Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Khyentse - Từ biTrí tuệ

09 Tháng Hai 201300:00(Xem: 15891)
Khyentse - Từ bi và Trí tuệ
KHYENTSE – TỪ BITRÍ TUỆ 
Dzongsar Khyentse Rinpoche
Tuệ Tạng dịch

 

dzongsar_jamyang_khyentse_rinpoche-01Sau lễ đăng ngôi của vị tulku của ngài Pháp vương Dilgo Khyentse Rinpohe ở Nepal, tháng 12 năm 1997, Đức Dzongsar Khyentse Rinpoche đã ban một bài Pháp thoại về ý nghĩa của từ “Khyentse.”

Trong Kim Cương thừa, ý tưởng về một Guru [Đạo sư] rất đặc biệt. Và rất nhiều người trong số chúng tađệ tử của Pháp vương Dilgo Khyentse Rinpoche, và đây là buổi lễ đăng ngôi của hóa thân ngài. Một cách ngắn gọn, mọi hóa thân Khyentse được xem là hóa thân của Đức Vimalamitra và Vua Trisong Deutsen.

Ngài Jamyang Khyentse Wangpo vĩ đại là một trong các bậc tiên phong quan trọng nhất trong Phật giáo nói chung và Kim Cương thừaTây Tạng nói riêng, không chỉ bởi ngài là một ông lớn với địa vị cao mà bởi sự chứng ngộ tâm linh của ngài. Cùng với Jamgon Kongtrul, Chogyur Lingpa và Jamyang Loter Wangpo, ngài thực sự đã bắt đầu phong trào Rime [Bất bộ phái]. Ngài không chỉ là một học giả, một vị thánh, mà còn được coi là một trong năm Đại Khai tạng mật vương. Ngài có năm hóa thân – [về] thân, khẩu, ý, phẩm tính và hoạt động. Và hóa thân về tâm là Pháp vương Dilgo Khyentse Rinpoche, người cũng có những phẩm tính tương tự như Jamyang Khyentse Wangpo vĩ đại.

 

Từ “khyentse” nghĩa là trí tuệtừ bi: Và với những ai đã gặp Đức Pháp vương Dilgo Khyentse Rinpoche, hóa thân trước kia, tôi chắc chắn bạn sẽ nhớ ngài là hiện thân về trí tuệtừ bi và ngài thực sự đại diện cho điều đó. Thật khó cho chúng ta, những kẻ ngu dốt, mặc dù có thể hiểu trí tuệtừ bi một cách máy móc, thực sự nhận ra tấm gương của trí tuệtừ bi này. Vô cùng hiếm có. Nhưng rất nhiều người trong số chúng ta đã có cơ hội gặp được hóa thân trước kia, và bây giờ chúng ta có cơ hội lớn lao gặp được bậc tái sinh của ngài, bởi các hành động nghiệp trong quá khứ. Và mặc dù tôi bị kéo vào buổi Pháp thoại này bởi Tulku Pema Wangyal, tôi đoán rằng mình nên coi bản thân là ai đó rất may mắn có được cơ hội tích lũy công đức bằng cách nói ra vài lời về Pháp.

Bởi vậy tôi quyết định rằng tôi sẽ nói vài lời về từ “khyen” và “tse” bởi vì chúng ta đều biết có rất nhiều các vị Khyentse và chúng ta cũng biết có rất nhiều quan niệm được gọi là trí tuệtừ bi. Bây giờ, như tôi đã nói, từ “khyen” liên quan đến trí tuệ hay sự hiểu biết. Ở đây chúng ta không nói về kiểu trí tuệ thông thường hay cách hiểu bình phàm. Trí tuệ ở đây là tâm biết được chân lý tối thượng của mọi hiện tượng. Tôi sẽ đưa ra vài ví dụ tại sao trí tuệ lại cần thiết, nhìn chung các vấn đề của chúng ta xảy ra bởi vì chúng ta không biết thứ gì đó. Sự hiểu lầm nhỏ bé của ta xảy đến khi chúng ta không thấu hiểu hoàn toàn. Chúng ta có rất nhiều nhầm lẫn. Chúng ta có kiểu ngu dốt này bởi vì các thói quen trong quá khứ.

Mặc dù một vài người có thể hiểu chút ít về trí tuệ, thật khó để có trí tuệ bởi vì trong Đạo Phật, khi chúng ta nói về trí tuệ, chúng ta đang nói đến trí tuệ giải thoát bản thân khỏi mọi vô minh. Và rất nhiều lần, những điều mà chúng ta cho là trí tuệ, trên thực tế không phải trí tuệ. Trong Đại thừa, trí tuệ là tâm hiểu được vô ngã hay tâm hiểu được khía cạnh trống rỗng của ngã. Nhưng mặc dù cũng dễ dàng để nghiên cứu điều đó, thực sự rất khó để trải nghiệm nó. Điều này là bởi sự bám chấp nhiều đời vào ngã.

Trong Đạo Phật, chúng ta nói về luân hồiniết bàn. Luân hồi là nơi có tất cả vô minh. Khi chúng ta nói về ngu dốt hay vô minh như là bám chấp vào ngã, chúng ta không nói đến một lỗi lầm thực sự tồn tại trong ta và rằng sau đó chúng ta phải tịnh hóa. Trên thực tế, mọi vô minh này, tất cả ngu dốt, đều không tồn tại. Nhưng bởi vì sự bất cẩn của ta, ta nghĩ chúng tồn tại. Chúng ta quá tham luyến với sự tồn tại của ngã và chúng ta bận rộn như là nô lệ của ngã. Nhưng như tôi đã nói nhiều lần, người ta có thể hiểu một cách không chính xác về trí tuệ thông qua nghiên cứu và thọ nhận giáo lý, nhưng để thực sự hiểu trí tuệ, họ cần rất nhiều công đức.

Điều này đúng với cả lòng sùng mộ. Khá dễ để hiểu lòng sùng mộ là gì, nhưng để có lòng sùng mộ, người ta cũng cần nhiều công đức. Một người không thể có lòng sùng mộ cho đến khi họ có công đức. Tôi nghĩ rằng không chỉ các phẩm tính giác ngộ, tâm linh như là trí tuệ, từ bi hay sùng mộ, mà thậm chí hạnh phúc đơn thuầnchúng tatrong đời sống hàng ngày cũng phụ thuộc vào công đức.

Ví dụ, … bây giờ tôi sẽ thoải mái một chút. Nếu ai đó như như người thông dịch của tôi nói với vị ni này, “Sư thật đẹp!,” nó phụ thuộc rất nhiều vào công đức mà vị ni này có. Nếu bà có công đức để có được một thời gian dù ngắn ngủi hạnh phúc, lời tán dương đó sẽ mang đến nhiều hạnh phúc. Nếu bà ấy không có hạnh phúc, lời đánh giá này của người thông dịch sẽ chỉ gây ra các vấn đề. Ví dụ như, nó có thể khơi lên sự mong chờ [nhưng] có thể anh ta [người thông dịch] chỉ lịch sự mà nói vậy. Nhưng bởi vì không có đủ công đức để hiểu lời đánh giá chính xác, vị ni có thể mong chờ và có thể theo anh ta đi bất cứ đâu! Và nếu anh ta là kiểu người kiên nhẫn hay khéo léo, nó có thể ổn thỏa. Nhưng tôi không nghĩ anh ta có thể nói rằng bà ấy đẹp mỗi ngày. Bởi vậy, công đức, Sonam trong tiếng Tạng, là một trong những phẩm tính quan trọng nhất, thực sự ảnh hưởng đến rất nhiều thứ. Tôi chắc rằng bạn đã trải qua trong cuộc đời một điều gì chắc chắn, khiến bạn không vui, và đó là bởi công đức.

Bạn có thể băn khoăn, “Làm sao người ta có được công đức?” Một cách kỳ lạ, để có được công đức, bạn cần có công đức. Công đức là nguồn gốc của công đức. Đây là phần khó khăn trong thực hành Đạo Phật. Một mặt, có một ý tưởng trọn vẹn về trí tuệ, vượt khỏi mọi quan niệm, vượt khỏi mọi tập khí. Nhưng để có được trí tuệ này, chúng ta nói về công đức đến cùng với những cảm xúc. Điều này cũng đúng với tánh không. Đó là thứ chúng ta phải chứng ngộ. Nhưng để chứng ngộ chúng ta cần công đức, như là hát hay và cúng dường lên bậc Đạo sư [điều mà những người bên ngoài đang làm] và như một vài người trong các bạn kiên nhẫncố gắng lắng nghe điều tôi nói và cùng lúc không bị xao lãng bởi những tiếng trống ngoài kia. Họ có thể tích lũy công đức theo cách này.

Có hai cách lớn để tích lũy công đức. Từ bi với hữu tình chúng sinh và sùng mộ với Phật, Pháp, Tăng và Đạo sư. Trên thực tế, chúng ta có thể cô đọng điều này thành một lòng từ bi bởi vì, khi chúng ta nói về Đại thừa, chúng ta nói đến lòng từ bi.

lòng từ bi như vậy cũng là sùng mộ trong Kim Cương thừa. Bởi vậy đây là khía cạnh của từ Khyentse, tsewa hay từ bi. Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên. Đó là từ bi. Nhưng với nhiều người trong số chúng ta thật khó để khởi lên từ bi. Có rất nhiều chướng ngại cho từ bi và những điều đối nghịch với nó, như là ích kỷ, bám chấp vào ngã lại rất mạnh mẽ. Và có rất nhiều thuận duyên cho bám chấp đó.

Tôi không thể nói về các bạn, mà nếu tôi nói về những kinh nghiệm của bản thân, thật khó để có lòng từ bi chân chính dù chỉ vài giây. Nhưng nếu tôi đọc giới nguyện, những lời cầu nguyện và khẩn nguyện Bồ đề tâm hay bất cứ thứ gì, và mặc dù tôi hiểu ý nghĩa, luôn ẩn đằng sau là sự ích kỷ. Bạn biết rằng, trong Kinh điển Đại thừa, có rất nhiều kiểu Bồ đề tâm khác nhau. Nhưng kiểu tối thượng nhất là bồ đề tâm, mong muốn giác ngộ cho tất thảy hữu tình chúng sinh, người mong muốn đạt đến giác ngộ sau khi tất thảy hữu tình đạt giác ngộ. Đó là kiểu bồ đề tâm rất khó chứng ngộ.

Tôi không biết liệu rằng bạn có như vậy không. Nhưng tôi thì có. Tôi không quan tâm nhiều đến người khác. Và tôi thường coi bản thân là tốt, thậm chí chỉ muốn đạt đến giác ngộ. Rất nhiều người thậm chí không muốn giác ngộ. Nhưng ít nhất tôi muốn giác ngộ. Mặc dù, chỉ với tôi! Nó cũng có thể xảy ra với bạn. Khi chúng ta cúng dường lên Phật, Pháp và Tăng, mặc dù chúng ta nói rằng điều này là vì hữu tình chúng sinh, tâm chúng ta luôn hướng đến một kết quả cho bản thân. Bởi vậy từ bi với hữu tình chúng sinh khá khó với tôi. Do đó tôi đoán đây là nguyên nhân tôi thích Kim Cương thừa, ở đó lòng sùng mộ được dạy là kiểu từ bi cao hơn.

Ít nhất là một người mới, một chúng sinh vô minh, khi bạn bắt đầu thực hành lòng sùng mộ, bạn có thể bắt đầu với một người như Đạo sư của bạn. Sẽ dễ hơn nhiều để ngưỡng mộ ai đó thay vì chịu trách nhiệm cho mọi người. Và tôi đoán tôi phải được tẩy não bởi mọi người như là ngài Jigme Lingpa. Tổ Jigme Lingpa nói rằng nhiều năm trì tụng thần chú và đọc các nghi quỹ cũng như làm lễ puja là rất tốt, nhưng không là gì so với một phút thiền định bởi thiền định hòa tâm chúng ta nhiều hơn. Sau đó ngài nói rằng nhiều năm thiền định không là gì với một giây nhớ đến Đạo sư. Và đây là lý do tôi nghĩ rằng thực hành lòng sùng mộ rất mạnh mẽ và tràn khắp.

Nhưng tôi hiểu rằng rất nhiều người gặp khó khăn với lòng sùng mộ. Với những người đã gặp các bậc đạo sư vĩ đại như Pháp vương Dilgo Khyentse Rinpoche (như chính tôi, đã may mắn gặp ngài), tôi đoán chúng ta ít khó khăn hơn trong việc có quan điểm linh thiêng này. Nhưng với những ai phải kết thúc với nhiều người như tôi, tôi hiểu tại sao lòng sùng mộ lại khó thế! Bởi vì trước hết ngày nay, bạn thậm chí không có sự tin tưởng nhiều vào Đạo sư.

Một lần nữa, tôi sẽ nói với bạn về vài trải nghiệm của tôi, nhưng tôi biết rất nhiều người ở đây là đệ tử Pháp lâu năm, bởi vậy bạn đã nghe những điều này nhiều lần. Tôi nói rằng, niềm tin tưởng trọn vẹn nơi Đạo sư là khá khó khăn. Ví dụ, gần đây khi tôi đang thực hành Đạo sư Du già [Guru Yoga], tôi thực hành Pháp này theo bản văn, quán tưởng Đạo sư phía trước mặt và nhiều điều khác, và lúc thỉnh cầu sự gia trì, cả gia trì thông thường và siêu việt, … Dĩ nhiên, với gia trì siêu việt, chúng ta thỉnh cầu sự giác ngộ, phát triển trí tuệ, xua tan ngu dốt, … Điều này là mục tiêu tối thượng của Đạo sư Du già. Và sau đó, để làm lợi lạc người khác, chúng ta cũng thỉnh cầu sự gia trì để họ có được sự trường thọ, không ốm đau và các gia trì thế tục khác.

Tôi nhận ra rằng tôi kiếm tìm sự gia trì xuất thế gian ít hơn nhiều so với thế gian. Tôi không thỉnh cầu thoát khỏi cái ngã nhiều như việc cầu mong trường thọ, thành công trong các đề án, và tương tự. Như thế, tôi nhận ra điều này – rằng tôi thực sự vẫn bám chấp vào cuộc đời tầm thường này. Trên thực tế, tôi sử dụng Đạo sư như một vị trời để thỉnh cầu ngài những món quà nhất định. Ngay khi tôi nhận ra đây không phải ý nghĩ vĩ đại, tôi nghĩ rằng việc nhận ra lỗi lầm đó cũng là sự gia trì của Đạo sư. Đôi lúc, khi tôi cố gắng nhận ra những lỗi lầm, từ đâu đó, kiêu mạn và ngã xuất hiện, nghĩ rằng, “Ồ, tôi đã nhận ra lỗi lầm, thật tốt!” Bởi vật mọi thứ tiếp tục như thế. Sau đó tôi lại đổ lỗi như thế, nói rằng, “Không, tôi không nên có kiểu ngã đó.”

Và sau đó một ngày … Bạn thấy, tôi đang thích thú trong việc viết các kịch bản và làm phim. Và một ngày, tôi thấy mình đang cầu nguyện Đạo sư, “Xin hãy gia trì để con viết được kịch bản hay, để dự án phim thành công.” Sau đó ngay lập tức tôi nghĩ, “Không, Pháp vương Dilgo Khyentse Rinpoche thậm chí không biết làm phim. Làm sao tôi có thể thỉnh cầu ngài như thế?” Lúc đó, tôi đang đọc tiểu sử của ngài Jamyang Khyentse Wangpo và Khyentse Chokyi Lodro. Và trong đó, các ngài đề cập nhiều đến lòng sùng mộ của ngài giành cho Đạo sư và thứ các ngài tìm kiếm từ bậc thầy như sự gia trìgiác ngộ, lợi ích cho hữu tình chúng sinh, đầy đủ các phẩm tính giác ngộ. Tôi thấy xấu hổ khi thỉnh cầu những thứ tầm thường như vậy. Nhưng sau đó bởi vì tôi đọc đủ sách Phật giáo, tôi có thể mang lại tất cả điều này… Tâm tôi, ngã của tôi, sự ích kỷ của tôi thông minh đến mức nó khéo léo nói ra những lời hối lỗi tốt lành. Kế đó, tôi nghĩ tôi có thể thỉnh cầu gia trì để viết kịch bản hay cho hữu tình chúng sinh!

Một lần nữa tôi tự nói với bản thân rằng, “Không. Bây giờ điều mình đang làm thực sự giúp đỡ cho ngã và sự ích kỷ, sử dụng mọi kiểu sám hối của Đại thừa.” Dẫu sao, quay trở lại với khi tôi khẩn cầu ngài, để ngài gia trì cho những bộ phim của tôi … Sau đó tôi nghĩ, “Không, không, ngài không biết viết kịch bản. Ngài không biết sử dụng máy quay. Ngài chẳng biết dùng mấy thứ đồ đó.” Và sau đó tôi nhận ra rằng, “Hãy xem này, tôi đang không tin tưởng ngài. Ngài là Phật. Ngài biết mọi thứ. Tôi đã coi ngài là người không biết một thứ đơn giản, tầm thường như là dùng máy quay, thứ chỉ cần hai ngày hay một tuần để học.” Và điều này cho thấy tôi vẫn phải phát triển lòng sùng mộ, phát triển sự tin tưởng.

Sau đó tôi cố gắng chắc chắn rằng tôi giành nhiều thời gian để cầu nguyện và khẩn nguyện hơn, để ngài gia trì cho trí tuệ của tôi phát triển và mọi phẩm tính giác ngộ tăng trưởng. Và tôi có thểm một chút niềm tin, bởi vậy những ngày này, tôi không thấy xấu hổ khi thỉnh cầu sự gia trì cho thứ gì, như là viết các kịch bản thành công. Tôi nghĩ nó ổn.

Đây là điều tôi đang cố gắng nói với các bạn. Chúng tavấn đề là không tập trung vào một điểm, như Đạo sư như một vị thầy, nhưng nếu bạn muốn trường thọ và bạn tình cờ biết Phật Amitayus, Phật trường thọ, thì bạn sẽ thỉnh cầu sự gia trì từ ngài. Hoặc nếu bạn muốn tăng trưởng trí tuệ, thì bạn thỉnh cầu sự gia trì từ ngài Văn Thù. Mọi thứ như thế. Điều này cũng cho thấy chúng ta thiếu đi sự hiểu rằng Đạo sưhiện thân của mọi đối tượng quy y. Điều này cho thấy chúng ta vẫn còn rất nhiều tâm nhị nguyên. Chừng nào chúng ta còn sự yếu kém này, chúng ta sẽ không thể có lòng dũng cảm để đạt được trí tuệ.

Chúng ta gọi những người có bồ đề tâmBồ Tát. Và tên gọi Bồ Tát có ý ám chỉ đến người dũng cảm, không chỉ dũng cảm giúp đỡ hữu tình chúng sinh, mà dũng cảm đối mặt với chân lý, dũng cảm đối mặt với mặt ảo mộng của cuộc đời. Bởi vậy để có khyen hay trí tuệ, chúng ta cần có từ bi. Và không có từ bi, người ta không có trí tuệ. Con đường nhanh nhất để có hai sự chứng ngộ này, Khyentse hay trí tuệtừ bi, tôi nghĩ, là nhờ sùng mộ, tinh túy của từ bi. Bởi vậy theo cách này, lòng sùng mộ có rất nhiều cấp độ. Chúng ta bắt đầu lòng sùng mộ đơn giản từ các cảm xúc như kính ngưỡng và khát khao. Và cuối cùng khi chúng ta có thể phát triển lòng sùng mộ này, lòng sùng mộ của chúng ta trở thành trí tuệ. Khi đó chúng ta không sợ hãi việc phải phụ thuộc vào ai đó mọi lúc. Bạn biết rằng, phụ thuộc vào ai đó là điều rất lạ. Tâm chúng ta muốn phụ thuộc lúc này, nhưng lúc khác, việc đó lại trở thành phiền hà lớn. Tôi nghĩ rằng đó là tất cả.

Nguồn: http://www.siddharthasintent.org/gentle/GVMay98.htm

Việt dịch: Tuệ Tạng.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31677)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10534)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11233)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12762)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10814)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16670)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10823)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22975)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12030)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11500)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10692)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12342)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11200)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10027)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10334)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11926)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10703)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12378)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9821)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11278)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13848)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9583)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12640)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9707)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10468)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10573)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10335)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9911)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11062)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12023)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10148)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10790)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9543)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9902)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8774)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9502)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14529)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8783)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12563)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10430)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9091)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10564)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9338)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8812)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10523)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9198)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8369)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12035)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9700)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10220)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10231)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19147)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9420)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8990)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9593)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9023)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14764)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10101)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8356)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8955)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8977)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8746)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9374)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14604)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9044)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8785)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9051)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10538)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8649)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9999)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24290)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10179)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11032)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9006)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9475)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8008)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9276)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15350)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10343)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9588)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17449)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21408)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12171)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10235)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19245)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26052)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7982)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14810)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10637)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11356)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9538)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18686)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12369)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11892)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10760)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13348)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10004)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9278)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9396)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15907)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant