Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Các Đạo sư của sự Thiền định và những Điều Huyền diệu

10 Tháng Tư 201300:00(Xem: 21698)
Các Đạo sư của sự Thiền định và những Điều Huyền diệu


CÁC ĐẠO SƯ CỦA SỰ THIỀN ĐỊNH VÀ
NHỮNG ĐIỀU HUYỀN DIỆU
CUỘC ĐỜI CÁC ĐẠO SƯ PHẬT GIÁO VĨ ĐẠI
CỦA ẤN ĐỘTÂY TẠNG

Masters of Meditation and Miracles: Lives of the Great Buddhist Masters of India and Tibet
TULKU THONDUP
Harold Talbott hiệu đính
Bản dịch Việt ngữ của Thanh Liên

cacdaosucuasuthiendinh

Bìa ấn bản Anh ngữ

NỘI DUNG

LỜI CẢM ƠN
GHI CHÚ CỦA TÁC GIẢ
LỜI NÓI ĐẦU
Quyển Một
LỜI GIỚI THIỆU
ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI
Sau Đức Phật
PHẬT GIÁOTÂY TẠNG
BA CÁCH TRAO TRUYỀN TRỰC HỆ
CỦA CÁC TANTRA NYINGMA NỘI NÓI CHUNG
Sự Truyền Tâm của chư Phật
Những Trao truyền Biểu tượng của các Trì minh vương
Sự Truyền Khẩu của các nhà Khổ hạnh
NHỮNG DÒNG TRUYỀN THỪA CỦA BA TANTRA NỘI CHÍNH YẾU DÒNG NYINGMA
Mahāyoga
Anuyoga
Atiyoga (Dzopa Chenpo)
Semde
Longde
Me-Ngade
Quyển Hai
DÒNG TRUYỀN THỪA LONGCHEN NYINGTHIG

GIÁO LÝ LONGCHEN NYINGTHIG
DÒNG TRUYỀN THỪA CÁC ĐẠO SƯ LONGCHEN NYINGTHIG
1. Pháp Thân
2. Báo Thân
3. Hóa Thân
4. Prahevajra (Garab Dorje)
5. Manjushrīmitra
6. Shrīsimha
7. Jnānasūtra
8. Vimalamitra
9. Guru Rinpoche, Padmasambhava
 Guru Rinpoche Viếng thăm Tây Tạng
 Năm Phối ngẫu chính của Guru Rinpoche ở Tây Tạng
 Những Đệ tử chính của Guru Rinpoche ở Tây Tạng
10. Künkhyen Longchen Rabjam (1308-1363)
11. Rigdzin Jigme Lingpa (1730–1798)
12. Dodrupchen Đệ Nhất Jigme Thrinle Özer (1745–1821)
13. Jigme Gyalwe Nyuku (1765-1843)
14. Dola Jigme Kalzang (thế kỷ mười chín)
15. Dzogchen Mingyur Namkhe Dorje Đệ Tứ (1793-?)
16. Do Khyentse Yeshe Dorje (1800–1866)
17. Gyalse Zhenphen Thaye (1800-?)
18. Dzogchen Khenpo Pema Dorje (thế kỷ mười chín)
19. Paltrül Jigme Chökyi Wangpo (1808–1887)
20. Dodrupchen Đệ Nhị Jigme Phüntsok Jungne (1824-1863)
21. Jamyang Khyentse Wangpo (1820-1892)
22. Nyoshül Lungtok Tenpe Nyima (1829-1901/2)
23. Önpo Tendzin Norbu (thế kỷ mười chín)
24. Adzom Drukpa Drodül Pawo Dorje (1842–1924)
25. Lushül Khenpo Könchok Drönme(1859–1936)
26. Dodrupchen Đệ Tam Jigme Tenpe Nyima (1865-1926)
27. Shuksep Lochen Chönyi Zangmo (1865–1953)
28. Dzogchen Thupten Chökyi Dorje Đệ Ngũ (1872-1935)
29. Gekong Khenpo Künzang Palden (1872-1943)
30. Yukhok Chatralwa Chöying Rangtröl (1872–1952)
31. Kathok Khenpo Ngawang Palzang (1879-1941)
32. Alak Zenkar Pema Ngödrup Rölwe Dorje (1881-1943)
33. Dzongsar Khyentse Chökyi Lodrö (1893-1959)
34. Kyala Khenpo Chechok Thöndrup (1893–1957)
35. Dilgo Khyentse Tashi Paljor (1910–1991)
36. Chatral Sangye Dorje (sinh năm 1913)
37. Dodrupchen Đệ Tứ Rigdzin Tenpe Gyaltsen(1927-1961)
38. Dodrupchen Đệ Tứ Thupten Thrinle Palzang (sinh năm 1927)
CÂY TRUYỀN THỪA
TÁC PHẨM TRÍCH DẪN
CHÚ THÍCH

 

Lời Cảm ơn

Tôi xin cảm ơn Harold Talbott bởi trí tuệ và sự kiên nhẫn của ông trong việc hiệu đính quyển sách này với sự thận trọng lớn lao và nhận thức sâu sắc; cảm ơn Michael Baldwin vì sự hỗ trợ và hướng dẫn không hề ngừng nghỉ cho những dự án Phật Pháp của tôi trong hơn mười lăm năm; cảm ơn Lydia Segal đã truyền cảm hứng cho tôi trong việc kết hợp thành quyển sách này và rà soát lại nhiều phần của quyển sách; cảm ơn những nhà bảo trợ của Buddhayana, nhờ sự bảo trợ của họ mà từ 1975, tôi đã có thể sử dụng những năm tháng của đời mình để biên soạn và dịch thuật những giáo lý Phật giáo quý báu; cảm ơn David Drove đã hỗ trợ về vi tính; Jonathan và Joan Miller đã chăm sóc sức khỏe cho tôi; cảm ơn Thư viện riêng của Kyabje Dodrupchen Rinpoche tại Chùa Mahasiddha Nyingmapa, Hawley, Massachusetts, và Thư viện Lehman tại Đại học Columbia, Thành phố New York, về những nguồn tài liệu quý báu; cảm ơn Victor và Ruby Lam đã cho phép tôi sử dụng căn hộ thoải mái của họ.

Tôi xin cảm ơn Steven Goodman đã có nhiều đóng góp sâu sắc và chuẩn bị cho bảng chỉ dẫn. Tôi cũng cảm ơn Zenkar Thupten Nyima Rinpoche, Khenpo Chöyag, Gelong Konchog Tendzin, Ani Ngawang Chödron, Ani Lodrö Palmo, và nhiều người khác đã cung cấp rất nhiều thông tin có giá trị.

Tôi xin cảm ơn thầy Samuel Bercholz và nhân viên của Nhà Xuất bản Shambhala đã cung cấp phương tiện toàn hảo để tiểu sử của những Đạo sư đến được với các độc giả. Xin cảm ơn Larry Mermelstein đã trau chuốt cho quyển sách bằng tài năng biên tập của anh. Xin cảm ơn Kendra Crossen đã mang lại cho quyển sách sự hiểu biết sâu xa của cô về văn học, và cảm ơn Brian Boland đã trình bày quyển sách với sự tài hoa của anh.

 

Ghi chú của Tác giả

Tôi đã viết hoa những chữ gốc (Ming gZhi) của mỗi từ trong tiếng Tây Tạng được chuyển tự để bảo đảm các từ được đọc một cách đúng đắn và dễ dàng. Đối với việc ký âm cho chữ Tây Tạng, tôi chủ yếu theo hướng dẫn của Ủy ban Dịch thuật Nālandā do Larry Mermelstein cung cấp.

Từ đầu đến cuối quyển sách tôi đã thêm vào các từ trong dấu ngoặc đơn để làm cho ý nghĩa của những bản văn trích dẫn trở nên rõ ràng hay để cung cấp những từ tương đương trong Phạn ngữ, Tạng ngữ, hay Anh ngữ của chúng. Tôi cũng cung cấp một số cách dịch khác hay những từ đồng nghĩa trong những dấu ngoặc vuông [ ].

Trong phần thư mục, fchữ viết tắt của “folio,” (số tờ) cách đánh số trang theo kiểu Tây Tạng; và pchữ viết tắt của “page” theo cách đánh số trang của Tây phương.

Trong những chú thích, tựa đề của các bản văn trích dẫn được biểu thị bằng những chữ viết tắt, chẳng hạn như BC thay cho sNying Thig Gi brGyud ‘Debs Byin rLabs Ch’ar rGyun do Jigme Lingpa khám phá. Các tựa đề đầy đủ được xếp theo mẫu tự abc được liệt kê trong “Tác phẩm Trích dẫn” ở cuối quyển sách này. Khi một bản văn theo cách đánh số trang kiểu Tây Tạng được trích dẫn, các chữ biểu thị tựa đề được đi theo bởi số folio, nó có chữ a hay b theo sau để chỉ rõ mặt trước hay sau của folio. Đứng kế đó là số dòng. Ví dụ như, “BC 1a/1.” Trang và những số dòng không có chữ a hay b biểu thị cách đánh số trang theo kiểu Tây phương.


Lời nói đầu

Các Đạo sư của sự Thiền định và những Điều Huyền diệu là một tuyển tập tiểu sử của các vị Thầy chứng ngộcuộc đời thì tràn đầy sự an bình, giác ngộ và những điều huyền diệu lạ lùng. Các ngài đã nở rộ ở Tây Tạng, Mái nhà của Thế giới, trong thời đại hoàng kim của nó. Những Đạo sư này thuộc dòng Longchen Nyingthig, phái Nyingma của Phật giáo Tây Tạng.

Longchen Nyingthig (tâm yếu của sự rộng lớn vô hạn, hay chân lý tối hậu của sự mở trống phổ quát) là một giáo khóa gồm những giáo lý bí mật trình bày sự thiền định thâm sâu của Dzopa Chenpo (Đại Viên mãn), do Jigme Lingpa (1730-1798), một học giả và bậc lão thông vĩ đại, khám phá. Jigme Lingpa khám phá những giáo lý này như một “terma tâm” (hay “kho tàng tâm”), những giáo lý được khám phá từ bản tánh giác ngộ của tâm. Đến Jigme Lingpa và sau đó từ ngài cho đến ngày nay, sự trao truyền Longchen Nyingthig được truyền qua dòng truyền thừa của nhiều Đạo sư giác ngộ, mà những vị có cuộc đời kiệt xuất nhất được giới thiệu trong quyển sách này.

Trong quá khứ, khi tôi đọc những tiểu sử mà tôi đã tóm tắt ở đây, tôi thấy đó là những cuộc đời đầy cảm hứngkỳ diệu nhất. Nhưng vào lúc này, khi tôi thuật lại các tiểu sử đó bằng những lời lẽ và cảm xúc của riêng tôi, bản thân tôi thường xuyên trải qua những kinh nghiệm đau khổ, gian lao, hay phấn khích cũng như an bình, hỉ lạc, sáng ngời, hay sự khoáng đạt mà các Đạo sư đã trải qua. Vì thế những cuộc đời không còn là những câu chuyện để đọc hay các đối tượng “ở bên ngoài” để nghĩ tưởng nữa. Chúng là những lóe sáng nội tâm của các Đạo sư, là “chân tánh” của những cuộc đời giác ngộ. Trong “chân tánh” đó, mọi giai đoạn và những biểu lộ khác nhau của các cuộc đời được đồng cảm, giống như những con sông đổ vào đại dương, một khối nước duy nhất. Nếu những tiểu sử này được đọc như những câu chuyện với những nhận thức thông tuệ và đầy cảm xúc thì sự cảm hứnglợi lạc tốt đẹp nhất có thể có được. Nếu những cuộc đời được đọc để cảm nhận và hợp nhất với những kinh nghiệm của các Đạo sư, chắc chắn là những câu chuyện sẽ làm phát khởi sự chứng ngộ tâm linh, tình thương, sự an bình, khoáng đạt, sáng ngời, và khả năng chữa lành trong trái tim độc giả.

Đối với tôi, thật không đúng và quả là điều bất khả khi tôi cố tránh đặc điểm điển hình của các tiểu sử Tây Tạng, đó là việc đưa ra những danh mục bất tận những vị Thầy, giáo lý, và đệ tử của các Đạo sư, mặc dù những danh mục đó có thể thật tẻ nhạt đối với những độc giả không phải là người Tây Tạng. Nhưng tôi đã cố gắng không để cho những chi tiết này làm giảm bớt tính chất sống động của câu chuyện kể. Mỗi khi có thể, tôi đã cố gắng đưa ra những cảm xúc sâu xa về những cuộc đời tâm linh, và đồng thời những cuộc đời bên ngoài hàng ngày của các Đạo sư: làm thế nào các ngài đối mặt và chữa lành nỗi đau khổ của thân xác các ngài, các ngài đối xử với sự rối loạn cảm xúc ra sao, làm cách nào các ngài chiến thắng những ảo tưởng về mặt tâm linh hay thiền định của mình, và quan trọng hơn nữa, các ngài kinh nghiệm gì khi đánh thức Phật Tâm thâm sâu và những Phật chất (phẩm hạnh của Phật) của riêng các ngài.

Quyển sách này có hai phần, phần đầu là một giới thiệu tiểu sử ngắn gọn của Đức Phật và một danh sách các dòng chính yếu của Phật giáoTây Tạng. Trong khi trình bày cuộc đời của Đức Phật dựa trên những Kinh điển truyền thống, tôi đã cố gắng giới thiệu cuộc đời này trong phạm vi ý nghĩa của nó và những lời giảng dạy của ngài hơn là một chuyện kể có tính chất lịch sử. Đối với danh sách các dòng truyền thừa của Phật giáoTây Tạng, tôi đã đưa ra một nét phác họa cấu trúc của một vài dòng chính, nhưng có ít chi tiết về những dòng đó hay những giáo lý của chúng.

Phần thứ hai là phần chính của quyển sách. Nó trình bày nguyên lý của ba thân Phậttiểu sử của ba mươi lăm Đạo sư của dòng Longchen Nyingthig.

Ba thân Phật là Dharmakāya (Pháp thân), thân tối thượng, là sự hoàn toàn mở trống, bản tánh tuyệt đối của Đức Phật; Sambogakāya (Báo thân), thân hỉ lạc, định rõ mọi hình thức Phật đích thực xuất hiện không có sự nhị nguyên chủ thể-đối tượng; và Nirmanakāya (Hóa thân), thân được hiển lộ, là những hình thức của Phật được chúng sinh bình thường tri giác. Ba thân Phật là những suối nguồn của các giáo lý tối thượng, chẳng hạn như Longchen Nyingthig.

Đạo sư đầu tiên của dòng Longchen Nyingthig trong thân tướng con người là Prahevajra (cũng được gọi là Garab Dorje, Kim Cương Hỉ). Cuộc đời của những Đạo sư trong loài người lúc ban đầu từ Prahevajra xuống tới Guru Rinpoche (thế kỷ thứ 9) có một phẩm tính độc nhất vô nhị. Những cuộc đời đó được hiển lộ như một năng lực mạnh mẽ về giới luật và các thành tựu, sở hữu những phú bẩm và năng lực siêu phàm. Từ Longchen Rabjam trở đi, mặc dù cuộc đời của những Đạo sư sau này phản ảnh một con đường, sự hiến dâng, và năng lực khác biệt với chúng ta, nhưng các ngài vẫn có nhiều kinh nghiệm tương tự với những gian khó, khổ đau, và cảm xúc của riêng ta, và ta có thể tưởng tượng bản thân ta đến lúc ta có được năng lực của các ngài để hiến dâng, chữa lành, và chứng ngộ. Như vậy, cuộc đời của các Đạo sư lúc ban đầu là những cuộc đời quan trọng nhất, nhưng đối với nhiều độc giả thì cuộc đời của những Đạo sư sau này dễ làm cho chúng ta nhận thức và đồng cảm hơn.

Dường như có hai lý do khiến có hai loại tiểu sử này. Những thay đổi trong nghệ thuật biên soạn giải thích một vài dị biệt giữa những tường thuật về các Đạo sư lúc ban đầu và các vị sau này. Nhưng lý do chính là sự thay đổi hoàn cảnh, những khả năng của cử tọa và mức độ khoáng đạt và nhận thức của họ.

Thêm nữa, trong số những tiểu sử của các Đạo sư sau này, có nhiều vị chẳng hạn như Do Khyentse, ra đời với trí tuệnăng lực kỳ diệu, trong khi những vị khác như Dodrupchen Đệ Nhất và Jigme Gyalwe Nyuku, đã đạt được những thành tựu tâm linh tối thượng nhờ giới luật của sự khổ hạnh và hiến dâng. Nhiều Đạo sư thường đối mặt với những chướng ngại khắc nghiệt trong hành trình tâm linh của các ngài, nhưng năng lực của sự thấu suốt, hứa nguyện, và cảm hứng của các ngài không chỉ giữ gìn cho các ngài ở trên con đường mà còn dẫn dắt các ngài tới mục tiêu.

Sự trao truyền Longchen Nyingthig chảy qua nhiều Đạo sư của những dòng truyền thừa khác nhau. Trong quyển sách này tôi chỉ có thể đưa vào những Đạo sư chính yếu của bản thân dòng Longchen Nyingthig và những Đạo sưliên hệ trực tiếp trong việc làm cho sự trao truyền Longchen Nyingthig đi tới những vị Thầy của tôi và sau đó tới tôi.

Có rất nhiều tài liệu liên quan tới cuộc đời của nhiều Đạo sư, nhưng đối với một vài Đạo sư quan trọng như Dola Jigme Kalzang, Gyalse Zhenphen Thaye, Khenpo Pema Dorje, Dodrupchen Đệ Nhị, và Önpo Tendzin Norbu, thì tôi chỉ có thể tìm được rất ít tài liệu. Ngoài ra, tôi tập trung nhiều hơn vào các Đạo sưchúng ta có ít tài liệu bằng Anh ngữ về các ngài hơn là những Đạo sưtiểu sử có thể tìm thấy trong Anh ngữ.

Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng trong lịch sử kéo dài hơn mười thế kỷ của Phật giáo. Tuy nhiên, chúng ta không nên có cảm tưởng rằng hầu hết những người Tây Tạng đều là các thiền giả vĩ đại và những bậc lão thông thành tựu phô diễn những năng lực huyền diệu, như tiểu thuyết Lost Horizon (Chân Trời Đã Mất) có thể miêu tả! Những Đạo sư thành tựu như thế rất hiếm có ở Tây Tạng nếu so sánh với toàn thể dân chúng. Đồng thời, chẳng có lý do gì để nghi ngờ việc các ngài là những bậc có năng lực tâm linhchứng ngộ vĩ đại. Nơi nào có những hoàn cảnh thích hợp và có sự hiến dâng tuyệt đối cho sự tiến bộ của phẩm tính tâm linh của tâm hơn là sự tiến bộ vật chất, thì người ta sẽ được chứng kiến những thành tựu tâm linh như thế không chỉ trong nền văn minh Tây Tạng, mà còn trong nhiều nền văn hóa trong toàn bộ lịch sử thế giới trong những thời đại hoàng kim giàu có tâm linh.

Đối với tôi tài liệu trong quyển sách này là nguồn tài liệu gây cảm hứng nhất mà tôi từng có khi biên soạn. Mỗi Đạo sư thì hoàn toàn khác biệt nhưng các ngài lại rất giống nhau. Mỗi Đạo sư vĩ đại có đặc tính độc nhất vô nhị để hiển lộ, có vai trò để đóng, có nơi chốn để thực hiện trong dòng truyền thừa Longchen Nyingthig quý báu này. Hầu hết các Đạo sư vĩ đại này đã ra đi, biến mất vào quá khứ xa xôi, nhưng sự hiện diện của các ngài trong dòng truyền thừa quý báu này, những lời dạy của giáo lý giác ngộ của các ngài, và năng lực mang lại những gia hộ của các ngài thì vẫn ở lại với chúng ta.

 

XEM CHI TIẾT NỘI DUNG: CÁC ĐẠO SƯ CỦA SỰ THIỀN ĐỊNHpdf_icon

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11559)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13559)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14129)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10313)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10792)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11342)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11287)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11443)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10178)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9970)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10718)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11322)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42233)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10494)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11866)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10025)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10468)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10641)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45794)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32134)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11339)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10708)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11336)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10639)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13462)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12383)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11048)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10630)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12333)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11178)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11852)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29290)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9222)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10556)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10247)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10600)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10912)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10813)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32165)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27412)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17814)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11883)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12293)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10449)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11706)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10439)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10795)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28098)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10164)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10293)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10659)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10775)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11237)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10405)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10698)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11481)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18272)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10531)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12859)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11757)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29212)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28617)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28312)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13334)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22792)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13449)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11585)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13832)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25737)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26092)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22327)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14493)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12077)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11816)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11694)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11497)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33208)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31860)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12045)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39645)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22511)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11967)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14249)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13353)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14310)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12077)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10416)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11239)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13332)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34547)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12637)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12239)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13536)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12631)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12991)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16314)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11761)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27405)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28444)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 13433)
Phật là hoa sen, hoa sen là Phật. Khi Ngài sinh ra bước đi trên bảy đóa hoa senhình ảnh biểu đạt con đường đi đến thăng chứng qua bảy giai trình tu tập...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant