-Căn rồi.

Chính vì vậy mà xin thưa với chư vị, mình hiểu được đạo lý này rồi thì tất cả chúng sanh trong pháp giới này dù trong quá khứ họ làm sai như thế nào đi nữa, nhưng bây giờ họ đã ngồi tại đây niệm câu A-Di-Đà Phật rồi!... Khung cảnh dù chật chội một chút, nhưng cái tâm này không thể chật đâu à!... Ngồi trong một cái nhà nhỏ, lâu lâu mình cảm thấy hơi ngộp ngộp, nóng nóng, nhưng khi về tới Tây-Phương, cảnh giới này không còn nữa đâu à!... Qu‎ý vị có thấy không? Nếu ở trong hoàn cảnh này mà họ thành tâm niệm một câu A-Di-Đà Phật, thì khi đến một đạo tràng mênh mông tráng lệ họ cũng niệm một câu A-Di-Đà Phật, hai câu niệm A-Di-Đà Phật này sẽ có phước-đức vô lượng vô biên bằng nhau, không có gì khác nhau. Hơn thế nữa, trong một cái môi trường nhỏ hẹp này mà tâm của họ thành, tâm của họ thiết, tâm của họ không còn chấp vào không gian này nữa, thì câu niệm Phật của họ thật sự nhiều khi đã có vô lượng vô biên công đức đến với họ rồi.

Người nào nói rằng tôi không có phước-đức, hãy niệm câu A-Di-Đà Phật lên thì tự nhiên phước-đức, rồi công-đức sẽ vươn lên, nó vươn lên ào ào đến chỗ vô lượng vô biên. Người nào nói rằng mình không có thiện-căn thì hãy thành tâm mà tin đi. Tin như thế nào?... A-Di-Đà Phật đã nói rằng chư vị hãy phát tâm niệm câu A-Di-Đà Phật cầu về Tây-Phương đi. Làm sao trước giây phút lâm chung phải buông hết tất cả, niệm danh hiệu của Ngài, niệm đến mười niệm để cầu vãng sanh mà Ngài không đưa về Tây-Phương Ngài thề không thành Phật.

Xin thưa với chư vị, đừng niệm chi đến mười niệm uổng lắm, hãy niệm một niệm mà thôi. Thành tâm niệm một niệm mà thôi trước khi xả bỏ báo thân, chư vị cũng được vãng sanh về Tây-Phương. Chư Tổ thường hay nói “Một niệm mười niệm tất sanh” là như vậy.

Cho nên, thiện-căn phước-đức cũng là đây. Thiếu thiện-căn, thiếu phước-đức cũng là đây. Tất cả đều ở chính chư vị hết. Đã đến đây rồi đừng nên bỏ mất cái đại thiện-căn, cái đại phước-đức, cái đại nhân-duyên, cái đại thành tựu đạo Bồ-Đề!...

Xin chư vị nhớ lấy lời này để quyết định chúng ta cùng nhau vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc…

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

THIỆN-CĂN, PHƯỚC-ĐỨC, NHÂN-DUYÊN

Tọa Đàm 8

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

Chúng ta niệm Phật là để vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc. Ta muốn vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc nên ta niệm Phật. Người không muốn vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc nên không muốn niệm Phật. Vì không niệm Phật nên họ không được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc!…

Người niệm Phật được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc là do Thiện-Căn Phước-ĐứcNhân-Duyên đã hội tụ đầy đủ. Người không được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc thì nhất định, nếu không thiếu thiện-căn thì cũng bị khiếm khuyết phước-đức. Nếu có thiện-căn có phước-đức thì cũng mất nhân-duyên.

Người trong đời này gặp được pháp mônNiệm Phật” là có “Nhân-Duyên”. Có nhân-duyên mà không muốn vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc thì nhất định một là họ thiếu phước-đức hai là họ thiếu thiện-căn. Hồi trưa mình có nói sơ qua vấn đề phước-đức. Muốn biết phước-đức thì coi cách hành trì của họ. Phước-đức chính là làm thiện làm lành.

Kinh Quán-Vô-Lượng-Thọ đã xác định cái phước-đức của người vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc là:

- Thứ nhất là phước Nhân-Thiên: Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm không sát sanh, tu thập thiện nghiệp.

- Phước của Nhị-Thừa là: Thọ trì tam quy, cụ túc chúng giới, bất phạm uy nghi.

- Phước của Đại-Thừa là: Phát Bồ-Đề tâm, thâm tín nhân quả, đọc tụng đại thừa, khuyến tấn hành giả.

Những người làm phước họ sẽ được phước. Người được phước vãng sanh tức là trước những giờ phút lâm chung, họ cười hè hè, bớt đau, bớt bệnh... Những người mà cười hè hè ra đi, ngồi xếp bàn ra đi... đúng là những người có phước. Còn chúng ta thì thiếu phước một chút cũng ráng cố gắng phóng sanh, cố gắng làm thiện, cố gắng buông xả... để bớt cái nghiệp xấu đi. Chúng ta cũng được cái phước để vãng sanh, cũng cười mà cười trong cơn đau một chút cũng được...

Còn Người thiếu thiện-căn là như thế nào?... Những Người mà trí huệ đã bắt đầu khai mở thì thuộc về người có thiện-căn. Khi mà trí huệ đã bắt đầu khai mở cũng dễ thấy lắm.

Thứ nhất là người ta tin vào pháp môn Niệm Phật. Điều đầu tiên là họ tin vào câu A-Di-Đà Phật, đó thuộc về thiện-căn. Người mà giảng giải kinh điển Phật đúng liễu nghĩa của Phật, đó là người có thiện-căn. Người giảng giải kinh Phật không đúng theo chơn nghĩa của Phật, nghĩa là nói lệch đi, giảng sai đi, tức là thiếu thiện-căn. Dựa vào đây mà truy nguyên thì mình có thể biết một người bị mất vãng sanh về Tây-Phương thuộc về phần nào...

Ví dụ như những người gặp được pháp môn Niệm Phật, gặp được câu A-Di-Đà Phật, gọi là họ có nhân-duyên, nhưng mà họ không tin, thì ta biết ngay rằng, “À! Người đó có nhân-duyên mà thiếu mất thiện-căn rồi”. Thiếu thiện-căn thì bắt buộc phải tu bồi thiện-căn. Tu bồi thiện-căn ở đâu?... Giới-Định-Huệ sẽ có thiện-căn.

Có những người nghe được câu A-Di-Đà Phật tức là có nhân-duyên. Tin vào câu A-Di-Đà Phật là có thiện-căn. Nhưng khi tu hành thì bị người này phá, người kia phá, người kia chống, người nọ chống, tạo mọi điều kiện để ngăn cản con đường tu hành của họ... thì ta biết người này có thiện-căn, có nhân-duyên, mà thiếu phước-đức. Tại sao thiếu phước-đức?... Trong đời trước, nhiều đời trước tu huệ thì nhiều mà tu phước thì ít. Vì tu phước ít cho nên thiếu phước. Thiếu phước cho nên bị cái vô-phước nó ngăn cản.

Hiểu được chỗ này rồi, mình mới thấy một người mất phần vãng sanh nguyên do nằm ở chỗ nào? Dễ dàng, rõ ràng vô cùng, không còn lơ mơ lờ mờ nữa. Chính vì vậy mà đừng bao giờ thấy một bà già hiền hậu chất phát ngày ngày cầm tập vé số đi bán ngoài đường mà ta cho họ là người thiếu thiện-căn. Không phải! Nếu mình đến hỏi: Bác có tin câu A-Di-Đà Phật không? Ồ! Bác tin sống tin chết!... Thì nhất định bà này có thiện-căn, vì “Tín năng trưởng dưỡng chư Thiện căn mà.

Nghĩa là trong nhiều đời nhiều kiếp bà đã tu phước thiện, bà đã đọc kinh điển và thật ra cái tâm của người ta đã khai mở chút chút rồi, khai hơn những người không tin trong đó mà mình không hay. Tâm trí khai mở trong hoàn cảnh thiếu phước, nên dù có khai mà Bà vẫn phải cầm vé số đi bán! Bà cầm vé số đi bán, nhưng tối lại thì sẵn sàng đi hộ niệm cho người bệnh, nhất định bà ngồi từ đầu đêm cho đến cuối đêm niệm Phật. Vì thiếu phước-đức nhưng lòng tin của họ lại vững vàng, họ có thể niệm Phật trợ duyên cho người bệnh vãng sanh, niệm Phật từ đầu đêm đến cuối đêm không cần thay ca. Vô tình câu niệm Phật của họ sẽ tu bồi phước-đức cho họ.

- Tín năng trưởng dưỡng Thiện-Căn.

- Tín năng trưởng dưỡng Công-Đức.

- Tín năng trưởng dưỡng Phước-Thiện của họ.

Cho nên sau cùng rồi người này nhờ được thiện-căn, nhờ được cơ duyên niệm câu A-Di-Đà Phật. Dù thiếu phước nhưng nhờ trong thời gian họ thành tâm tu hành, thành tâm niệm Phật, niệm trước người bệnh. Một câu A-Di-Đà Phật là vạn đức, vạn phước, nhờ thế mà sau cùng họ lại được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc, nhiều khi được vãng sanh tự tại, không còn đau bệnh nữa. Không còn đau tức là có hưởng phước.

Chúng ta cứ lấy căn bản của lời Phật dạy ra để xác định rằng ta là hạng người bị thiếu thiện-căn? Ta là hạng người bị thiếu phước-đức? Ta là hạng người bị thiếu nhân-duyên hay là được đầy đủ?...

Còn về hình thức thì dù như thế nào đi nữa, chúng ta cũng chớ vội vã đánh giá sớm. Ví dụ như những người có phước, biết tu phước. Quá khứtu phước thì hiện đời đường tu của họ êm xuôi phẳng lặng, không ai ngăn cản. Người ta muốn lập một cái nơi ngon lành để tu hànhtự nhiên có khả năng lập liền. Ấy thế mà khi nghe đến câu A-Di-Đà Phật thì họ lặng lờ bỏ đi, họ không thèm nhìn tới. Mình biết ngay người này có phước nhưng mà thiện-căn của họ không có.

Cho nên quý vị đừng bao giờ sơ ý thấy một người tu hành có vẻ êm xuôi thì cho rằng, “À! người này thiện-căn lớn quá”. Không phải! Không phải! Không phải!… Thiện căn nó được thể hiện qua “Niềm Tin” vào câu Phật hiệu của người đó. Cho nên:

- Có nhiều người có phước-đức lại thiếu thiện-căn.

- Có người có thiện-căn nhưng lại thiếu phước-đức.

- Có nhiều người gặp nhân-duyên mà có thiện căn thì người ta tin.

- Có nhiều người có nhân-duyên gặp câu A-Di-Đà Phật mà không tin, chứng tỏ rằng trí huệ chưa chắc gì đã khai mở.

Có thiện-căn tức là có trí huệ, dù trí huệ ở một trình độ nào đó chưa biết?... Chính vì vậy, chúng ta cần nên xác định rõ rệt. Tại sao trong đời này ta là một phàm phu, danh phận thì không có, nhưng mà ta quyết lòng chết sống vì câu A-Di-Đà Phật, nhất định quyết một đời này vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc?... Xin thưa thật ra là:

- Nhiều đời nhiều kiếp chúng ta đã vun bồi phước-đức rồi,

- Nhiều đời nhiều kiếp chúng ta đã có tu Giới-Định-Huệ rồi.

- Nhiều đời nhiều kiếp chúng ta đã cúng dường hằng sa Thánh rồi.

Cho nên mới kết lại trong đời này ta được nhân-duyên gặp câu A-Di-Đà Phật và ta bám chắc, ta bám sát, ta bám vững để về Tây-Phương.

Xin thưa với chư vị, thế gian có câu: "Đắc thất nan truy họa phước". Ta ngồi ở đây tu hành như vầy, ta cũng có bị thất…

- Ta thất là thất cái gì?... Thất Casino. Ta không có giờ đi Casino.

- Ta thất là thất cái gì?... Không có giờ đi coi xi-nê.

- Ta thất là thất cái gì?... Ta không có được tới chỗ nào đó ngắm cảnh xem hoa...

Ta bị thua người đời ở những chỗ đó.

Còn những người được những thứ đó, họ tưởng rằng họ được hưởng nhiều quá? Nhìn những người niệm Phật, họ than rằng: “Trời ơi!... Những người đó sao cứ chui vào trong cái nhà mà tụng niệm làm chi cho nhức đầu vậy?...” Người ta tưởng rằng người niệm Phật bị thua thiệt. Thật sự ra chúng ta chỉ thua họ những thứ hưởng thụ đó, nhưng mà ta được là được có Thiện-Căn, ta hơn họ là hơn cái Thiện-Căn này. Họ không tin câu A-Di-Đà Phật nhưng ta tin được vào câu A-Di-Đà Phật.

Một người bài bác câu A-Di-Đà Phật, họ nói, Trời ơi!... Người thuệ thông minh như vậy tại sao lại niệm câu A-Di-Đà Phật?...

Như vậy họ thấy chúng mình bị mất! Mất chỗ nào? Mình mất ở chỗ không tu được những pháp cao quá! Không có nói năng được gì cho hay ho! Nhưng mà ta được chỗ nào?... Ta được câu A-Di-Đà Phật. Ta niệm câu A-Di-Đà Phật, chân thành thanh tịnh, để quyết lòng đi về Tây-Phương.

Còn họ mất cái gì? Họ mất câu A-Di-Đà Phật! Họ có thể được phước của thế gian, tức là được nhiều người ủng hộ, yểm trợ, sự nghiệp có thể đề huề, thịnh vượng.

Ta mất cái phước trước mắt này. Nhưng mà ta được cái gì?... Ta được là được đến lúc lâm chung ta hưởng cái phước đi về Tây-Phương. Còn họ không biết hưởng cái phước ở lúc lâm chung, nên họ không được đi về Tây-Phương đâu chư vị! Mà khi lâm chung họ hưởng cái cảnh... Tùng nghiệp thọ báo!...

Vì thế, Ngài Tịnh-Không dạy như thế này, “Ta tạo phước không được hưởng phước”. Đừng nên nghĩ làm phước thì phải cầu hưởng phước. Hưởng được phước hữu lậu thì sau cùng trụi lủi!… Bây giờ ta hãy cứ chịu thiệt thòi đi. Hòa Thượng Tịnh-Không nói, đời này càng chịu thiệt chừng nào ta càng được phước chừng đó. Có nghĩa là, ta chịu thiệt bây giờ, để cuối cùng khi nằm xuống ta đem tất cả cái phước đó hỗ trợ cho con đường vãng sanh của chúng ta. Thiện-Căn, Phước-Đức, Nhân-Duyên hội tụ ngay thời điểm lâm chung để chúng ta an toàn vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc…

Còn nếu chúng ta vội vã hưởng cái phước này thì lúc lâm chung chúng ta mất hết phước. Nghĩa là đau bệnh! Đau đến quằn quại! Đau quằn quại mà không có người hướng dẫn nữa, thì chúng ta muốn cất lên nửa câu A-Di-Đà Phật cũng cất không được!

Ta quyết định giữ lấy “Thiện-Căn”. Những lời nói nào sai kinh Phật nhất định đừng để nhập trong tâm. Nếu để nhập những lời nói sai kinh Phật trong tâm, thì ta thuộc vào hạng người không có thiện-căn!

Như vậy hôm nay chắc quý vị đã rõ thế nào gọi là Thiện-Căn? Thế nào gọi là Phước-Đức? Thế nào gọi là Nhân-Duyên rồi chứ?... Nhân-duyên là cơ hội ngồi tại đạo tràng này niệm Phật. Thiện-căn là lý giải kinh Phật phải đúng. Nhất định không được sơ ý một điều. Phật nói niệm Phật vãng sanh, thì ta quyết lòng tin niệm Phật vãng sanh. Dù một vạn người đem tất cả những lý lẽ gì để bài bác, ta tin vẫn cứ tin, thì thiện-căn chúng ta đã có đầy đủ.

Còn người nào nói: “Làm gì mà có chuyện hộ niệm vãng sanh?. Người ta nói sai kinh Phật kệ họ. Nói sai kinh Phật thuộc về hạng người không có thiện-căn, dù hình thức tu hành có gì đi nữa, thì cũng là sai! Ly Kinh Nhất Tự Tức Đồng Ma Thuyết!...

Τrong kinh Phật thuyết A-Di-Đà, Phật dạy rằng: “Người nào niệm Phật thì lúc lâm chung A-Di-Đà Phật cùng chư Thánh Chúng hiện ra trước mặt người đó, tiếp dẫn người đó vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc”. Ta căn cứ vào đây mà niệm Phật đi về Tây-Phương. Ta quyết lòng cầu nguyện vãng sanh Tây-Phương. Trong kinh A-Di-Đà Phật dạy bốn lần, nhất định bốn lần chứ không phải là ba lần, phải cầu nguyện vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc. Phải nguyện vãng sanh về Tây-Phương thì tất cả những nguyện khác chúng ta cho nó là thứ yếu. Nghĩa là, có duyên thì ta làm, không có duyên thì ta không để trong tâm. Còn lời nguyện vãng sanh thì nhất định phải giữ trong tâm này, không bao giờ ly ra. Giả sử dù có một người nào đó cũng đem kinh Phật ra chứng minh rằng, “Cầu là vọng”, thì ta cũng phải giữ vững tâm ý:

- À!... Anh nói cầu là vọng! Còn tôi nói cầu vãng sanh không phải vọng, mà đây là Chánh-Cầu… Nhất định Phật không cho ta cầu cái gì khác, nhưng Phật lại dạy cầu vãng sanh Tịnh-Độ. Nhất định ta phải cầu vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc.

Tâm nguyện vãng sanh vững vàng như vậy, thì chứng tỏ thiện-căn chúng ta đã có.

Nếu một người nào đó phước-báu tràn trề mà họ không chịu niệm Phật, thì chứng tỏ rằng họ đã dùng phước-báu đó để cầu danh cầu lợi gì đó, chứ không phải sử dụng nó để khi xả bỏ báo thân này được hưởng cảnh đời đời cực lạc tại cõi Tây-Phương, thì phước-báu đó dù lớn cho mấy đi nữa cũng chẳng qua là đem tiền mà gói lấy cái quan tài đắc giá dưới nấm mồ mà thôi!...

Vậy thì những người nào tiền bạc nhiều quá hãy lo tu hành đi, đừng sơ ý coi chừng đến khi chết xuống vì vướng vào đống tiền đó mà bị đại họa! Quý vị có nghe Hòa Thượng Tịnh-Không kể chuyện ở bên Hồng-Kông có người tới khoe vàng với Ngài không? Vì chấp vào đó thì khi chết rồi dễ gì mà được siêu sanh! Dễ gì mà thoát ách nạn thành một con mọt chui vào đó mà giữ tiền! Có phước-báu tưởng là ngon, ai ngờ sau cùng thành đại họa!...

Cần phải hiểu rõ đạo lý này. Ta có thiện-căn nên mới tin câu A-Di-Đà Phật. Ta có phước-đức nên mới ngồi với nhau niệm Phật, và làm những việc thiện lành nhưng lặng lẽ không cần một người biết. Hãy âm thầm đem cái phước đó gởi về Tây-Phương. Gởi về Tây-Phương thì lúc lâm chung A-Di-Đà Phật sẽ đem cái phước đó xuống đón ta về Tây-Phương để hưởng. Cơ hội hôm nay chúng ta đã gặp câu A-Di-Đà Phật, thì Thiện-Căn, Phước-Đức, Nhân-Duyên đúng như trong kinh A-Di-Đà, đức Thế-Tôn nói, người có đủ Thiện-Căn, Phước-Đức, Nhân-Duyên sẽ được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc.

Ta phải gom trọn tất cả Thiện-Căn, Phước-Đức và Nhân-Duyên này đưa vào lúc xả bỏ báo thân nhất định không trở lại trong cõi Ta-bà này nữa. Một đời này vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc.

Nếu những lời này làm cho chư vị vững tin, thì xin chúc mừng cho chư vị. Nhất định chư vị được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc.

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

THIỆN-CĂN, PHƯỚC-ĐỨC, NHÂN-DUYÊN

Tọa Đàm 9

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

Phật nói nhờ ‘‘Thiện-Căn, Phước-Đức, Nhân-Duyên’’ đầy đủ mới vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc được.

Có người dùng Thiện-Căn, Phước-Đức, Nhân-Duyên để khuyến tấn chúng ta niệm Phật vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc. Cũng có người nghe đến danh từ Thiện-Căn Phước-Đức Nhân-Duyên lại đi khuyên chúng sanh đừng nên niệm Phật, tại vì không dễ gì lấy chút Thiện-Căn, chút Phước-Đức, chút Nhân-Duyên mà đi về Tây-Phương Cực-Lạc đâu…

Cho nên cũng là một danh từ mà từ một góc nhìn khác lại thấy khác. Một người dùng danh từ thiện-căn, phước-đức, nhân-duyên đầy đủ để vãng sanh thì họ khuyến tấn chúng ta hãy quyết lòng vãng sanh. Nếu có thiện căn ít thì bây giờ tô bồi thiện căn đi, để được về Tây-Phương. Nếu có phước-đức ít thì hãy tô bồi phước-đức đi, để đủ phước-đức đi về Tây-Phương. Nếu chưa có nhân-duyên, thì hôm nay đã gặp câu A-Di-Đà Phật tức là có nhân-duyên rồi đó, mau mau kết hợp nó lại để đi về Tây-Phương. Nhờ thế mà một người được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc.

Một người cũng nghe đến đại Thiện-Căn, đại Phước-Đức, đại Nhân-Duyên lại sớm có cái tâm tiêu cực! Họ nói rằng, quý vị không đủ thiện-căn, không đủ phước-đức, không đủ nhân-duyên đâu, thôi đừng đi về Tây-Phương Cực-Lạc làm chi. Một lời nói làm đoạn mất con đường thành đạo của chúng sanh!...

Cho nên, khuyến tấn lên, dù người được khuyến tấn chưa chắc gì họ đã đủ thiện-căn, phước-đức, nhưng cơ hội này tạo niềm tin cho chúng sanh. Khi tạo niềm tin cho chúng sanh thì vô tình niềm tin của mình cũng tăng trưởng. ‘‘Tín năng trưởng dưỡng chư thiện căn’’. Nhờ mình tô bồi tín tâm cho mọi người mà làm cho thiện-căn của chính mình cũng tăng trưởng lên hồi nào không hay.

‘‘Tín năng trưởng dưỡng chư thiện căn’’.

Mình thấy một người kia phước báu ít quá, đang đi bán bánh ú ở ngoài đường. Có người thì đang lượm rác... Rõ ràng họ đâu có phước báu! Nhưng mình vẫn cứ khuyến tấn đi. Hãy nói, ở đây phước báu không có, về Tây-Phương thì phước báu vô lượng. Quyết lòng tin đi, xúi dục họ, làm cho người bán bánh ú, người bán vé số, một người lượm rác... đang lang thang ngoài đường quyết lòng niệm Phật, tin tưởng vững vàng. ‘‘Tín vi đạo nguyên công đức mẫu’’. Khi lòng tin của người đó thanh tịnh, lòng tin của người đó tràn đầy thì tự nó tạo ra công đức. Tức là, nhờ lòng tin đó mà nảy sanh ra công đức. Công đức mà còn sanh ra được, huống chi là phước-đức.

Hỏi rằng, phước-đức là như thế nào?... Công đức là như thế nào?...

Một người lượm rác thì không có phước-đức. Nhưng cái tâm họ thành, tâm họ tin tưởng, tâm họ chí thành chí kính. Họ đem cái tâm thành đó hồi hướng về Tây-Phương Cực-Lạc, thì cái tâm thành đó, chút phước-đức từ lòng thành đó đã biến thành công đức.

Còn nếu chúng ta nghĩ rằng, ‘‘À!… Bà đó không đủ phước-đức! Ta có bạc tỷ dollars đây, ta mới có phước-đức’’. Khoe cái đó ra!... Thật ra phước-đức hữu lậu vẫn là thứ phước-đức hữu lậu! Sau cùng chính cái phước-đức đó nó trói mình lại trong lục đạo luân hồi! Như ngài Tịnh-Không nói, tiền bạc nhiều quá coi chừng vì đắm vào tiền tài này, sau cùng không cách nào rời khỏi được đống tiền mà đành chịu nạn! Một đời hưởng phước để vạn đời chịu khổ! Lý dochính tâm của mình đã đi sai đường!

Từ đâu mới tăng được thiện-căn phước-đức lên?... Xin thưa với quý vị, thật ra là từ một niềm tin này mà khởi phát lên. Tín!... Cái lòng tin này là mẹ sinh ra công đức. Một chút phước-đức này, lấy lòng thành gửi về Tây-Phương thì phước-đức biến thành công-đức.

Đi tới một chỗ động đất, người ta thì bỏ tiền ra bố thí triệu triệu… Họ lên danh sách này, lên danh sách nọ. Phóng viên, truyền hình tới phỏng vấn đăng tin. Một người không có một đồng bạc nào, thấy hoàn cảnh chúng sanh khổ quá, đưa ra một ổ bánh mì cho người nghèo khótâm chân thành... coi chừng ổ bánh mì này có công đức còn ngon lành hơn những người bỏ bạc triệu ra đó...

Cho nên, công đức lớn hay nhỏ là do cái tâm thành của một người chứ không phải là cái số lượng đưa ra. Một người bỏ ra bạc triệu nhưng thật ra gia tài họ tới bạc tỷ, thì số bạc triệu đó đâu đánh giá cao bằng một người chỉ có một đồng mà dám bỏ ra chín mươi xu để cho người khác đỡ đói, tức là họ nhịn đói mà giúp cho người khác. Chính cái lòng thành này nó châu biến pháp giới.

Trong kinh Phật có câu, ‘‘Tâm Bao Thái Hư’’, tâm mở rộng ra thì ‘‘Lượng châu sa giới’’. Giảng về Thiện-Căn, Phước-Đức, Nhân-Duyên, có nhiều người nói: ‘‘Bà ơi! Bà hãy lo tu thiện-căn đi, tu phước-đức đi để đời sau tu tiếp. Tu đến vạn kiếp sau, khi nào thiện-căn, phước-đức đầy đủ rồi, bà mới về Tây-Phương được’’!... Giảng giải như vậy, vô tình dẫn dắt một người vốn đã nhiều nghiệp chướng, lại tiếp tục lăn lộn trong nghiệp chướng để tạo thêm nghiệp chướng mới nữa, thì ngày nào họ mới có khả năng vượt thoát sanh tử luân hồi đây?...

Trong khi biết rằng: À! Bà ơi! Thiện-căn, phước-đức của bà ít quá! Thì bây giờ tôi chỉ cho bà cách tô bồi thiện-căn, phước-đức nhé. Tô bồi như thế nào?.

Niệm Phật một câu, phước sanh vô lượng.

Lễ Phật một lễ, tội diệt hằng sa.

Hãy đến Niệm Phật Đường mà niệm Phật với tôi đi. Hãy thành tâm niệm một câu A-Di-Đà Phật đi thì phước tăng vô lượng. Mà niệm với lòng chân thành, chí kính, thì cái phước-đức này không còn là phước-đức hữu lậu nữa đâu bà, mà là công đức vô lượng vô biên đó.

Lễ Phật với tôi đi bà ơi! Lễ Phật với tôi đi ông ơi! Lễ Phật một lễ tội diệt hằng sa. Bao nhiêu nghiệp chướng trùng trùng nhờ lòng thành lễ Phật mà nó tuôn ra hết. Niệm Phật một câu đem công đức vào... Lễ Phật một lễ tuôn nghiệp chướng ra...

Bây giờ, chư vị hỏi lại, thiện-căn phước-đức ở đâu?... Ở ngay chỗ chí thành chí kính niệm Phật này chứ đâu. Tại sao chúng ta không biết giúp cho người ta con đường tạo thiện-căn phước-đức để đi về Tây-Phương?... ‘‘Vạn pháp Nhân-Duyên sanh’’. Một người trong cuộc đời này gặp cái Nhân-Duyên này, và nhờ thiện trí thức chỉ đường dẫn lối, họ ngộ ra đường đạo. Nhân-Duyên sanh ra vạn pháp... Vạn pháp được sanh ra từ một người phàm phu tục tử này đã gặp được Nhân-Duyên hôm nay mà trở thành một vị đại Thượng-Thiện-Nhân trên cõi Tây-Phương.

Một người cũng trong hoàn cảnh này, gặp được nhân-duyên này, lại bị người ta gạt mất con đường siêu sanh Tịnh-Độ! Niềm tin bị đoạn rồi, lòng nghi nảy sanh ra! ‘‘Nghi’’ thì duyên với ‘‘Nghi’’. Một niệm nghi ngờ sanh ra, hàng vạn nghiệp chướng bao trùm họ lại. Rõ ràng ‘‘’’ mới nghi! Chứ ‘‘Ngộ’’ bao giờ lại nghi?...

Phật pháp đã dạy ta ‘‘Đoạn nghi sanh Tín’’. Hãy tìm mọi cách đoạn cái lòng nghi của chúng sanh đi, để giúp cho họ sanh cái tín tâm ra. Có sanh được tín tâm, thì thiện-căn theo đó mà tuôn trào ra, phước-đức theo đó mà trưởng dưỡng lên. Bây giờ không có phước-đức cũng sẽ có phước-đức, không có thiện-căn cũng sẽ có thiện-căn. Tại sao vậy? Tại vì chắc chắn bản lai của người đó là Phật. Phật là Lưỡng-Túc-Tôn. Quý vị có hiểu chỗ này không? Lưỡng Túc Tôn không phải là hai chân, mà Trí-HuệPhước-Đức có đầy đủ. Trí-Huệ và Phước-Đức đã có đầy đủ mà họ không biết sử dụng, chỉ vì họ đã lỡ mê rồi mà không biết đó thôi! Vì không biết nên họ cứ tiếp tục đi theo con đường thiếu phước-báu!... Thật là oan uổng!...

Chứ nếu họ ngộ ra một cái thử coi… Một viên ngọc Như-Ý vô giá đó, tất cả mọi người chúng ta đều có. Mọi người đều có, thì hãy chỉ cho họ mau mau lượm viên ngọc đó lên đi. Họ lượm viên ngọc đó đưa lên, họ trở nên một người quý vô giá. Vô giá về phước-đức, vô giá về thiện-căn.

Hôm qua mình nói thiện-căn thuộc về Trí-Huệ. Trí huệ đó ở đâu? Viên ngọc đó chìm trong bùn đen, không thể phát quang! Mình tưởng rằng họ không có trí huệ! Nhưng chư Phật đã thấy rõ ràng, viên ngọc đó từ vô thỉ đến bây giờ vẫn là như vậy, và đến vô chung trong tương lai cũng là như vậy. Đối với một con vật cũng vậy. Đối với một con người cũng vậy. Ví như con người này vụng dại tái sinh vào hàng súc vật, thì con súc vật này vẫn có viên ngọc như-ý đó. Nó vẫn là như vậy, không mê, không ngộ, không tăng, không giảm...

Xin thưa với chư vị, xét cho cùng ra, thiện-căn phước-đức vẫn ở tại tâm này, không phải ở ngoài. Nếu nghi ngờ lời Phật thì mình đã đánh mất thiện-căn của mình rồi. Nếu tin tưởng lời Phật thì mình trưởng dưỡng thiện-căn của mình lên. Mình quyết lòng đem cái viên ngọc như-ý mình đưa ra thì lập tức viên ngọc phát quang. Nếu mình đưa không được, thì nhờ chư đạo hữu tới tìm cách khai thị, giảng giải, hóa gỡ những gút mắt sai lầm để cho khơi nó lên. Dù cho có bị dìm ở trong bùn đen ngàn năm, khi vừa khơi lên, viên ngọc tự nhiên sẽ phát quang. Nên nhớ, viên ngọc không bao giờ bị ô nhiễm cả.

Cho nên, cũng là thiện-căn, phước-đức, nhân-duyên đó, lại gặp một người mê mờ, đem cái thiện-căn của mình tiếp tục dấu đi, đem cái phước-đức của mình tiếp tục dấu đi. Để rồi tiếp tục hưởng những cái mê mờ, những cái thiếu phước!...

Còn nếu chúng ta nghe lời Phật thì khác. Phật nói sao?...

Khi Ta thành Phật, mười phương pháp giới chúng sanh nghe đến danh hiệu của Ta, dẫu cho người đó tội lỗi bao nhiêu…

Tội lỗi là những gì?... Là người mê muội đó, là người thiếu thiện-căn đó, là người thiếu phước-đức đó... Thiếu là tại người ta quên mất của quý mà thiếu đó! Tại mê mà thiếu đó! Chứ nếu họ tỉnh ngộ thì làm sao thiếu được?

Niệm danh hiệu Ta đi, quyết lòng cầu nguyện vãng sanh về nước Ta đi...

Có chút thiện lành gì mà nhớ được đó, từ sáng đến chiều mình làm được phước thiện gì đó, chút xíu như vầy chứ mấy!... Thật ra cái đó cũng chỉ là chút quà tượng trưng cúng dường trên cõi Tây-Phương chứ đâu có là bao nhiêu!...

Gởi về nước Ta đi. Niệm mười niệm, cầu sanh về nước Ta. Ta không tiếp dẫn về nước Ta, Ta thề không thành Phật.

Tại sao không chịu nghe lời Phật giúp cho chúng sanh tạo thêm thiện-căn phước-đức để trong nhân-duyên này họ được về Tây-Phương?

Có người cứ nằm đây mà mơ tưởng một ngày nào đó sẽ có thiện-căn, có phước-đức mới làm đạo. Xin thưa với quý vị, có nhiều người nghĩ vậy đó: ‘‘Bây giờ bảo tôi đi khuyên người niệm Phật… Tôi không khuyên đâu’’. Hỏi tại sao vậy? ‘‘Tại vì bây giờ cái năng lực của tôi dở quá! Anh hãy chờ cho tôi một thời gian nữa, khi năng lực tôi mạnh rồi, khi năng lực tôi đủ rồi thì tôi mới đi ra làm đạo’’...

Tôi chắp tay lại: Cảm ơn!... Tôi tán thán cái lời hứa của anh, nhưng tôi không theo anh, không tán thán việc làm của anh!... Vì xin hỏi anh, khi nào năng lực của anh mới đủ vậy?... Khi nào năng lực của anh mới mạnh vậy?... Xin nhắc nhở anh rằng, một khi anh nghĩ rằng anh đã có năng lực, thì coi chừng… xin lấy lời của ngài Tịnh-Không ra nói:

- Khi quý vị thấy mình có một năng lực... Khi quý vị nghĩ mình đã chứng đắc... Khi quý vị nghĩ mình đã thành đạo... Thì coi chừng quý vị đã bị tẩu hỏa nhập ma rồi!...

Trong khi ngài Ấn-Quang dạy ta điều gì?... ‘‘Chí Thành-Chí Kính’’. Ngài có dạy là phải chứng đắc trước rồi mới đi khuyên người niệm Phật đâu? Mà Ngài nói:

- Khi ta biết con đường niệm Phật cầu sanh Tây-Phương Cực-Lạc là con đường giải thoát, thì nỡ lòng nào để cho thân bằng quyến thuộc, anh em của chúng ta tiếp tục chìm đắm trong bể khổ sông mê?... Khuyên người niệm Phật cầu về Tây-Phương là giúp cho một chúng sanh phàm phu thành bậc Chánh-Giác...

Ta là một phàm phu, sẵn sàng đi khuyên một vị phàm phu. Tại vì chúng ta đồng cảnh ngộ với nhau thì dễ hiểu nhau. ‘‘Đồng hoạn tương thân’’. Cùng hoạn nạn mình thương yêu nhau. Mình không muốn đọa lạc, thì cũng không nỡ nào để cho người thân của mình bị đọa lạc…

Thành ra, mình nên nói: ‘‘Thôi!... Mẹ ơi! Niệm Phật đi!... Cha ơi! Niệm Phật đi!... Anh ơi! Niệm Phật đi!... Con cũng niệm Phật để được vãng sanh. Cha cũng niệm Phật để được vãng sanh. Chị niệm Phật cũng được vãng sanh… Chúng ta toàn là phàm phu, nhưng nhờ A-Di-Đà Phật đưa ta về Tây-Phương thành đạo’’.

Cho nên, ‘‘Khuyên người niệm Phật cầu về Tây-Phương là giúp cho người phàm phu tục tử thành bậc Chánh-Giác. Công đức này vô lượng vô biên...’’. Rõ ràng, có bao giờ Ngài nói rằng, khi nào ta chứng đắc rồi mới được khuyên người niệm Phật đâu? Không có!… Hoàn toàn chư Tổ không có nói như vậy. Ấy thế nhiều người học Phật mà:

- Không chịu lấy lời Tổ ra làm chuẩn mực cho mình đi.

- Không chịu lấy lời Phật ra làm cái gương cho mình soi.

- Không chịu lấy những lời của chư vị Thánh Tăng ra mà làm kim chỉ nam hành đạo.

Mà cứ lấy toàn những thứ ‘‘Sở Tri Kiến’’ của mình ra mà nói, để dẫn dắt chúng sanh đi trên con đường mông lung vô định hướng! Vô lượng vô biên chúng sanh, ngày ngày, giờ giờ, từng sát-na đi xuống tam ác đạo, khổ đau bất tận! Ta không thương họ, tìm cách cứu họ, mà bây giờ lại còn bày vẽ cho họ đi theo cảnh giới đau khổ đó nữa!...

Ngài Ấn Quang nói: Làm sao có thể chờ đợi đến đời sau? Đời sau coi chừng thân người không lấy lại được!... Ấy thế mà có người dám nói, hãy tìm chút phước đi để đời sau tu tiếp. Ngài Tịnh Không nói: Tu Phước thì hưởng Phước. Nhưng ngu si thì thành súc sanh để hưởng phước. Khi thành súc sanh thì tiếp tục mê. Tiếp tục mê thì Phật chỉ đàn kiến mà nói với Ngài A-Nan rằng: ‘‘Bảy đời Phật rồi, con kiến vẫn là con kiến...’’!

Xin chư vị hiểu cho Thiện-Căn, Phước-Đức ở tại niềm tin. Giữ vững niềm tin thì được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc. Lúc đó chư vị sẽ thấy rõ ràng thế nào là Thiện-Căn, Phước-Đức, Nhân-Duyên đầy đủ.

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

THIỆN-CĂN, PHƯỚC-ĐỨC, NHÂN-DUYÊN

Tọa Đàm 10

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

Vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc là sự thật, quyết không thể nghi ngờ! Quyết không thể nghi ngờ, thì bắt đầu từ đây phải chuẩn bị tất cả hành trang để đi về Tây-Phương Cực-Lạc.

Trong đó niềm tin là khởi sự cho tất cả những gì chúng ta cần phải trang bị đầu tiên. Người muốn vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc, thì nên nhớ rất rõ lời này:

Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật.

Niệm niệm tương ưng niệm niệm Phật.

Người không muốn về Tây-Phương thì quên câu này cũng được, không sao! Người biết rằng trong vô lượng kiếp qua, ta bị đọa lạc trong sáu đường luân hồi sanh tử, trong đó chắc rằng ta cũng đã trải qua ba đường ác đạo. Trong đường ác đạo khổ lắm!… Dễ sợ lắm!... Nay gặp cơ duyên này, quyết tâm đi về Tây-Phương Cực-Lạc. Người quyết tâm đi về Tây-Phương Cực-Lạc, thì nhất định, không được sơ ý quên câu nói:

Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật.

Niệm niệm tương ưng niệm niệm Phật.

Nếu những người khinh thường chuyện lục đạo luân hồi, nếu những người không sợ tam ác đạo, nghĩ rằng là tam ác đạovô lượng vô biên chúng sanh trong đó, mình tới tham gia với họ cho đồng tình, đồng nghĩa... thì có quyền không chú ý đến câu:

Nhất Niệm Tương Ưng Nhất Niệm Phật.

Niệm Niệm Tương Ưng Niệm Niệm Phật.

Câu này có nghĩa là sao?...

‘‘Nhất Niệm’’ là một niệm. Một niệm mà muốn tương ứng với con đường vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc, thì một niệm đó phải là niệm ‘‘A-Di-Đà Phật’’.

‘‘Niệm Niệm’’ tương ưng là có nhiều niệm. Nhiều niệm mà muốn tương ưng với con đường vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc, thì niệm niệm đó phải là niệm niệm Phật, không có gì khác.

‘‘Nhất Niệm Tương Ưng’’ có nghĩa là: Giả sử cuộc đời này chúng ta sắp sửa tàn rồi, chỉ còn có thời gian đủ để niệm được một niệm mà thôi tương ưng để về Tây-Phương Cực-Lạc, thì một niệm đó phải là niệm ‘‘A-Di-Đà Phật’’. Nếu sơ ý, chỉ còn trong một giây nữa là mình tắt hơi, mà khởi ra một cái niệm gì khác, thì niệm khác đó gọi là ‘‘Bất Tương Ưng!’’. Bất tương ưng thì không thể nào về Tây-Phương Cực-Lạc được.

‘‘Niệm Niệm Tương Ưng Niệm Niệm Phật’’ có nghĩa là sao?... Có nghĩa là khi ta có cơ duyên gặp được câu A-Di-Đà Phật, ta có thời gian huân tu để thành tựu. Nếu muốn thành tựu con đường nào khác thì có thể lơ là câu niệm Phật, nhưng một người thật sự muốn đi về Tây-Phương Cực-Lạc thì từ đây cho đến ngày mình xả bỏ báo thân, tức là đến một hơi thở cuối cùng, thì phải niệm niệm liên tục, tương tục... tương tục... tương tục câu A-Di-Đà Phật, đừng nên xen những niệm khác. Đó là ý nghĩa: Nhất hướng chuyên niệm A-Di-Đà Phật vậy.

Chính vì thế, nếu chư vị nghĩ rằng, trong một đời này, ta cần phải về Tây-Phương Cực-Lạc, thì xin chư vị cứ nhắc hoài câu này trong tâm.

Nhất Niệm Tương Ưng Nhất Niệm Phật.

Niệm Niệm Tương Ưng Niệm Niệm Phật.

Một niệm mà muốn tương ưng với đại nguyện của đức A-Di-Đà Phật để về Tây-Phương thì niệm đó là niệm A-Di-Đà Phật. Nhiều niệm, thời gian mình còn nhiều năm nhiều tháng, muốn sau cùng được một niệm tương ưng là phải từ đây huân tu câu A-Di-Đà Phật, để câu A-Di-Đà Phật nhập vào tâm. Sau cùng ta khởi được một niệm, một niệm cuối cùng tương ưng: ‘‘Niệm Niệm Phật’’... Câu này vô cùng quan trọng.

Chính vì vậy mà trong pháp môn Niệm Phật, chư Tổ luôn luôn nhắc nhở chúng sanh, nhất là nhắc nhở hàng hạ căn chúng ta không được rời câu A-Di-Đà Phật trong tâm.

Ngài Ấn-Quang Đại Sư nói: Từ sáng đến chiều, phải giữ trong tâm câu A-Di-Đà Phật. Ở những nơi trang nghiêm thanh tịnh như Niệm Phật Đường, hãy niệm lớn tiếng câu A-Di-Đà Phật. Ở những chỗ không trang nghiêm, không thanh tịnh, hãy niệm thầm câu A-Di-Đà Phật.

Tức là niệm lớn hay niệm nhỏ, cũng niệm câu A-Di-Đà Phật. Ngài nói vào trong nhà vệ sinh, nhà xí, cũng phải niệm A-Di-Đà Phật. Không được gián đoạn, nhưng mà chỗ đó là chỗ không trang nghiêm thì phải niệm thầm.

Ngài Ngẫu-Ích Đại Sư dạy, niệm Phật điều quan trọng là niệm cho sâu. Niệm sâu này chính là ‘‘Một Niệm Phật Tương Ưng’’ với đại nguyện của A-Di-Đà Phật.

- Một là tin tưởng.

- Hai là phát nguyện.

- Ba là trì giữ câu A-Di-Đà Phật trong tâm.

Các Ngài nói lên nói xuống cũng giống hệt như vậy. Niệm tương ưng chính là cái niệm có ‘‘Tín’’, có ‘‘Nguyện’’ và niệm câu A-Di-Đà Phật liên tục không ngừng trong tâm. Nếu một người trong đời mạt pháp này, hạ căn như chúng ta, mà lơ là câu A-Di-Đà Phật, không chịu chuyên niệm câu A-Di-Đà Phật. Muốn thử cái này một chút, thử cái kia một chút... thì nhất định niệm này không phải là cái niệm tương ưng! Không niệm tương ưng thì nhất định không có tương hợp với đại nguyện của đức A-Di-Đà Phật, sau cùng là có thể bị trở ngại!... Không biết là cơ duyên cuối cùng của chư vị có được may mắn như những người mà chúng ta đã hộ niệm cho người ta vãng sanh hay không?

Ngài Liên-Trì Đại Sư diễn tả câu:

Nhất Niệm Tương Ưng Nhất Niệm Phật.

Niệm Niệm Tương Ưng Niệm Niệm Phật.

Như thế nào?... Mỗi Ngài có một cái cách giải, hay lắm. Nhưng quý vị đưa ra mà so sánh thì giống hệt với nhau, chứ không khác.

Ngài nói, ‘‘Tam tạng thập nhị bộ’’ là ba tạng kinh điển, mười hai phần giáo của đức Thế-Tôn giảng dạy trong bốn mươi chín năm, ai muốn ngộ, thì cứ bỏ công sức ra mà ngộ. Ai muốn đại khai viên giải, thì cứ việc nghiên cứu, không cấm. Tại vì kinh Phật không được quyền cấm.

‘‘Bát vạn tứ thiên hạnh’’, tức là Ngài chỉ cho tám mươi bốn ngàn pháp môn tu tập của đức Thế-Tôn nói trong kinh điển, ai muốn tu trì cứ việc tu trì, ai muốn hành cứ việc hành. Đây là điều tốt, chứ không phải xấu. Còn riêng Ngài thì bốn chữ A-Di-Đà Phật nhất định không ly. ‘‘Bốn chữ A-Di-Đà Phật nhất định không ly’’, chính là:

Nhất Niệm Tương Ưng Nhất Niệm Phật.

Niệm Niệm Tương Ưng Niệm Niệm Phật.

Ngài niệm Phật mà trong sách ghi lại rằng, dưới chiếc chiếu Ngài ngồi niệm Phật nảy lên những hạt xá lợi. Quý vị tưởng tượng, một vị Đại Sư mà các Ngài làm như vậy, để lại cho chúng ta những lời khai thị tuyệt vời!

Ngài Ưu-Đàm Đại Sư giảng nghĩa câu:

Nhất Niệm Tương Ưng Nhất Niệm Phật.

Niệm Niệm Tương Ưng Niệm Niệm Phật.

Như thế nào?... Ngài nói như thế này:

- Lúc giận niệm câu A-Di-Đà Phật.

- Lúc buồn niệm câu A-Di-Đà Phật.

- Lúc vui niệm câu A-Di-Đà Phật.

- Lúc đói niệm câu A-Di-Đà Phật.

- Lúc no niệm câu A-Di-Đà Phật.

- Lúc đi niệm câu A-Di-Đà Phật.

- Lúc nằm niệm câu A-Di-Đà Phật.

- Lúc bị người ta mắng niệm câu A-Di-Đà Phật.

- Lúc được người ta khen niệm câu A-Di-Đà Phật.

- Lúc thắng thế niệm câu A-Di-Đà Phật.

- Lúc thất bại niệm câu A-Di-Đà Phật.

Thời thời khắc khắc trả lời bất cứ mọi hiện tượng xảy ra trong đời bằng câu A-Di-Đà Phật.

Quý vị coi, Diệu Âm đem những lời các Ngài để giảng nghĩa câu này. Nhưng thật ra, tất cả những lời răn dạy của các Ngài về hình tướng thì khác, người này nói khác, người kia nói khác, kinh Phật nói khác... nhưng chỉ khác trong lời nói, còn ý nghĩa thì hoàn toàn tương đồng với nhau. Các Ngài nói ra những lời mạnh mẽ như vậy để chi?... Để một người trong thời mạt pháp này và thuộc hạng người hạ căn phàm phu nhớ rằng, nếu không áp dụng câu:

Nhất Niệm Tương Ưng Nhất Niệm Phật.

Niệm Niệm Tương Ưng Niệm Niệm Phật.

Thì coi chừng không còn lối thoát nào khác ngoài đường lục đạo luân hồi, sáu đường sanh tử. Ta học Phật, ta biết chắc chắn rằng khi cái xác thân này chết đi, nhưng chúng ta không chết, đời-đời kiếp-kiếp, vẫn là vô sanh vô tử. Cái oái oăm là ta sẽ sanh lại trong cảnh giới nào đây? Sướng hay khổ? Chịu những ách nạn gì đây?... Nếu người học Phật ngộ ra chỗ này, thì sợ đến toát mồ hôi! Vì sao?... Vì nghiệp chướng sâu dày, oan gia trái chủ chập chùng, trí huệ quá ư là mê mờ!... Nhất định tất cả những cái duyên này, cái nhân này, toàn bộđi vào trong sáu đường tử sanh sanh tử, mà xin thưa thật rằng, trong đó hết chín mươi chín phần trăm (99%) là tam ác đạo, chứ không phải là tam thiện đạo!

Chính vì thế, nếu chúng ta sơ ý, không chịu hiểu đạo, không chịu ngộ đạo, không chịu giật mình tỉnh ngộ, cứ lầm lũi lầm lũi theo đoàn người thế gian đi vào trong hầm lửa, thì xin thưa với chư vị rằng ba cái điểm Thiện-Căn, Phước-Đức, Nhân-Duyên này quá thù thắng, nhưng mà không giúp ích gì được chúng ta cả. Đời sau chúng ta vẫn bị nạn, mặc dù ngày hôm nay, giờ phút này, chúng ta niệm Phật.

Niệm Phật mà không quyết lòng về Tây-Phương thì đây chỉ là ‘‘Nhất Niệm Bất Tương Ưng’’!... Nhất định sẽ không tương ưng với đại nguyện đức A-Di-Đà Phật, không có cảm ứng!...

Niệm niệm! Mình niệm rất nhiều! Đến ngày hôm nay đã gần bốn-năm ngày rồi, mình niệm Phật quá nhiều trong suốt bảy ngày liên tục. Mình niệm khan tiếng, nhiều lúc cũng có nhiếp tâm. Nhưng nhiếp tâmbất tương ưng, tại vì con đường mình đi không muốn về Tây-Phương! Tại sao vậy?... Vì niềm nghi ngờ đã khởi lên trong tâm này, niềm tin tưởng không vững. Niềm tin tưởng không vững, thì khi mình đọc ‘‘Nguyện sanh Tây-Phương Tịnh-Độ trung’’ chỉ là nguyện thử, là nguyện giả, là nguyện để khỏi bị mích lòng những vị bên cạnh! Nhất định những lúc chư vị niệm Phật này, chắc chắn cũng tạo ra cái nhân, nhưng là cái nhân trong vô lượng kiếp sau. Đau đớn thay!... Một Niệm Tương Ưng đi về Tây-Phương. Nhưng ở đây mình niệm quá nhiều… Ấy thế mà chỉ vì bất tương ưng, nên không thể về Tây-Phương Cực-Lạc được! Không trở về Tây-Phương Cực-Lạc, thì xin thưa với quý vị, đời này là mạt pháp rồi, cơ hội này là cuối cùng rồi, cuối cùng trong khoảng sáu trăm triệu năm nữa, lúc đó mới tính gì tính!...

Nhớ cho kỹ, sáu trăm triệu năm, chứ không phải là sáu mươi triệu năm, hay là sáu triệu năm, thì mới gặp được đức Di-Lặc-Tôn Phật hạ sinh cứu vớt chúng sanh. Cũng nên nhớ rằng, muốn được đức Di-Lặc độ chúng ta, thì chúng ta phải là những người có thiện-căn phước-đức đầy đủ, và phải là con người mới gặp được Ngài, chứ nếu mà nằm trong hàng ngạ quỷ, trong hàng súc sanh, trong hàng địa ngục... Ôi thôi chịu thua!...

Đức Bổn Sư Thích-Ca-Mâu-Ni Phật là hàng sư phụ của Di-Lặc Bồ-Tát bây giờ mà cứu chúng ta không được, thì đừng nghĩ rằng đức Di-Lặc sẽ cứu được chúng ta. Cho nên chỉ cần một chút sơ ý, niệm bất tương ưng, chúng ta phải trải qua đời-đời kiếp-kiếp bị đọa lạc!...

Ngộ chỗ này, mình thấy mình phải đi. Tu phải chuyên... chuyên... chuyên... chuyên nhất. Nếu không chịu chuyên nhất, nếu ham thích cái này, ham thích cái nọ... nhất định những cái niệm ngày hôm nay chỉ là những niệm bất tương ưng! Niệm bất tương ưng thì không về Tây-Phương Cực-Lạc được.

Chính vì vậy mà ngài Tịnh-Không luôn luôn nhắc nhở người niệm Phật, nhất định phải chuyên nhất, không được xen tạp. Xen tạp là tối kỵ, đại tối kỵ trong pháp môn Niệm Phật! Vì xen tạp chính là cái ‘‘Niệm Bất Tương Ưng’’ không được cảm ứng! Không được cảm ứng thì đành rằng phải bỏ đại nguyện của đức A-Di-Đà Phật mà đi con đường tự lực tu chứng. Với hàng phàm phu như chúng ta, vạn kiếp, vạn-vạn kiếp nữa quý vị tìm đến kiếp nào để mình về Tây-Phương đây?…

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

THIỆN-CĂN, PHƯỚC-ĐỨC, NHÂN-DUYÊN

Tọa Đàm 11

 Nam Mô A-Di-Đà Phật.

 Ngày hôm qua mình nghe tiếng địa chung của chị Mơ hay xuất quỉ nhập thần. Ngày hôm nay tiếng địa chung của chị Mơ hình như là xuất thần nhập thánh. Hay quá! Tán thán, tán thán! Cố gắng lên.

 Ngày hôm qua mình có nhắc đến, một người nếu thật sự muốn vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc với A-Di-Đà Phật thì đừng bao giờ quên câu:

Nhất niệm tương ưng, nhất niệm Phật.

Niệm niệm tương ưng, niệm niệm Phật.

Hẳn nhiên, nếu người nào không muốn về Tây-Phương Cực-Lạc thì khỏi cần nhớ câu này làm chi. Những người nào cũng muốn về nhưng mà không muốn về đời này, về đời khác sau này thì quên luôn cũng được, không sao! Không ai nói gì đâu...

Hôm nay nhắc đến một câu của Phật nói nữa. Phật nói rằng:

Mạt pháp, ức ức nhân tu hành hãn nhất đắc đạo. Chỉ y niệm Phật pháp môn liễu thoát luân hồi”.

Câu này Phật nói trong kinh Đại-Tập. Nếu mà chú ý một chút thì Phật có lúc nói lời này, có lúc nói lời kia. Chư Tổ nhiều khi tuyên dương lời này, tuyên dương lời kia. Nói về từ ngữ thì khác với nhau, nhưng ý nghĩa thì hoàn toàn giống nhau. Cho nên từ những câu này, nếu mà chúng ta ngộ ra bất cứ câu nào cũng được, không cần gì phải chấp vào một câu.

Thời mạt pháp, vạn ức người tu hành”. Nói tu hành là nói những người chúng ta, tất cả bình đẳng. “Hãn” là họa hiếm, khó khăn lắm, may mắn ra... “Hãn nhất” là may mắn ra mới có một người, khó tìm lắm mới có một người... một người chứng đắc. “Đắc đạo” là người chứng đắc.

Chính vì mấy câu này, nên ngày hôm trước chúng ta thường nhắc, người niệm Phật chớ nên cầu chứng đắc mà hãy cầu vãng sanh. Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta. Dù cho đời này ta gặp câu A-Di-Đà Phật quá trễ! Có nhiều khi quá trễ đến độ mà trước giờ phút chuẩn bị lìa đời kịp thời ngộ ra liền câu Phật hiệu cũng được. Để chi?... Để chỉ còn là một giây cuối cùng là niệm A-Di-Đà Phật rồi tắt hơi luôn. Tức là “Nhất niệm”, thì cái niệm này phải tương ứng với cái niệm mà A-Di-Đà Phật đã nói với chúng ta. Tín-Nguyện-Hạnh niệm Phật để vãng sanh. Nếu người nào làm được như vậy thì bây giờ khỏi tu. Hì hì!... Tu làm chi?...

Còn nếu mà mình nghĩ rằng trong lúc lâm chung mình không niệm được, mình sợ rằng lúc lâm chung mình không cách nào nhớ câu A-Di-Đà Phật. Nếu không còn cách nào nhớ được, thì chúng ta hãy dùng câu: “Niệm niệm tương ưng niệm niệm Phật”. Niệm niệm từ bây giờ đến ngày lâm chung là niệm câu A-Di-Đà Phật, tiếp tục mà niệm, gọi là “Tịnh Niệm Tương Kế”. Đây là lời của ngài Đại-Thế-Chí.

Mình thấy rõ ràng, chư đại Bồ-Tát, chư Phật nói giống giống nhau, không có gì khác nhau.

Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni nói rằng thời mạt pháp này ức triệu người tu hành, nhưng mà khó tìm ra một người đắc đạo. Ngài không phải là chỉ nói cho quả địa cầu này không đâu. Nên nhớ rằng đức Thích-Ca Ngài nói ra một lời là tam thiên đại thế giới ghi nhận. Xin nhớ kỹ điều này, phải ngộ ra điều này. Ức triệu người tu hành, tìm một người đắc đạo tìm không ra đâu à!

“Y” là y giáo; “Chỉ” là duy trừ. Duy trừ những người nào nương theo pháp niệm Phật. “Chỉ y niệm Phật pháp môn liễu thoát sanh tử luân hồi”, nghĩa là người đó được thoát đường sanh tử luân hồi.

Chính vì vậychúng ta hôm nay có cái cơ duyên gặp được pháp niệm Phật, thì xin chư vị đừng nên lơ là, đừng nên sơ ý, đừng nên háo kỳ, đừng nên để cái tâm của mình nó duyên theo cảnh giới, nó duyên theo chúng sanh, nó duyên theo “Ức ức người tu hành hãn nhất đắc đạo” kia. Mà chúng ta hãy duyên theo cảnh giới Tây-Phương Cực-Lạc. Tại vì Nhân Duyên ta phải tròn đầy, phải hợp với nhau mới sinh ra cái “Quả”.

Chúng ta mấy ngày hôm nay nói về Thiện-Căn, Phước-Đức, Nhân-Duyên. Do cái Thiện-Căn, Phước-Đức của chư vị tu được từ hồi nào không biết, bây giờ gặp đến cái Nhân-Duyên này, là Nhân-Duyên niệm Phật. Tức là có cái Nhân niệm Phật, nhưng cũng nên coi chừng cái Duyên, đừng sơ ý lạc mất Duyên mà chúng ta cũng có thể phải trôi lăn trong lục đạo luân hồi tiếp.

Chỉ y pháp môn Niệm Phật”. Chỉ y pháp môn Niệm Phật chính là “Chỉ y Tín-Hạnh-Nguyện niệm Phật", đừng nên sơ ýcoi chừng vượt qua cơ hội này.

Về chuyện niệm Phật vãng sanh, chư Tổ có nói: Có người niệm Phật được vãng sanh là do cái Nhân niệm Phật đã có. Cái Duyên vãng sanh ta có thì cái Quả về Tây-Phương ta sẽ có. Ví dụ chư vị đang niệm Phật là có cái nhân niệm Phật. Bây giờ xin hỏi cái duyên này là gì? Chính là ta phải tạo cơ hội cho tâm của ta dính chặt trên con đường về Tây-Phương Cực-Lạc, đừng có rời ra.

Như vậy, khi niệm Phậtchúng ta lơ là cái chuyện nguyện vãng sanh thì vô tình chúng ta có cái Nhân Niệm Phật, nhưng mà mất cái Duyên đi về Tây-Phương. Không đi về Tây-Phương, thì Nhân Niệm Phật này có thể nó biến thành cái quả khác. Quả gì?... Nếu chư vị tham, sân, si, mạn, nghi, ác-kiến không còn nữa, tài-sắc-danh-thực-thùy không còn nữa, tu rất là ngon lành, rất là thiện lành, cái nhân niệm Phật này nó sẽ giúp cho chư vị một cái quả báo gọi là quả báo Nhân-Thiên, có thể đời sau sinh vào các hàng vua chúa. Hì hì!... Thấy sướng chưa? Cũng sướng đó chứ!...

Nhưng nên nhớ, những người sinh làm ông vua thì cũng ngon lành một chút đó nha. Nếu ngũ dục lục trần bỏ đi, tài sắc danh thực thùy bỏ đi, thì có thể sinh thành ông vua mà cũng có thể sinh trên cõi trời, cũng ngon lành lắm. Đây là những người niệm Phật có “Nhân” mà thiếu “Duyên”. Nếu thiếu cái duyên vãng sanh Tây-Phương và thiếu luôn cái duyên phước báu Nhân-Thiên, thì lỡ nó gặp cái duyên đi về các chỗ tai hại trong tam ác đạo rồi thì chết!...

Như vậy, niệm Phật mà cũng phải coi chừng! Coi chừng cái gì vậy?...

- Tham sân si mạn... nổi lên ào ào!

- Cống cao ngã mạn nổi lên ào ào!

- Cho ta là chứng đắc nổi lên ào ào!

Tất cả những thứ này là cái duyên vào trong tam ác đạo hết. Dễ sợ!... Xin đừng nên sơ ý. Phải cẩn thận!...

Bây giờ những người gặp được ban hộ niệm, nguyện vãng sanh Tây-Phương tha thiết... tất cả đều thuộc về duyên. Muốn vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc nhưng phương pháp tu hành không chịu chuyên nhất, niệm Phật không chịu tha thiết... Ngày nay thì niệm Phật, ngày mai thấy người kia làm gì đó hay hay nên mình cũng chạy theo làm cho nó ra vẻ ngon ngon một chút... Vô tình mình đã chạy theo đoàn người gọi là “Ức ức nhân tu hành, hãn nhất đắc đạo” rồi! Đây là mình có cái duyên, tức là giả sử như cuối đời mình có người bên cạnh hộ niệm. Có nhân là bám sát vào cái đạo tràng của anh Tâm Nhật Thuyết, nhưng mà cái tâm tu hành của mình trong lúc niệm Phật đã bị xao lãng rồi. Mình nghĩ tại sao cứ niệm A-Di-Đà Phật, A-Di-Đà Phật hoài? Tại sao các thứ khác mình không tu? Tại sao các câu chú khác mình không niệm?... Có nhân có duyên mà niềm tin không vững! Vô tình chúng ta đã quên mất câu Phật dạy rồi: “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật. Niệm niệm tương ưng niệm niệm Phật".

Ta đã quên câu: Người nào chỉ y theo pháp môn Niệm Phật mới thoát luân hồi.

Y theo pháp môn Niệm Phật chính là “Tín-Hạnh-Nguyện” cho đầy đủ.

Vì thế, xin thưa với chư vị, cơ hội vãng sanh về Tây-Phương ở sát bên mình, nhưng vì cái tâm chúng ta bị xao lãng rồi nên mất phần vãng sanh! Trong kinh Phật có đưa ra dạng “Tâm viên ý mã”. Tâm không chịu định một chỗ, không chịu trụ một nơi, không đi theo đúng đường. Thường thường người niệm Phật mà không được về Tây-Phương chính vì vướng vào lỗi này. Nghĩa là tu theo tình cảm, không chịu tu theo con đường quyết lòng đắc đạo, không chịu quyết lòng đi về Tây-Phương, không chịu quyết lòng thành đạo…

Xin chư vị, mấy ngày hôm nay Diệu Âm cứ nói quần qua quần lại điểm này là để làm sao khởi phát cho được trong mỗi chúng ta một niềm tin. Phải có niềm tin vững như tường đồng vách sắt mới được.

Người ta không muốn niệm Phật, vì người ta không muốn về Tây-Phương. Ta muốn về Tây-Phương cho nên ta quyết lòng không đi theo họ. Họ không muốn về Tây-Phương, nên họ không quyết lòng theo ta... Tất cả đều phải tùy duyên, chứ đừng nên nói rằng: “Thấy anh không muốn về Tây-Phương, thì tôi cũng không về Tây-Phương nữa làm chi, để cho chúng ta được đồng nghĩa, đồng tình!”. Hoàn toàn sai lầm!...

Tôi không kêu mời anh đi về Tây-Phương làm chi đâu! Tôi chỉ biết rằng đi niệm Phật để về Tây-Phương là tại vì…

- Tôi muốn về Tây-Phương…

- Tôi thèm về Tây-Phương…

- Tôi thích về Tây-Phương…

- Tôi trông gặp được A-Di-Đà Phật để một đời này thành đạo.

Có nhiều người nói rằng, tôi không muốn về Tây-Phương, tôi không muốn gặp A-Di-Đà Phật, tôi muốn ở lại trong cõi Ta-bà để kết duyên với vô lượng vô biên chúng sanh... thì cái nguyện của họ là muốn kết bạn với vô lượng vô biên chúng sanh để tiếp tục chịu khổ với nhau cho chung tình, cho trọn nghĩa! Thì ta cũng phải có một quyết định cứng rắn rằng: “Tôi quyết định về Tây-Phương, để tôi gặp chư đại Thánh Chúng, tôi gặp chư Phật, chư Bồ-Tát”. Để chi vậy?... Đồng tình đồng nghĩa với các Ngài, để sau này đi cứu những người không chịu về Tây-Phương, vì họ sơ ý phải trải qua một thời gian quá ư đau khổ!.. Nhưng nên nhớ, họ phải ngộ ra mới được. Phải Ngộ ra rồi, thì lúc đó tôi mới cứu họ về Tây-Phương được. Nếu họ vẫn không ngộ thì cũng chịu thua!... Còn bây giờ thì mỗi người có mỗi đường đi...

Mong chư vị hiểu được như vậy mà thấy rằng, với khả năng của một người phàm phu tục tử như chúng ta, thì hãy nhớ tới câu: “Mạt pháp, ức ức nhân tu hành”. Nghe cho kỹ, ức ức nhân tu hành là chính chúng ta đây này. “Hãn nhất” là khó lắm! Khó tìm ra một người được đắc đạo. Mà cái đắc đạo ở trong lời nói của Phật này là thoát qua sanh tử luân hồi, là vượt qua tam giới. Duy chỉ có một người nào nương theo pháp niệm Phật mới thoát luân hồi được…

- Nương là phải nương cho đúng.

- Nương cho chính.

- Nương cho thẳng.

- Nương cho chính xác!…

Không được phá giới của pháp Niệm Phật nhé. Ví dụ như…

- “Đa tạp” là phá giới của pháp môn Niệm Phật.

- “Nghi ngờ” là phá giới của pháp môn Niệm Phật.

- “Sân giận” là phá giới của pháp môn Niệm Phật.

- “Không thèm vãng sanh” là phá giới của pháp môn Niệm Phật.

Những người nào y theo, gọi là “Chỉ y niệm Phật pháp môn”, thì người đó thoát luân hồi.

Xin thưa thoát luân hồi chỉ là vượt qua tam giới, chưa cao mấy đâu. Niệm Phật còn được thoát luôn về tới Tây-Phương Cực-Lạc để thành đạo Vô-Thượng…

Cho nên hiểu được như vậy, mong chư vị càng ngày càng vững tâm. Nhất định đi đường nào một đường. Không được nói một nửa về Tây-Phương một nửa ở lại Ta-bà. Không được đâu! Về Tây-Phương rồi ta mới có quyền nói câu đó, vì về được Tây-Phương rồi ta mới có thể phân thân xuống đây, lúc đó muốn làm gì thì làm. Chứ bây giờ chưa về được Tây-Phương, thì nhất định một đường đi về Tây-Phương phải thẳng tắp. Có thẳng tắp như vậy thì hy vọng trong đời này ta mới có thể gặp A-Di-Đà Phật để mà đắc đạo. Chứ người nào còn lơ lơ làđi theo cá nhân, tu theo tình cảm, thì nhất định bây giờ có tới gặp cư sĩ Tâm-Nhật-Thuyết ngày ngày đi nữa, niệm Phật ngày đêm tại Niệm Phật Đường Liên-Hoa này đi nữa, thì cũng chỉ kết thêm một chút duyên lành trong vô lượng kiếp nữa rồi mới tính?…

Mong chư vị không dại gì một đời này có khả năng về được Tây-Phương lại không đi, mà chờ đến vạn kiếp sau mới đi về… Thật sự là oan uổng lắm!... Xin chư vị nhớ cho.

Nhất định một câu A-Di-Đà Phật để về tới Tây-Phương trước rồi tính sau.

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

THIỆN-CĂN, PHƯỚC-ĐỨC, NHÂN-DUYÊN

Tọa Đàm 12

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

Trong kinh Phật Thuyết A-Di-Đà có câu là: “Thiện-Căn, Phước-Đức, Nhân-Duyên đầy đủ mới được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc".

Trong kinh Quán-Vô-Lượng-Thọ, Phật nói có câu: “Thâm tín nhân quả”. Nhân quả trong kinh Quán-Vô-Lượng-Thọ là: “Niệm Phật là nhân, thành Phật là quả”. Như vậy niệm Phật là “Đại Nhân-Duyênthành Phật là “Đại Quả-Báo”.

Hai lời này từ trong kinh A-Di-Đà và kinh Quán-Vô-Lượng-Thọ hình như có sự liên kết với nhau…

Trong kinh A-Di-Đà Phật nói “Người nào thiếu Thiện-Căn, ít Phước-Đức, ít Nhân-Duyên không thể vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc được”. Có nghĩa là thiện-căn, phước-đức và nhân-duyên phải đầy đủ, phải viên mãn mới vãng sanh. Rồi khi chúng ta coi trong kinh Quán-Vô-Lượng-Thọ Phật nói “Thâm tín nhân quả” tức là tin cho sâu. Sâu chỗ nào?... Niệm Phật là “Đại Nhân”, thành Phật là “Đại Quả”. Hình như là giữa hai lời kinh trong hai kinh bổ nghĩa với nhau.

Có Thiện-Căn, có Phước-Đức trong quá khứ mới đưa đến cái cơ hội ngày hôm nay chúng ta niệm Phật. Cũng bao nhiêu người niệm Phật như vậy, người nào trân quý vào cái cơ hội niệm Phật này chính là có chữ “Nhân”. Rồi tới chữ “Duyên”, thì ở trong kinh Quán-Vô-Lượng-Thọ không nói đến chữ duyên. Nhưng mà đem chữ “Nhân” và “Duyên” trong kinh A-Di-Đà kết hợp với chữ “Nhân-Quả” trong kinh Quán-Vô-Lượng-Thọ, thì ta có được đầy đủ ba thứ Nhân-Duyên-Quả báo. Rồi trong kinh Hoa-Nghiêm, Phật nói, “Nhân-Duyên quả báo tơ hào không sai”.

Thật ra, trong kinh từng lời, từng lời Phật nói giống nhau chứ không phải khác nhau. Trong kinh Quán-Vô-Lượng-Thọ, Phật nói niệm Phậtđại nhân. Bây giờ chúng ta ở đây đang niệm Phật, chúng ta đang làm cái đại nhân đó. Phật nói có đại nhân rồi, chúng ta phải cần đến cái duyên để nó sinh ra cái quả. Có những người có thiện-căn, có phước-đức, có nhân-duyên viên mãn, họ đã có được tất cả những cái này rồi, nhưng trong tâm của họ vẫn còn có sự hồ nghi rằng: “Đâu có chuyện vãng sanh dễ dàng như vậy?”... Vô tình cái nhân gọi là thiện-căn và phước-đức đã đưa đến cái quả báo của ngày hôm nay là ta niệm được câu A-Di-Đà Phật, thay vì ta lấy cái nhân này để đi thành Phật, nhưng vì nghi ngờ rằng cái nhân trong quá khứ của ta không đủ, rồi cái cơ hội niệm Phật này cũng không đủ sức, nên tâm hồn sinh ra chao đảo!... Vì tâm hồn chao đảo nên ta không chú tâm bồi dưỡng cái duyên ngày hôm nay, vô tình để cho những cái duyên khác chen vào...

Ta đang niệm Phật là đại-nhân. Ta không tạo cái đại-duyên, nên câu A-Di-Đà Phật không trở thành quả-báo vãng sanh. Mà công phu niệm Phật ngày hôm nay nó chuyển thành thứ Phước-Báu Nhân-Thiên.

Trong kinh Vô-Lượng-Thọ, Phật nói những người niệm Phật thành tâm mà không cầu vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc, thì cái quả báo Nhân-Thiên của họ ở đời sau lớn lắm, thường thường là sinh vào trong hàng vua chúa, làm tổng thống, làm thái tử ở trong cõi Ta-bà này.

Ấy thế, cũng là một người niệm Phật mà khi họ gặp được cơ hội này, họ quyết lòng đem cái nhân này cầu nguyện vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc, thì lời nguyện vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc chính là cái duyên, họ đem tất cả cái nhân này gởi về Tây-Phương hết, ngoài ra không đi chỗ nào nữa.

Cho nên cũng là một người niệm Phật như vậy là đại nhân, nhưng mà người ta tạo ra cái đại duyên, không để cho cái duyên nào khác bên ngoài xen vào, thì cái “Nhân” hợp với cái “Duyên” lúc nào nó thành ra cái “Quả” lúc đó.

Trong đời này ta niệm Phật là có đại nhân, ta quyết lòng đem cái nhân này đi về Tây-Phương Cực-Lạc tức là nguyện vãng sanh, rõ ràng “Nhân” gặp “Duyên” sinh ra “Quả báo” vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc. Còn nhân này là nhân thành Phật, nhưng ta bỏ con đường vãng sanh thành Phật, lại chờ vài ngàn kiếp nữa mới nguyện vãng sanh về Tây-Phương... Thật là oan uổng!

Trong những tọa đàm trước, Diệu Âm có nói câu này, có nhiều người nghĩ rằng cần phải tu thiện tích phước cho nhiều mới có khả năng vãng sanh, chứ làm gì mà vãng sanh dễ vậy? Vì tự nghĩ thế nên mới dẫn dụ người ta hãy niệm Phật để cầu phước. Cầu cho có phước rồi thì đời sau tiếp tục tu tiếp, chủ trương tiếp tục tu dưỡng phước-đức đến vô lượng kiếp như vậy, mong cho đủ phước để vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc!... Thì trong kinh cũng có nói rằng, một người nào trong đời này gặp câu A-Di-Đà Phật, niệm được câu A-Di-Đà Phật, chứng tỏ trong vô lượng kiếp về trước họ đã tu thiện phước nhiều lắm rồi, lớn lắm rồi, thiện-căn phước-đức đã có rồi, khiến cho đời này họ mới dám mạnh dạn mặc cái áo tràng, vào trong Niệm Phật Đường niệm câu A-Di-Đà Phật. Phật đã xác định như vậy, bây giờ chúng ta ngồi đây niệm Phật mà còn nghĩ rằng mình không có nhân-duyên, mình không có phước-đức?!...

Nghe trong các kinh khác, Phật nói muốn về Tây-Phương Cực-Lạc, muốn thành đạo Vô-Thượng phải tu vô lượng kiếp, thành ra quý vị cũng dẫn dắt chúng sanh tu vô lượng kiếp. Nhưng xin hỏi rằng, đời này mình tu như thế này, đời sau nếu mình được trở lại làm người, liệu có ai chỉ cho mình câu A-Di-Đà Phật để niệm nữa hay không? Đó là điểm thứ nhất.

Theo như ngài Ấn-Quang Đại Sư nói, giả sử như đời sau mình không trở lại làm người thì sao?... Ngài nói, nhờ có thiện-căn phước-đức lớn lắm mình mới gặp câu A-Di-Đà Phật. Tuy nhiên, đã sinh lại làm người trong thời mạt pháp của đức Thế-Tôn rồi, thì nghiệp chướng của chúng ta nó cũng tràn trề chứ không phải là yếu đâu, không phải nó thua cái thiện-căn đó đâu à!...

Nếu khôn khéo, mình nhanh chóng, gấp rút gom hết tất cả những thiện-căn phước-đức trong nhiều đời nhiều kiếp dồn vào đây để niệm câu A-Di-Đà Phật, thì ngày hôm nay ta có đại nhân để đi về Tây-Phương. Đi về Tây-Phương rồi thì ta sẽ có được tất cả. Tu hành như vậy thì ta đi con đường một đời thành tựu!...

Nếu bây giờ chúng ta chê bai những công hạnh tu hành trong quá khứ, cứ liệng, liệng cho hết, buông xuống cho trụi lủi đi những thiện-căn trước của mình!... Hoặc là chê bỏ nó đi!… Cứ việc chê bỏ đi!… Chê bỏ rồi tiếp tục lăn lộn trong cảnh sanh tử này mà tạo thiện-căn mới… Chưa biết thiện-căn mới sẽ như thế nào? Nhưng ta đành chịu thêm cảnh sanh tử luân hồi vô lượng kiếp nữa!... Thì đây cũng chính là ta quyết định lấy, chứ Phật không dạy như vậy!...

Bây giờ giả sử như một người không đủ thiện-căn phước-đức đi. Hỏi họ, muốn tạo thêm không? Xin thưa với chư vị, muốn tạo cũng dễ lắm!… Dễ lắm!... Dễ chỗ nào?...

- Một câu A-Di-Đà Phật thành tâm niệm thì phước tăng vô lượng, phước-đức tràn trề!

- Một câu A-Di-Đà Phật quyết lòng mà niệm Thiện-Căn tràn trề!

- Một câu A-Di-Đà Phật mà niệm gọi là Đại-Nhân-Duyên…

Nhất định ta được trở về Tây-Phương Cực-Lạc. Đó gọi là “Thâm tín nhân quả”…

Nếu mà chúng ta không tin rằng ta niệm một câu A-Di-Đà Phật là do một cái nhân-duyên vô cùng vĩ đại, vô cùng tốt đẹp trong quá khứ, mà chỉ nghĩ rằng: À! Người ta niệm, mình cũng niệm cho vui!... Thì xin thưa thật, ở đây có một trăm người, nếu có một người nào nghĩ rằng niệm câu A-Di-Đà Phật để tìm thêm chút phước-báu, là tự họ đã tách rời con đường thành tựu, đi theo con đường phước-báu để chuẩn bị chịu dập dềnh, dập dềnh vô lượng kiếp nữa trong sanh tử luân hồi rồi mới tính sau. Không biết trong vô lượng kiếp đó tình cảnh của họ sẽ như thế nào?...

Hồi sáng mình nói rõ rệt!… Lỡ lọt lại đời sau mà có được làm thân người đi nữa!… Làm người trong thời mạt pháp này thì sao?… Mạt pháp của Phật pháp có nghĩa là một đời Phật pháp sẽ yếu hơn một đời. Bây giờ chúng ta đã gặp cơ duyên niệm Phật trong cái thế mạnh hơn của Phật pháp, mà ta không chộp lấy cơ hội này để mau chóng đi về Tây-Phương, lại còn có ý niệm chờ đến đời sau!... Chờ khi mà Phật pháp yếu đi!... Chờ cho nghiệp chướng của ta nặng hơn!... Hỏi rằng chúng ta còn có cơ hội để đi về Tây-Phương thành đạo Vô-Thượng được nữa sao?...

Khi hiểu được chỗ này, thì chư vị mới thấy rõ ràng là ta ngồi đây niệm câu A-Di-Đà Phật, thật sự ta đang ở trên con đường thẳng bưng đi về Tây-Phương. Nếu ta đem tất cả thiện-căn phước-đức và nhân-duyên niệm Phật này để dồn vào việc vãng sanh trong một đời này. Nhất định đây là con đường tốt nhất, không có đường nào khác tốt đẹp hơn. Đó gọi là “Thâm tín nhân quả”.

Đừng dại gì dùng cái sơ tín hay cái nông tín, nông tín là niềm tin cạn cợt đó, mà niệm Phật hầu tạo thêm phước để đời sau tu tiếp nhé. Không nên làm như vậy! Làm vậy sẽ tội nghiệp cho huệ mạng của mình lắm!...

Vì sao?... Vì xin thưa rằng, dù thế nào đi nữa, tương lai ta có thiện-căn phước-đức lớn như thế nào đi nữa? Điều này chưa biết! Nhưng bên cạnh đó oan gia trái chủ của chúng ta đang ở sát bên mình đây nè!... Tuy rằng là người tu hành, nhưng anh không quyết lòng đi về Tây-Phương thì họ cũng không quyết lòng buông xả những oán thù mà chúng ta đã gây cho họ đâu!...

Tại vì sao?... Tại vì những người còn kẹt lại trong chốn lục đạo này thì không đủ khả năng trả cái món nợ sinh mạng của họ đâu ạ! Không trả món nợ sinh mạng cho họ, thì nên nhớ cho, nhất định họ không phải là Thánh đâu ạ!... Họ không phải là Phật đâu ạ!... Mà họ là một phàm phu đã bị chúng ta sát hại! Tâm phàm phu là tâm chấp trước nặng lắm! Tâm oán thù của họ mạnh lắm!… Họ không đành lòng tha thứ cho người cắt thịt, lột da họ đâu à!...

Nghĩ thử, chính ta là người đây này, cũng có lý trí đây này... Nhưng một người nào đó lỡ đụng chạm tới tự ái của chúng ta một chút thôi, mà ta còn căm thù lên, căm thù xuống tới mức không biết ngày nào mới có thể xả được! Nhiều khi người ta tới tạ tội, người ta quỳ lạy mình để xin lỗi mà mình cũng không chịu tha thứ!…

Con người đó!... Có lý trí đó!... Có tâm hồn đó!... Mà còn tệ như vậy đó!… Đừng nói chi những chúng sanh yếu hơn mình, họ mê muội hơn mình mà mình sát hại họ?!... Chính vì vậyoan gia trái chủ của chúng ta, xin thưa với chư vị, nếu một đời này mà họ biết rằng mình không phải là người đi thành Phật, thì không dại gì họ lại tin tưởng ở một người còn tham đắm cõi trần này đâu à! Một người đời này có khả năng thành tựu, trước tự giải thoát, sau cứu được oan gia trái chủ giải quyết oán thù, đền trả nợ nần mà không thèm đi, lại chờ, lại hẹn vài ngàn kiếp nữa!… Không ai dại khờ gì đi tin sự khất nợ phiêu phỏng của hạng người phàm phu tham chấp này đâu à!...

Chính vì thế, ách nạn cũng tại đây, mà giải ách nạn cũng tại đây. Nếu chúng ta quyết lòng thành tâm đi về Tây-Phương thành Phật, thì một lời nói khuyên nhủ điều giải oan gia trái chủ sẽ giải quyết nhẹ nhàng, thoải mái. Nếu chúng ta không chịu về, ngập ngừng, chập chững... thì lời điều giải sẽ không có ảnh hưởng gì hết! Chính vì thế, mà nạn tai hay là phước báu, Cực-Lạc hay là đọa lạc... đều ở từ trong tâm này mà ra hết.

Nếu chúng ta quyết lòng đi về Tây-Phương, trên thì A-Di-Đà Phật phóng quang tiếp độ, dưới thì oan gian trái chủ hộ trì, giữa thì chư Thiên-Long Hộ-Pháp chuẩn bị bảo vệ cho chúng ta con đường đi thành Phật… Còn nếu chúng ta rời khỏi con đường vãng sanh thành đạo, tức là chúng ta đi theo con đường đọa lạc, không bao giờ có một vị Long-Thiên Hộ-Pháp nào lại đi bảo vệ một người còn muốn trôi nổi trong lục đạo luân hồi đâu! Không có một vị Bồ-Tát nào lại bảo vệ cho một người muốn đi xuống dưới tam ác đạo để thọ nạn đâu!

Chính vì thế, chúng ta hãy ráng cố gắng quyết lòng niệm câu A-Di-Đà Phật. Chư vị nhìn đi... Đó!... A-Di-Đà Phật đó! Ngài sẽ gởi hai mươi lăm vị Bồ-Tát đến bảo vệ cho chúng ta liền. Hai mươi lăm vị Bồ-tát ngày đêm gia bị và không biết là bao nhiêu chư Thiên-Long Hộ-Pháp bảo vệ chúng ta. Chúng ta đi con đường an lành, thanh thản về Tây-Phương vừa thành Phật, trên thì tròn Phật đạo, dưới phổ độ chúng sanh. Cơ hội này biết bao nhiêu là sung sướng…

Mong cho chư vị lấy cái “Nhân-Duyên” này nhất định đi về Tây-Phương thành đạo nghe chư vị.

Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10045)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
(Xem: 10443)
Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người... Nguyện san Chánh Pháp - Số Xuân 2014
(Xem: 10059)
Thi hào Vương Duy (701-761) cùng với Đỗ Phủ (712-770) và Lý Bạch (701-762) là ba thi nhân cự phách dưới triều đại của Đường Huyền Tông (685-762)... Hoang Phong
(Xem: 20235)
Trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “đau khổ” được dùng để chỉ trạng thái bất như ý, khó chịu và buồn phiền cùng cực... Nguyễn Hữu Đức
(Xem: 11541)
Thiền không xa lạ đối với giới Phật học trong suốt hơn hai ngàn năm qua. Cá nhân tôi, trong những năm gần đây cũng áp dụng Thiền song song với thuốc cần thiết để chữa bệnh, kết quả rất tốt... Hồng Quang
(Xem: 13699)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 18959)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 46566)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12016)
Thiền cứu tôi từ tuyệt vọng hơn một lần. Trong những giai đoạn bệnh hoạn trầm trọng nhất, tôi đã được cứu bằng nhận thức rằng kinh nghiệm đau đớn chỉ là nhất thời... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 11583)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 22936)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 17743)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10055)
"Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên, Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền." Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 17590)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13822)
“Nếu chúng ta chia quả đất này thành từng mảnh nhỏ như những hạt cỏ, số lượng những mảnh này không lớn bằng số lượng lần mà mỗi chúng sanh đã là cha mẹ ta”... Karen Villanueva, Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 13950)
"Một lòng kính lạy Phật Đà, Ngàn đời con nguyện ở nhà Như Lai, Con hằng mặc áo Như Lai, Con ngồi pháp tọa Như Lai muôn đời"... Tịnh Bình
(Xem: 14992)
Càng lớn con càng thương Mẹ hơn, Tình dâng cao vút đỉnh liên sơn, Tháng năm đời có thêm cay đắng, Mẹ gánh oằn vai chút chẳng sờn... Thích Minh Tuệ
(Xem: 20182)
Thời gian trôi, tiếng đồn về Mẹ ngài bèn gửi thư đi cho ngài: "Con ơi! Mẹ nghĩ kỹ rồi Hiến mình cho Phật, cho nơi đạo mầu
(Xem: 18153)
Thiền sư bước đến lặng yên, Rồi dùng thiền trượng gõ lên quan tài Người ta nghe tiếng của ngài...
(Xem: 17273)
Khuyên con chữ hiếu lo tròn Không thời quả báo sẽ luôn dữ dằn Từ đây kính mẹ, ăn năn Ai hơn mẹ quý, ai bằng tình thâm
(Xem: 18055)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 12619)
Một thời đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật gần thành Vương Xá nước Ma Kiệt với mấy nghìn Tỳ Kheo, mấy vạn Bồ Tát, và vô số trăm nghìn Chư Thiên rải hoa trỗi nhạc cúng dường Phật... Toàn Không
(Xem: 12733)
Những lời khuyên này, ta muốn nói với Dagmema. Hãy bình tâm, đừng trộn lẫn tâm ấy với những gì thế tục. Hãy đánh thức sự kiên địnhbuông bỏ niềm đau.
(Xem: 13315)
Xuân qua thu lại, cùng thời gian này vào năm tới, vô số người sẽ gặp phải cái chết của mình. Ai có thể quả quyết rằng bạn không phải là một người trong số đó?
(Xem: 16909)
Đây là một cuốn sách quý, đúc kết kinh ngiệm trên 25 năm giảng dạy Phật pháp và hướng dẫn hành thiền của Thiền sư Ajaham tại Úc và các nước Đông Nam Á...
(Xem: 11402)
Tinh yếu của thiền trước tiên là quay cái nhìn vào bên trong tự thể. Muốn như thế chúng ta cần phải biết sử dụng 3 phương tiện...
(Xem: 18199)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 18513)
Đạo sư Padma nói: Hãy thực hành Pháp thập thiện và hãy có niềm tin vào cái nên tránh và cái nên làm theo các loại hậu quả trắng và đen của những hành động ấy.
(Xem: 21250)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 22013)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 16772)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
(Xem: 12493)
Mỗi năm gần đến ngày Phật đản, Phật tử chúng ta lại có dịp suy ngẫm về bối cảnh lịch sử - xã hội, trong đó Đức Phật thị hiệnđạo Phật ra đời...
(Xem: 15250)
Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn. Nhất thiết thế gian, Sinh lão bệnh tử... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 24397)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 14159)
Ý nghĩa ra đời của Thái tử là một hàm ý trọng đại xác định Phật tính trong mỗi chúng sanh khi đã hoàn giác thì cái “duy ngã” đó là một tối thượng...
(Xem: 11549)
Thiền Và Chỉ Quán - Nguyên tác: Thiên Thai Trí Khải, Paul L. Swanson biên soạn, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
(Xem: 19536)
Pháp bản như vô pháp, Phi hữu diệc phi vô, Nhược nhân tri thử pháp, Chúng sanh dữ Phật đồng... Thiền sư Huệ Sinh
(Xem: 13304)
Đức Phật, vô cùng thực tếthiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại.
(Xem: 22703)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thươnglòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
(Xem: 18902)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
(Xem: 18366)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệtừ bi...
(Xem: 21516)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 20461)
Hương quyện của đất trời, sắc màu của trần gian, hai bờ của phân ly, hai ngã của mê ngộ, một sự thảnh thơi nhẹ bước...
(Xem: 19931)
Thực hành Bổn tôn là phương pháp đặc biệt và lớn lao để nhanh chóng chuyển hóa những sự hiện hữu thế tục mê mờ thành sự giác ngộ.
(Xem: 13967)
Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma...
(Xem: 14931)
Sau khi định tâm, tôi nhắm mắt tưởng nhớ đến Thánh: “Hôm nay con thấy vô cùng hạnh phúc được đặt chân lên Tu viện, nơi Thánh Trulshik và các vị đạotu hành...
(Xem: 13726)
Phật tử nên tin sâu vào nhân quả, tin vào đạo lý vô thường, duyên sinh, huyễn mộng của các pháp... Thích Thông Huệ
(Xem: 15039)
Khác với Trung Quốc và một số quốc gia khác, rồng không hiện hữu nơi niềm tin của người Ấn... Nghiệp Đức
(Xem: 17135)
Theo những nghiên cứu lâu dàicẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal).
(Xem: 15193)
Nụ cười của Ngài cũng là sự thể hiện hai đức hạnh quý báu trong đạo Phật, đó là hỷ, xả. Có hỷ, xả chúng ta mới nở nụ cười vui tươi chân thật, hạnh phúc, an lạc.
(Xem: 12752)
Những lời thuyết giảng của vị sư già đã mang lại cho chị một tâm hồn phong phú, bén nhạy và nhiều yêu thương hơn.
(Xem: 15802)
Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên.
(Xem: 12886)
Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu...
(Xem: 13044)
Những người mới bắt đầu nên tập trung vào việc chắc chắn rằng động cơ của họ là thanh tịnh, và cầu nguyện chí thành đến vị thầy gốc. Đây là thực hành tốt nhất.
(Xem: 14949)
Mùa xuân gần kề với niềm tin sức sống mới. Hãy tu để chuyển nghiệp! Đức Phật đã dạy như vậy! Bất kỳ hoàn cảnh nào chúng ta cũng có thể tu được...
(Xem: 22514)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 7078)
An-ban thiền được thành lập trên nền tảng là kinh An-ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập. Ngài An Thế Cao dịch có kinh An-ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập chuyên nói về thiền định...
(Xem: 19255)
Tara là hiện thân lòng từ bi của chư Phật ba thời, quá khứ, hiện tạivị lai. Bà là vị Thánh nữ có khả năng thực hiệnhoàn thành mọi hoạt động giác ngộ của chư Phật.
(Xem: 37441)
Thật ra, là hoàn toàn sai lầm khi nói rằng tôn nam này kết hợp với tôn nữ kia. Đúng ra phải nói rằng trong Tự Tánh hiển lộ ra một hình tướng bất nhị.
(Xem: 9070)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầu thiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinh điển thiền ngữ”
(Xem: 8563)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 17777)
Không tách lìa hiện tướngtánh không. Đây chính là chánh kiến, chẳng còn gì sở đắc được hơn.
(Xem: 14812)
Thiền là một con đò dùng để đưa người rời bỏ bờ khổ đau và vô minh để tới bờ của an lạcgiải thoát...
(Xem: 26922)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 19820)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15205)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15389)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26705)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 14484)
Nếu ta tiếp cận Pháp như những đứa trẻ con, ta có thể nhớ lại giây phút đầu tiên ta gặp Giáo Pháp, nó trở nên quan trọng đối với ta ra sao...
(Xem: 19560)
Mục đích chính yếu của sự hóa hiện của một vị tái sanh là để tiếp tục công việc chưa hoàn tất của vị tiền nhiệm để hộ trì Giáo pháp và [hóa độ] chúng sinh.
(Xem: 14526)
Đức Tara nhanh chóng giúp bạn thành công trong việc đạt được hạnh phúc tối hậu của giác ngộ. Bạn nhận lãnh rất nhiều công đức tốt lành, hay nguyên nhân của hạnh phúc...
(Xem: 18568)
Mắt mở nửa chừng, hãy dịu dàng cảm nhận từng hơi thở vào và ra. Và cảm nhận rằng toàn thân bạn đang dịu dàng thở.
(Xem: 15827)
Nếu giáo Pháp của Đức Phật vẫn còn hiện hữu và con có một niềm tin vững chắc thì đơn giản con đã tích lũy rất nhiều công đức trong quá khứ.
(Xem: 16258)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19287)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19645)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19832)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18544)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 29697)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 14505)
Tôi thấy thầy trao cho Út Huy gói quà, thằng nhóc vừa đưa tay nhận lấy, thầy lại móc túi áo lấy ra một chai dầu nóng dúi vào tay nó. Xong, thầy xoa đầu nó âu yếm...
(Xem: 17676)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
(Xem: 32289)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 15213)
Quán các pháp chẳng thường chẳng đoạn, cũng chẳng phải có, chẳng phải không, chỗ tâm hành diệt, ngôn thuyết cũng bặt dứt. Đó gọi là quán sâu xa thanh tịnh.
(Xem: 17227)
Quyển "Thiền tông quyết nghi tập" này do thiền sư Đoạn Vân Trí Triệt soạn vào đời Nguyên, được ấn hành vào niên hiệu Khang Hi thứ 6 (1667) đời Thanh...
(Xem: 29642)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31368)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 64544)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 32681)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 20129)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 18448)
Hiện tại chúng ta đang sở hữu thân người quý giá và đã gặp được giáo lý Phật Đà. Nhờ sự gia trìlòng từ ái của chư đạo sư, chúng ta có thể thọ nhận, nghiên cứuthực hành giáo pháp.
(Xem: 30691)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 19823)
Thực hành Kim Cương thừa được bắt đầu thông qua một quán đảnh. Để hiệu quả, quán đảnh đòi hỏi sự chứng ngộ của đạo sư, bậc trao truyền nó, cũng như sự tin tưởngtrí thông minh của đệ tử nhận nó.
(Xem: 45812)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 32475)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39211)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40311)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 49972)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 19033)
Hệ thống Phật giáo Đại thừa được hình thành vào khoảng trước sau thế kỷ thứ nhất ở những vùng Nam Ấn Độ với chủ trương “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”...
(Xem: 18470)
Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi.
(Xem: 20598)
Việc chúng ta được sinh ra làm người mang lại cho ta cơ hội và thuận lợi để thực hành Pháp và cho ta con đường dẫn tới truyền thống bao lasâu xa của Phật Pháp.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant