Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thích Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh

30 Tháng Tư 201300:00(Xem: 8401)
Thích Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh
KHAI TỔ THIÊN THAI TÔNG
THIÊN THAI TRÍ KHẢI

THIỀN VÀ CHỈ QUÁN

 PAUL L. SWANSON biên soạn
TỪ HOA NHẤT TUỆ TÂM biên dịch
thienquanvachiquan-bia2

Phần Hai
Thích Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh
Giác Ý Tam Muội
釋 摩 訶 般 若 波 羅 密 多 心 經
覺 意 三 昧
Thiên Thai Trí Khải giảng thuyết
Quán Đảnh ghi chú

[1] Giải thích đặc tính (621a7-b25)

 Nếu có người muốn vượt biển sinh tử đến bờ kia, chắc chắn rằng người ấy phải biết rõ những vọng tưởng căn bản và hiểu được yếu chỉ đạt đạo. Thực tế 實際của kiến thức là nền tảng của ảo tưởng, phản chiếu tâm nguyên 反照心源 là [việc làm] thiết yếu để chứng đạo. Thực tế của tri thức là chánh nhân 正因 [giải thoát][1], phản chiếu nguồn tâm là liễu nhân了因Bồ đề [2]. Hai nhân nầy gồm thu muôn pháp, không có chỗ nào mà không cùng tận. Ví như ánh thái dương rực rỡ trên bầu trời trong sáng cùng lúc chiếu soi [muôn loài]; hư khôngmặt trời chẳng tức chẳng ly, chẳng trụ chẳng bất trụ, ánh sáng mặt trời tỏa ngời hùng tráng, đẩy lui bóng tối, phơi bày không gian. Cũng vậy, mặc dù bóng đêm bị xóa tan vì hư không lộ diện, nhưng không hề mất đi một cái gì đó hoặc thêm vào một cái gì đó trong không gian nầy. Cái gì có thì không bao giờ mất, điều nầy bao hàm thế giới sự tướng. Cái chướng ngại của bóng tối đã vĩnh viễn lìa xa, nhưng không có gì mất đi trong bản tánh. Vô số sự tướng trong không gian hiển bày nhưng tánh rỗng lặng của hư không vẫn hồn nhiên, thanh tịnh. Nếu không có ánh sáng mặt trời thì có bóng đêm. Không phải vì hư không mà khuất đi bóng tối, nhưng bóng tối tạm ẩn đi vì có ánh mặt trời. Nếu khôngmặt trời thì sẽ không có ánh sáng mặt trời, không gian sẽ không rực sáng. Nếu khôngánh mặt trời, bóng đêm không tự ý rút lui. Dù vậy, thể tánh của bóng tối chẳng [từ đâu] đến mà cũng chẳng đi [về đâu]. Tánh và Tướng của mặt trời chẳng sinh chẳng diệt. Có một vầng thái dương, và vầng thái dương đó chiếu rạng bầu trời. Đây là cái thấy rõ ràng về trời và đất, thấy hư không / tánh rỗng lặng tự bản tâm hằng chiếu soi bởi mặt trời trí tuệ thì cũng giống như vậy – vì mặt trời không là không gian nhưng cũng không ly khai không gian. Nếu như mặt trời tức là không gian thì làm cách nào chiếu rạng không gian cho được?. Nếu như mặt trời cách biệt với không gian thì không gian cũng không nương nhờ được ánh sáng của mặt trời. Tuệ nhật 慧日cũng như vậy. Tuệ nhật không là hư không / tánh rỗng lặng của bản tâm nhưng cũng không lìa hư không / tánh rỗng lặng của bản tâm. Nếu nó tức hư không thì nó không thể làm nhân chiếu sáng. Nếu nó cách biệt với hư không thì nó cũng không thể làm việc chiếu sáng. Vì mặt trời không trú [như một chủ thể] trên bầu không, mà cũng chẳng phải không trú trên bầu không nên mới có thể chiếu rạng bầu không từ bản tánh vô trụ; mà cũng không rơi ra khỏi không gian cũng vì không trụ vào không gian. Tuệ nhật cũng như vậy. Hãy quán rằng tánh rỗng lặng của bản tâm không trụ nơi tánh rỗng lặng của bản tâm nên có thể chiếu soi. Điều nầy không có nghĩa rằng tánh rỗng lặng có trụ vì nó có chiếu soi. Tuệ tâm thường tịch. Như ánh mặt trời có thể xóa tan bóng tối, lộ bày tướng trạng của không gian. Tuệ nhật cũng như vậy. Tuệ nhậtthể diệt bóng tối vô minh làm hiển lộ nguyên lai chân tánh. Khi mặt trời xóa bóng đêm làm lộ tướng không gian, nhưng không gian nầy chẳng mảy may tăng hoặc giảm, cũng như mặt trời trí tuệ. Tuệ nhật xóa tan vô minh và làm hiển lộ chân tánh nhưng tánh không của bản tâm chẳng tăng chẳng giảm, ví như mặt trời chẳng thêm chẳng bớt khi đẩy lui bóng đêm và phơi bày một bầu trời với muôn sự tướng. Tuệ nhật cũng giống như vậy. Mặc dù bản tánh của tự tâm chẳng tăng chẳng giảm nhưng năng diệt phiền não, vẹn toàn vạn hạnh hiển lộ vạn pháp. Trên bầu không thanh tịnh, có bóng tối nếu khôngmặt trời, tánh của bản tâm cũng không khác. Bản tâm tự tánh thanh tịnh, nhưng vì không có ánh sáng của trí tuệ, ảo vọng vô minh liền phát sinh. Không gian thanh tịnh nhưng không thể tự hủy diệt bóng tối vì sự hủy diệt bóng tối đòi hỏi sự giả hiện của ánh sáng mặt trời, bản tánh rỗng lặng của tâm cũng như vậy. Tâm vốn thanh tịnh nhưng không phải tự nhiên mà diệt được vô minh, sự diệt trừ ảo chướng đòi hỏi sự chiếu soi của trí tuệ. Không thể có ánh sáng và sự chiếu soi nếu khôngmặt trời trên bầu không. Nếu mặt trời không lộ diện thì bóng tối sẽ không bị xóa tan đi. Tuệ nhật cũng như vậy. Nếu tự bản tâm [không có ánh sáng trí tuệ] thì làm sao có được sự chiếu soi?. Nếu tánh rỗng lặng của bản tâm không có trí tuệ thì không thể diệt được vô minh. Vì bóng tối chẳng đến chẳng đi, mặt trời chẳng sinh chẳng diệt, trí và ngu cũng như vậy. Tạm nói rằng vô minh bị diệt trừ, nhưng vô minh chính nó không có định tánh, nó chẳng đến chẳng đi, nên không hề có một thực thể bị hủy diệt. Trí tuệ chiếu soi muôn pháp, nhưng bản tánh [của trí tuệ] thường tịch. [Trí tuệ] chẳng sinh chẳng diệt, và tuyệt đối không có một [thực thể] chiếu soi. Ví như mặt trời chiếu rạng không gian là một cách hiểu tự nhiên về trời đất; đây cũng là chỗ hồi quang phản chiếu bản tâm rỗng lặng. Từ đó tất cả sự tướng thế gian và siêu thế gian đều tự nhiên hiển bày viên mãn. Vì ý nghĩa nầy, tôi [Trí Khải] nói rằng trí tuệ chiếu soi tự tâm, ví như vầng thái dương trên nền trời. Nếu có người nhờ nghiền ngẩm mưới ẩn dụ của không gianmặt trờithâm nhập được vạn pháp thì từ đó người ấy có thể vào được biển giác ý 覺意. Đây gọi là giải thích tất cả sự tướng.

[2] Giải thích tên “giác ý tam muội” (621b26-622b23)  

Vấn: Giác Ý Tam Muội là gì? Vì sao gọi là Ý?. Có phải vì chư Bồ tát “giác” được “ý” của họ nên chứng được tam muội?. Tuy nhiên, có vô lượng pháp, tại sao lại giảng về giác ý tam muội?.

Đáp: “Giác” hoặc “viên giác” có nghĩa là “giác danh chiếu liễu” 覺名照了, Ý chỉ cho tâm sở ( xưa gọi là tâm số 心數 ). Tam Muội chỉ cho Điều 調, Chân 眞, Định 定 [ý của hành giả]. Khi tâm sở phát sinh, người ấy nên phản chiếu quán sát 反照觀察, bất kiến động chuyển 不見動轉. Đây là ý nghĩa của “Giác Ý Tam Muội”. Đối với câu hỏi có vô lượng pháp, tại sao lại chỉ giảng về giác ý tam muội mà không nói đến những pháp khác – xin đáp rằng mặc dù pháp thì vô lượng nhưng đều từ Ý [sinh khởi], không có bất cứ điều gì không tùy thuộc vào [tiến trình] nầy. 

[621c5] Biết được điều nầy nên có người nói rằng khi con người biết nhận ra cảnh vật – chính là lúc phân biệt người với gỗ, đá – đây gọi là Tâm 心. Sau đó là sự định lượng, phân biệt gọi là Ý 意. Biết đưa ra đầy đủ phán đoán gọi là Thức 識. Tâm, Ý, Thức theo đó mà phân biệt tức rơi vào sự điên đảo của tâm [thị phi], sự điên đảo của khái niệm, và sự điên đảo của tri kiến. Nếu có người có thể biết rõ rằng trong tâm, ý không có mặt [như thực] cũng không hẳn là không có mặt; trong tâm, thức không có mặt [như thực] cũng không hẳn là không có mặt; trong ý, thức không có mặt [như thực] cũng không hẳn là không có mặt; trong thức, ý phân biệt không có mặt [như thực] cũng không hẳn là không có mặt; trong thức, tâm không có mặt [như thực] cũng không hẳn là không có mặt – đây là [cái hiểu đúng về] tâm, ý, và thức. Vì vậy cho nên là “phi nhất tạo lập tam danh” 非 一 造 立 三 名, và “phi tam tạo thuyết nhất tánh” 非 三 造 說 一 性.

 Nếu danh không là [thực] danh thì tánh cũng không là [thực] tánh. Vì đây không phải là ba tên gọi [cố định] nên không phải là ba [chân lý độc lập]; vì không có một chân lý [cố định] nên không phải là một. Không là ba nên không [có gì gọi là] hợp, không là một nên không [có gì gọi là] tan. Không hợp nên không phải là Hữu, không tan nên không phải là Vô. Không là hữu nên không thường; không là vô nên không đoạn. Tâm, ý, thức nầy chẳng phải đoạn cũng chẳng phải thường. Nếu các ông không vướng mắc vào các chủ trương thường hoặc đoạn thì hẳn nhiên các ông sẽ không vướng mắc vào cái thấy một hoặc nhiều [giống hoặc khác].

 Vậy nên nếu có người nói về Ý thì ở đây có cả hai nghĩa của Tâm và Thức. Tất cả các pháp đều như vậy. Nếu các ông có thể quán tâm một cách thâm sâu thì các ông có thể vượt qua những ý [tưởng] vô minh cũng như những nhiễm ô ngu ngốc, và diệt được tất cả. Vì vậy nên dù pháp có vô lượng, tôi [Trí Khải] thuyết về Giác Ý Tam Muội nầy.

[621c21] Kế tiếp, cái được gọi lả Giác Ý Tam Muội được kinh và luận [Đại Bát NhãĐại Trí Độ Luận] giải thích như thế nào?. Kinh luận nói rằng chứng đắc Thất Giác Ý 七 覺 意 trong tất cả các tam muội thì gọi là Giác Ý Tam Muội. Ở đây, “tất cả tam muội” có nghĩa rằng tất cả pháp đều không lìa tam muội vì tất cả pháp vốn thường tịch.

 Hơn nữa, nói về tam muội thì có ba loại: thế gian, siêu thế gian, và siêu siêu thế gian tam muội [3].

 Thế gian tam muội là sự chứng đắc tam muội của cõi Dục, tứ thiền, tứ vô lượng tâm, và những tam muội của tứ vô sắc mặc dù vẫn còn tâm tán loạn của cõi Dục.

 Siêu thế gian tam muội gồm có trí tuệ thực hành ba mươi bảy phẩm, ba môn giải thoát, tứ đế, và mười hai nhân duyên.

 Siêu siêu thế gian tam muội gồm 108 tam muội như thập lực tam muội, Thủ Lăng Nghiêm tam muội v.v... 

 Với nghĩa nầy, ba loại tam muội bao gồm những tam muội nhiều như cát trong khắp mười phương thế giới. Vạn pháp gồm thu trong đó. Vì các pháp gồm thu, người ta có thể nói đến “tất cả tam muội”.

[622a6] Thất giác [ý] là gì?. Đó là: Niệm, Trạch pháp, Tinh tiến, Hỉ, Khinh an, Định, Xả.

“Thất giác” có nhiều nghĩa, nhưng tôi chỉ lược giải sáu loại:

[1] Thất giác là nhân nghe [pháp] 因聞

[2] Thất giác là tu hành 修行

[3] Thất giác là hội lí會理

[4] Thất giác là khởi phương tiện 起方便

[5] Thất giác là nhập pháp môn 入法門

[6] Thất giác là viên cực 圓極

[622a12] [1] Thất giác là nhân nghe [pháp] có nghĩa rằng: Vạn pháp vốn không tịchtuyệt đối thanh tịnh nhưng chúng sinh không nhận ra được điều nầy. Nếu họ gặp được chư Phật, chư Bồ tát, hoặc thiện tri thức bảo họ rằng vạn pháp vốn không tịch, người nghe [nếu tiếp nhận được] sẽ đại ngộ phi thường... Người sinh giác ngộ như trên vì nghe được pháp, đây gọi là nhân văn 因聞.

(Ghi chú của người dịch: Từ số [2]- [5] bản Anh ngữ, chỉ có tựa mà không có phần giải thích).

[622b2] [6] Thất giác là viên cực 圓極có nghĩa rằng: Nếu Bồ tát ma ha tát trụ ở Kim Cang Tam Muội, trong tịnh thiền an lạc, đại ngộ và được nhất tâm, thường chiếu soi viên tịch, hiểu tất cả pháp một cách đầy đủ và rõ ràng, đây gọi là viên cực [các pháp]. Đây cũng gọi là đại giác ngộ. Đây cũng gọi là vô học.

Đó là ý nghĩa của thất giác. Bồ tát sơ phát tâm, thực hành nhiều pháp quán, cuối cùng đắc quả rốt ráo, đây gọi là thất giác; cũng gọi là quán tướng của tâm, và phản chiếu thức反照識.

Với nghĩa nầy vô lượng tam muội có tên gọi khác nhau. Trong Hoa ngữ có nghĩa là điều chân tâm 調眞心, và cũng gọi là thường tịch định 常寂定. Đây là tấm gương thanh tịnh, hoặc như nước mặt hồ lặng yên không mảy may gợn sóng, có thể phản chiếu muôn vật. Tất cả những gì hiển lộ trong tâm thì cũng giống như vậy. Mặc dù bản tâm vốn thanh tịnh, nhưng vì ý khuấy động khiến tâm [tạm] mất đi sự tĩnh lặng. Nếu các nhân giác ngộ nói trên được vun tưới đầy đủ thì hành giả đắc được tịnh ý. Nếu các pháp nầy được hiển bày, thì sẽ đạt được định, và tâm sẽ an lạc. Đây gọi là “định”, vì vậy nên thuyết về “giác ý tam muội”.

[3] Giải thích về sự tu tập Giác Ý Tam Muội (622b24-623a4)

[giải thích về Lục Độ, theo Maha Chỉ Quán, 17b].

….

[622c28] Nếu hành giả không tu tập lục độ ba la mật, tam muội sẽ không thành tựu. Vì vậy, những người muốn tu tập giác ý tam muội cần phải lấy lục độ làm phương tiện tu học tinh cần. Sáu độ nầy gồm thu tất cả phương tiện thiện xảo. Nếu các ông biết dùng, các ông có thể vượt được cái tâm bám đầy phấn bụi của sáu cái tán [loạn] 六散, điều được tâm. Chỉ từ đó, các ông mới có thể nhận ra được sự thật, có được cái thấy từ tâm vi diệu, và vào được cánh cửa của trí tuệ chân thực. Đây gọi là phương tiện thiện xảo tu tập tam muội cho kẻ sơ cơ...

[4] Giải thích minh bạch đối với tướng của tâm qua Giác Ý Tam Muội [623a5-b23]  

Vấn: Khi một hành giả muốn vào [Giác Ý] tam muội, tướng của tâm trong định nầy là gì?.

Đáp: Kinh và luận có nói về tâm tướng心相, nhưng không giống nhau, tôi [Trí Khải] cũng sẽ không mang ra thảo luận [mọi khía cạnh] ở đây. Thay vào đó, tôi sẽ nói về các điểm chính với bốn loại tâm tướng, là những đối tượng quán chiếu. Bốn loại nầy là gì?. Thứ nhất là vị niệm 未念. Thứ hai là dục niệm欲念. Thứ ba là niệm 念. Thứ tư là niệm dĩ 念已.

[623a10] Vị niệmniệm trước khi duyên cảnh 緣境 mà sinh. Dục niệm là niệm duyên theo cảnh mà sắp sinh. Niệm là niệm duyên theo cảnh mà đã sinh. Niệm dĩ chỉ cho niệm duyên cảnh đến chỗ hoàn toànchấm dứt, dần phai mờ và mất đi.

[623a12] Vấn: Tướng của tâm nhiều sai khác. Tại sao ông chỉ lấy bốn tướng trên?.

Đáp: Bốn tướng nầy bao gồm tất cả các niệm. Ví như gặp phải một tà pháp. Trước tiên là có vị niệm về pháp nầy, rồi đến dục niệm về pháp nầy, rồi có niệm về pháp nầy, và sau cùng là niệm dĩ về pháp nầy. Hoặc ví như gặp được một chánh pháp. Trước tiên là có vị niệm về pháp nầy, rồi đến dục niệm về pháp nầy, rồi có niệm về pháp nầy, và sau cùng là niệm dĩ về pháp nầy. Đối diện với sáu căn và kinh nghiệm về tam độc; tất cả phiền não và tất cả các sinh hoạt như đi, đứng, ngồi, nằm, nói năng, ăn uống v.v... về tiến trình của bốn tướng đã giải thích như trên. Tất cả những gì liên quan đến sự tướng thế gian đều có bốn tướng nầy, vì vậy nên tôi [Trí Khải] giới hạn bài giảng trong bốn tướng mà không nói qua những đối tượng quán chiếu khác.

[623a19] Vấn: Ý nghĩa của “tướng” là gì? 

Đáp: Cái được thấy và phân biệt thì gọi là tướng. Các pháp về nhận thức thì không có tướng vật chất. Không thể biết được chúng nếu không qua bốn tâm tướng nầy để phân biệt. Nếu không biết đến chúng thì không quán được chúng. Vì vậy nên việc cần yếu trước tiênphân biệt bốn tướng nầy. Nếu các ông quán và hiểu rõ rằng những tướng nầy [là Không và vì vậy] không là thực tướng, thì các ông nhận ra tánh bình đẳng [của tất cả các tướng và tánh phổ quát] của một tướng.

[623a24] Vấn: Có thể quán được “dục niệm” và “niệm” vì hai tướng nầy có dấu vết. Nhưng “vị niệm” chưa sinh khởi nên không có niệm. Nếu không có niệm thì không có tướng có thể phân biệt. “Niệm dĩ” thì đã diệt, không khác với chẳng có gì. Nếu không có các pháp thì không có các tướng. Làm cách nào mà có thể quán [được các tâm tướng nầy]?. 

Đáp: Mặc dù ở trạng thái “vị niệm”, niệm chưa sinh nhưng không có nghĩa rằng không có niệm. Điều nầy muốn nói lên điều gì?. Ví như có một người chưa có tác động gì cả, nhưng rồi theo duyên mà hành động. Nếu chỉ vì không có tác độngchúng ta nói rằng không có người trước khi tác động được làm?. Nếu chúng ta khẳng định rằng không có người, thì ai là kẻ sau đó khởi lên động tác?. Vì có người, người đó chưa làm nên động tác cho nên sau đó mới có động tác do người nầy làm.

Tướng của tâm cũng như vậy. Sở dĩ có “dục niệm” vì có “vị niệm”. Nếu không có “vị niệm” thì làm cách nào một người có thể đến với trạng thái “dục niệm”?. Vì vậy, với tướng “vị niệm”, dù rằng niệm chưa phát sinh, điều đó không có ý nghĩa khẳng định rằng [niệm] không hiện hữu.

Nói rằng hành giả không thể quán được tướng của “niệm dĩ” vì niệm đã đến trạng thái chấm dứt và [tạm gọi là] mất đi. Tuy vậy nhưng không phải vậy. Ví như một người sau khi động tác đã hoàn tấtchúng ta không thể nói rằng không hề có người nầy. Nếu chúng ta nhất quyết rằng không có người thì ai là kẻ sau đó khởi lên động tác? . Niệm diệt [ở trạng thái] “niệm dĩ” cũng như vậy. Chúng ta không thể nói rằng cái việc “diệt” là vĩnh viễn, và không có niệm. Nếu chúng ta nói rằng cái việc “diệt” là vĩnh viễn, và không có niệm tức là chúng ta đã rơi vào chủ nghĩa đoạn diệt, bác bỏ nhân quả. Vì vậy, dù rằng một niệm đã đi đến trạng thái chấm dứt và [tạm gọi là] mất đi, nhưng vẫn có thể quán được.

[623b8] Vấn: Một hành giả phải quán tâm 觀心như thế nào?. Nếu nói rằng quán tâm quá khứ thì tâm quá khứ ấy đã qua. Nếu nói rằng quán tâm vị lai thì tâm vị lai chưa đến. Nếu nói rằng quán tâm hiện tại thì tâm hiện tại nầy không dừng lại. Không có tâm nào ngoài ba thời nầy. Lại hỏi, vậy thì hành giả quán tâm nào?.

Đáp: Câu hỏi của ông thực quá sai lầm. Nếu tâm quá khứ đã hoàn toàn qua đi và không thể nào biết đến nó được thì làm cách nào bậc thánh biết được tất cả tâm quá khứ?. Nếu tâm vị lai chưa đến và không biết nó ra sao thì làm cách nào bậc thánh biết được tất cả tâm vị lai?. Nếu tâm hiện tại không dừng lại và không thể biết được nó thì làm cách nào bậc thánh biết được tâm hành của tất cả chúng sinh khắp mười phương thế giới?. Ngay cả loài yêu mị trong cõi nầy còn có khả năng biết được tâm niệm của chúng nó trong ba thời, và cũng biết được tâm niệm của người khác trong ba thời. Tại sao những hành giả đã gặp được pháp Phật như các ông lại còn sinh khởi tà kiến chấp vào đoạn diệt, tức cho rằng quá khứ, hiện tại, và vị lai không hiện hữu – như lông rùa, sừng thỏ – nên không thể biết được?.

Các ông phải nên biết rằng tâm quá khứ, hiện tại, và vị lai – mặc dù không thường trú nhưng vẫn có thể biết đến được. Như bài kệ trong Đại Trí Độ Luận nói: “Phật thuyết rằng: Không mà không đoạn. Tiếp nối mà không thường. Vậy nên quả thiện ác không mất.” (T25.64c8-10)

Các ông không nên có cái chấp đoạn diệt, cũng không nên chẳng có kiến giải. Người không tu tập pháp quán thì chẳng khác người mù, dù đứng trước hình sắc cũng không thấy được [hình sắc]. Các ông cũng giống như vậy. Nếu các ông không có được con mắt [thấy được thực tướng của các] pháp thì thực là thiếu sót và chẳng lợi ích gì.

[5] Giải thích lối vào pháp quán Giác Ý Tam Muội [623b24-626c1]

Vấn: Nay chúng tôi biết rằng bốn tâm tướng bao gồm tất cả tâm pháp. Làm cách nào một hành giả định nơi các tâm nầy để thông đạt mọi mặt của thực tại, chiếu soi và minh bạch tất cả các tam muội, và trở nên tương ưng với thất giác?.

Đáp: Trước hết nên lập đại thệ nguyện, và tu tập lục độ như đã nói trên. Điều tâm, tin và biết rằng tất cả các pháp đều không tịch, rằng chính mình đang chìm đắm trong vô minh mà chưa hoàn toàn giác ngộ. Phải nên chuyên cần tu tập chánh quán, và đạt đến chỗ biết được những tà niệm và tà kiến làm hại [con đường huệ mạng của] các ông.

Các ông nên biết chính các ông, và theo dõi tâm mình khi niệm phát sinh, với tâm chẳng trụ vào đâu cả, hãy tự phản chiếu, hãy quán và nhận ra sự có mặt của vị niệm, dục niệm, niệm, và niệm dĩ.

[623c3] Đó là lúc quán một cách chân chánh, hoặc là [1] tâm vị niệm diệt, và tâm dục niệm sinh, [2] tâm vị niệm không diệt và tâm dục niệm sinh, [3] tâm vị niệm diệt và chẳng diệt, và tâm dục niệm sinh, [4] tâm vị niệm chẳng diệt chẳng không diệt, và tâm dục niệm sinh. Trong đường lối nầy, dùng tứ cú phân tích vị niệm, quán rằng cái sinh của tâm dục niệm bất khả đắc, rồi cái vô sinh cũng bất khả đắc. Như vậy, hợp với bản tâmgiải thoát.

[Phân tích] vị niệm với tứ cú gọi là gì?. Đó là quán tâm dục niệm bất khả đắc.

[623c9] Trước hết, [phân tích] vị niệm qua phần thứ nhất [của tứ cú]:

Hãy quán sự sinh khởi của dục niệm là bất khả đắc. Nếu [chúng ta nói rằng] dục niệm sinh khi vị niệm diệt, nếu vị niệm đã diệt hẳn rồi thì dục niệm từ đâu mà có thể sinh?. Cái sinh đó xảy ra cùng lúc với cái diệt của vị niệm, hoặc là cái sinh đó cách biệt với cái diệt của vị niệm?.

Giả định [chúng ta nói rằng] cái sinh của dục niệm xảy ra cùng lúc với cái diệt của vị niệm. Tuy nhiên, pháp diệt không phù hợp với pháp sinh vì bản tánh của sinh diệt không dung nhau.

Giả định [chúng ta nói rằng] trong cái sinh có chứa đựng cái diệt, nhưng vì bản tánh của sinh diệt không dung nhau, nên giả định nầy không thể được. Mặc dù [chúng ta thấy] trong một quả chín, bên trong lớp vỏ vẫn chứa hạt, đến khi lớp vỏ chín thì thấy được hạt. Nhưng vỏ không phải là hạt, và hạt cũng không phải là vỏ. Làm cách nào người ta có thể lấy ra hạt từ trong lớp vỏ?. Niệm cũng đúng như vậy. Người ta không thể lấy ra cái sinh ngay trong cái diệt. Vì vậy, sự diệt của vị niệm và sự sinh của dục niệm xảy ra cùng lúc là điều không thể có được.

Giả định [chúng ta nói rằng] có cái sinh của dục niệm cách biệt với cái diệt của vị niệm. Như vậy có lý nào lại có một cái sinh mà không có nhân?. Điều nầy cũng không thể có được. Nếu có một cái sinh, sinh ra mà không từ đâu cả, thì [cái sinh nầy] không thể gọi là “sinh”. Ví như cái rỗng không thì không thể sinh ra ở nơi đâu, cho nên cái rỗng không nầy không thể gọi là “sinh”. Các ông phải nên biết rằng cái diệt của vị niệm đối với cái sinh của dục niệm đều bất khả đắc.

Thực hành [pháp quán nầy] cũng như vậy. Hoặc đồng hoặc dị, hãy quán cái diệt của vị niệm và cái sinh của dục niệm đều bất khả đắc.

[623c22] Thứ hai, [phân tích] vị niệm qua phần thứ hai [của tứ cú]:

Hãy quán sự sinh của dục niệm là bất khả đắc. Nếu dục niệm sinh trước khi vị niệm diệt, thì cái vô diệt và sinh đồng thời hoặc cái vô diệt và sinh diệt khác [thời]?.

Nếu cái vô diệt và sinh đồng thời thì trong cái vô diệt đã sẳn có cái sinh. Cái sinh nầy sinh như thế nào?. Nếu cái sinh như vậy có thể phát khởi cái sinh nầy thì có thể nối tiếp sinh. Những cái sinh như vậy có thể liên tục sinh khởi đến vô tận. Nhưng [những lối sinh mà không có nhân như vậy] thì không thể được. Nếu mỗi cái sinh có một đặc tính thì không thể phát khởi vô số cái sinh. Thí dụ như một ngón tay không thể chứa đựng trong nó nhiều ngón tay khác. Nếu cái sinh nầy có một đặc tính khác thì không thể gọi đó là “sinh”. Sinh có đặc tính của sinh; bỏ ra ngoài đặc tính nầy thì không thể sinh khởi. Ví như một trái đào và một quả táo có đặc tính khác nhau. Trái đào không sinh ra quả táo và quả táo không sinh ra trái đào. Như vậy, dục niệm không thể sinh khi vị niệm chưa diệt.

Nếu chúng ta nói rằng chúng khác [thời], thì dục niệm sinh bên ngoài cái vô diệt của vị niệm, vậy thì dục niệm từ đâu sinh?. Nếu sinh từ chỗ rỗng không thì chúng ta có cái sinh từ chỗ vô nhân [là điều không có được]. Nếu không có nhân mà sinh được, thì là vô sinh, và có thể nói [luôn] được rằng vô sinh là sinh, rồi thì chúng ta rơi ngay vào lỗi lầm [đưa ra] một loại quả [mà quả đó] không có nhân. Ví như thạch nữ sinh con. Các ông nên biết rằng dục niệm không thể nào sinh bên ngoài cái vô diệt của vị niệm. 

Hãy thực hành pháp quán nầy như vậy. Hoặc đồng hoặc dị, hãy quán cái vô sinh của vị niệm và cái sinh của dục niệm đều tuyệt đối bất khả đắc.

[624a8] Thứ ba [phân tích] vị niệm qua phần thứ ba [của tứ cú]:

Hãy quán cái sinh của dục niệm là bất khả đắc. Giả định chúng ta nói rằng vị niệm diệt và vô diệt. Khi dục niệm sinh, nếu cái sinh đó có do cái diệt của vị niệm, thì còn cần gì đến cái vô diệt?. Mặt khác, nếu sinh vì vô diệt thì cần gì đến cái diệt?. Một cái nhân bất định không thể sinh ra một cái quả định. Một người [cha hoặc mẹ] lông bông thì không thể uốn nắn những đứa con có được nền tảng vững vàng.

Nếu có cả diệt và vô diệt thì dục niệm không thể nào sinh được nếu đặc tính là một và giống nhau. Cũng vậy, diệt không là vô diệt, và vô diệt cũng không là diệt; đặc tính của chúng biệt lập, và không đồng một thể. [Nói rằng] dục niệm sinh vì [tánh diệt và vô diệt] không khác nhau thì giống như nói rằng một người không có chủng tính có hai chủng tính, chẳng phải một. Người như vậy không thể sinh con có chủng tính...

Hãy thực hành [pháp quán nầy] như vậy. Hãy quán rằng cái diệt và vô diệt của vị niệm, để có cái sinh của dục niệm, thì tuyệt đối bất khả đắc.

[624a22] Tiếp theo, [phân tích] vị niệm qua phần thứ tư [của tứ cú]:

Hãy quán cái sinh của dục niệm là bất khả đắc. Giả định [chúng ta nói rằng] dục niệm sinh dù vị niệm chẳng diệt chẳng không diệt. Nhưng nếu nhân sinh là cái vô diệt [của vị niệm], thì cái vô diệt không cần phải vắng mặt. Nếu nhân sinh là sự vắng mặt của vô diệt thì cái vô diệt không cần thiết. Chúng cũng không thể cùng là một nhân. Sự kiện các nhân nầy loại trừ nhau có nghĩa rằng chúng không thể cùng nhau sinh ra quả. Ví như hòa hợp nước và lửa thì đến vô tận cũng không có kết quả...

[624b9] Theo nghĩa nầy dùng lối phân tích cái diệt của vị niệm trong tương quan với dục niệm qua tứ cú, [có thể thấy rằng] tuyệt đối bất khả đắc.

[624b11] Nếu các ông nhận ra rằng cái sinh diệt trong tâm vị niệm và trong tâm dục niệm là bất khả đắc, rằng cái vô sinh diệt của chúng cũng bất khả đắc, rằng những cái ảo tưởng vu vơ trong dục niệm và trong tất cả pháp của người thế gian chỉ toan sinh và diệt, hoặc không sinh và diệt, hoặc chẳng sinh chẳng diệt, và là những ảo giác trống không, chẳng có thực lý. Các ông nên thấy được rằng tất cả đều bất khả đắc, và chỉ là giả danh. Các pháp chỉgiả danh mà không hề có mặt [như thực]; chẳng trong chẳng ngoài; chẳng ở khoảng giữa; cũng chẳng tự hiện hữu một cách thường hằng. Nói tóm lại, chúng cũng không có được danh [như thực]. Nếu danh là bất khả đắc như sinh diệt... qua tứ cú, thì cái không hiện hữu [như thực] của danh cũng bất khả đắc. Vì danh không nắm bắt được cho nên giả hữu cũng không phải là chủ tể [như thực]. Nếu cái bất hữu của danh là bất khả đắc thì danh không phải là cái gì trống không. Nếu giả hữubất khả đắc thì nó không phải [chỉ] là tục đế. Nếu khôngbất khả đắc thì nó không phải [chỉ] là chân [đế]. Nếu tục đế bất khả đắc thì nó không [chỉ] là hiện hữu của thế gian. Nếu chân đếbất khả đắc thì nó không [chỉ] là siêu thế gian. Nếu hiện hữu thế gianbất khả đắc thì nó không [chi] là ô nhiễm. Nếu siêu thế gian bất khả đắc thì nó không phải [chi] là vô nhiễm. Nếu ô nhiễmbất khả đắc thì nó không [chỉ] là luân hồi. Nếu vô nhiễmbất khả đắc thì nó không phải [chỉ] là niết bàn.

Khi các ông quán vị niệm và dục niệm trong đường hướng nầy, nếu các ông nhận ra tánh bất khả đắc của hai đối cực mà không nắm giữ hai cực đoan nầy. Nếu không nắm giữ hai cực đoan thì không tự trói buộc vào hai cực đoan; không bị nghiệp buộc ràng. Nếu không bị nghiệp chướng che khuất vì hai cực đoan nầy, tâm các ông là tâm chánh quán; tâm nầy tự nhiên thanh tịnh như hư không. Đây là nhân [đưa đến] chân tuệ trung đạo, như nhiên chiếu soi nhị đế [tục và chân, không và giả]. Tâm như vậy thì tịch diệt, tự nhiên xuôi vào biển đại niết bàn. Nếu các ông cũng như vậy mà quán vị niệm và dục niệm, thì các ông sẽ nhận ra niệm, niệm dĩ, và tất cả các pháp khác.

[624b28] [Luận về hai pháp quán: tổng và biệt]...

[624c-626ca] [Luận về lục trílục hành] (theo Maha Chỉ Quán, 15c-16c) 

[626a14-b9] (theo Maha Chỉ Quán, 16c7-24)

[6] Giải thích về tướng giác ngộ từ sự thực hành Giác Ý Tam Muội [626c2-627b24]

(Ghi chú của người dịch: Phần nầy và ba phần trên chỉ có tựa mà không có nội dung, theo bản Anh ngữ. )



[1] Nhân chánh sinh ra pháp, đối lại với duyên nhântrợ lực.

[2] Trí tuệ vốn có của tất cả chúng sinh làm nhân giác ngộ Bồ đề.

[3] Tôi [Swanson] không chắc chắn rằng từ kinh Đại Tập hoặc từ Đại Trí Độ Luận.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10138)
Thật sung sướng khi mặc vào người, cái áo nhật bình bạc màu, chừa chóp tóc giữa đầu; cuộc sống hoàn toàn mới lạ, thanh thoát nhẹ nhàng...
(Xem: 10410)
Những chiếc lá vàng từ tán cây phượng bị gió lùa xuống ghế đá công viên, chỗ Thủy và chàng ngồi, làm cho Thủy chợt nhớ bài hát Mùa Thu Lá Bay...
(Xem: 9692)
Mặt trời ló dạng trải những ánh vàng óng ả trên mặt biển khơi, chiếu sáng rực rỡ một góc trời. Ngoài xa, từng cơn sóng nô đùa nối đuôi nhau cặp bờ.
(Xem: 23613)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 11853)
Khi còn bé, mỗi dịp Vu lan về, tôi thường hay theo mẹ lên chùa lễ Phật. Khi nghe quý thầy giảng về công ơn cha mẹ, ông bà, tôi thấy khóe mắt mẹ tôi nhòa lệ.
(Xem: 10734)
Mỗi năm cứ độ thu về, tiếng chuông buồn da diết, trên cành cây khô trụi lá, ve sầu rỉ rả giọng ai oán thê lương như đa mang, như chất chứa nỗi niềm trong cô tịch...
(Xem: 10077)
Tất cả nghiệp tội đều do chấp trước mà phát sinh. Trong sáu cõi lại xuất hiện ra cảnh giới của ba đường ác. Tuy là ảo vọng không thực, nhưng cảm nhận đau khổ là thật.
(Xem: 28690)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 21627)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 29419)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 11394)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 12366)
Đức Phật ra đời là để khơi mở tuệ giác cho hết thảy chúng sinh: - Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tất cả chúng sinh đều có trí tuệ...
(Xem: 26335)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 31034)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25340)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22817)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 13054)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21944)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 12232)
Tâm tĩnh lặng tự tại gọi là AN. Thân ở yên một chỗ gọi là CƯ. Tứ chúng là bốn hình tướng của người tu bao gồm xuất giatại gia (chư Tăng, Ni, và Cư sĩ nam, nữ).
(Xem: 14142)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 12461)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 11245)
Không phải ngẫu nhiên mà người ta cho rằng Đạo Phật là Đạo hiếu. Đức Phật có rất nhiều lời dạy về hiếu đạo...
(Xem: 10694)
Việc tri ânbáo hiếu luôn là một đạo lý quan trọng đối với mọi tín đồ Phật tử. Đạo lý ấy không chỉ là một khúc tấu của bản trường ca thông thường...
(Xem: 38064)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 13674)
Người Phật tử trên bước đường tu tập hãy kiên trì, tinh tấn, gột rửa thân tâm mình sao cho ngày càng trong sạch, tinh khiết như những đóa sen, vươn lên khỏi bùn nhơ...
(Xem: 13470)
Với đạo Phật, đời sống có chất liệu để cho hoa sen vươn lên bầu trời, có sức đẩy để cho chiếc bè tự do nổi được và vươn ra đại dương.
(Xem: 12353)
Một mùa Phật đản nữa sắp về, tôi lại được vẽ Phật đản sinh. Ngài đứng trên đài sen, tay phải chỉ trời, tay trái chỉ đất. Tôi không thể nhớ đã vẽ được bao nhiêu bức tranh Phật như thế này.
(Xem: 12590)
Trong bản tâm của mỗi chúng sinh vốn có đầy đủ đức tính trong sạchsáng suốt nhưng do bụi trần cấu uế che phủ, nên bản tính uyên nguyên sáng suốt ấy chưa có cơ hội hiển bày.
(Xem: 12058)
Theo truyền thống các nước Phật giáo Nguyên thủy, ngày lễ Đản sanh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được mọi người biết đến với cái tên thân thiết hơn, đó là ngày lễ Vesak.
(Xem: 10728)
Vậy mà má đi đã xa rồi. Giờ đây mỗi lần có dịp con chỉ biết mua vài lá trầu và bửa vài trái cau thắp hương cho má vậy. Con xin má tha lỗi cho con...
(Xem: 11217)
Trong cuộc đời, phận làm con có báo hiếu cả đời, có dời sao lấp biển cũng không báo hiếu hết được công lao sinh thành của mẹ. Vì tình nghĩa mẹ ví như nước trong nguồn.
(Xem: 23360)
Chủ đề chính của bài này là những hình ảnh đẹp được chụp ở một số nước châu Á trong dịp Lễ Phật Đản. Mời anh em cùng xem qua.
(Xem: 33203)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 12801)
Trong trí tuệ vô ngã, ta có thể chứng nghiệm “Ta ở ngoài tất cả”. Đó gọi là giải thoát tuyệt đối. Vì ở ngoài tất cả cho nên ta có khả năng thấy được tất cả.
(Xem: 7396)
Kinh mô tả, mùa an cư đầu tiên, đức Phật đã có mặt tại vườn Nai, còn gọi là vườn Lộc Uyển.
(Xem: 12190)
Hôm nay mùa Phật đản Nắng xuân rọi chói chang, Chim reo hót muôn ngàn Chốn đạo tràng thênh thang
(Xem: 12621)
Suốt thời gian thị hiện Ta-bà, Đức Thích Ca Mâu Ni đã không ngừng giảng dạy cho chúng sanh ở mọi giai cấp, mọi căn cơ từ thấp lên cao...
(Xem: 12050)
Tuyết lạnh cổng chùa đóng Trong chùa ấm hương thiền Phật tâm ai cũng có Phật Đản thấy chân tâm.
(Xem: 12873)
Chân thành đốt nén tâm hương Cúng dường Chư Phật mười phương rạng ngời Mừng ngày Đức Phật ra đời Muôn hoa đua nở nơi nơi rộn ràng
(Xem: 11944)
Lễ Phật Đản tưng bừng khắp chốn, Từ sơn lâm cho đến thị thành. Lòng Phật tử vui mừng khôn xiết...
(Xem: 10701)
Đức Phậtđấng Giác ngộ, sống đời sống giải thoát, an lạc hoàn toàn, nhưng vì thương chúng sinh, nên Ngài thị hiện giữa cuộc đời này...
(Xem: 11375)
Đóa Sen hồng hé nụ Rằm tháng Tư lại về Xôn xao đến làng quê. Đường trần dệt ánh sáng.
(Xem: 11665)
Tóc mây pha màu trắng Biển xanh lộng bóng trời Chim về đôi cánh sãi Vun vút gió ngàn khơi.
(Xem: 10869)
Sự xuất hiện của Ngài được gọi là vi diệu vì sự xuất hiện đó như ánh sáng mặt trời xua tan bóng đêm tăm tối, mang lại hạnh phúc đích thực, bình an vĩnh cửu cho vạn loại...
(Xem: 10807)
Là một con người trên tất cả con người, là một vĩ nhân trên tất cả vĩ nhân, cuộc đời của Đức Thích Ca Mâu Ni gắn liền với một huyền thoại tuyệt đẹp...
(Xem: 10377)
Là những người học Phật, chúng ta nên khéo áp dụng lời dạy của Ngài vào cuộc sống đời thường, chuyển hóa thân tâm, đem Phật Pháp xây dựng thế gian...
(Xem: 10493)
Bản hoài của chư Phật mười phương là muốn chỉ cho chúng sinh thấy, ai cũng có tri kiến Phật, tức Phật tánh, như nhau, bình đẳng không khác.
(Xem: 10713)
Mỗi khi ta chế tác được một chánh tư duy, một tư tưởngbiểu lộ được tuệ giác vô thường, vô ngã, từ bi, trí tuệtương tức thì ta là Bụt.
(Xem: 10634)
Bảy bước chân đức Phật luôn hướng đến những nơi khổ đau. Hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, những bước chân ấy vẫn miệt mài đưa biết bao nhiêu thế hệ đi vào từng trang sử đẹp.
(Xem: 11918)
Phước duyên thù thắng phước duyên xuân Từ thị long hoa hiện tánh thuần Hoa nở sắc hương hoa mãn giác Mười phương chung lạc phúc nhân quần
(Xem: 10700)
Bên đài hoa sen trắng Trông thấy ánh đạo vàng Bên niềm vui tĩnh lặng Thấy Phật tỏa hào quang
(Xem: 12740)
Hỡi Vesak thiêng liêng! Hãy cất cao ngọn lửa hùng thiêng cháy bỏng, tiêu hủy đi những tăm tối lầm mê, thắp sáng lên tình thươngtrí tuệ...
(Xem: 10807)
Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển III kể rằng: Khi đức Phật hiệu Tì-bà-thi Như Lai ra đời, Thánh chúng lúc ấy có ba hội, toàn là bậc A la hán.
(Xem: 11392)
Lạy Như Lai, Ngài có nghe con khấn nguyện Ảo ảnh, phù du theo hướng khói bay xa Hòa bình thật sự ngự trị cõi Ta-bà
(Xem: 11093)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sinh thoát khỏi ngục tù
(Xem: 11638)
Cách đây hai ngàn bảy trăm năm Vườn Lâm Tỳ Ni Hoa Ưu Ðàm rực sáng Hương đưa ngào ngạt...
(Xem: 10517)
Mỗi năm Phật Đản lại về với người con Phật. Khắp năm châu, muôn triệu con tim cùng hòa chung một nhịp đập, hân hoan kỷ niệm ngày đản sanh của đấng từ phụ.
(Xem: 11264)
Hãy sống như những người con Phật, mở lòng ra, nắm lấy những giờ phút đang có này, vứt bỏ mọi ức, hoài niệm, và nở nụ cười.
(Xem: 12307)
Giây phút ấy thế gian bừng chấn động, Ðóa Ưu Ðàm hé nụ mấy ngàn năm. Sen nở thắm bên hồ hương gió lộng...
(Xem: 11168)
Giờ này, đứng dưới mái chùa, ánh trăng đêm Phật Ðản như tắm gội cho mỗi cá nhân chúng tôi trôi và vơi đi bao lo lắngphiền muộn.
(Xem: 12490)
Đức Phật là nhà truyền giáo đầu tiên hoạt động tích cực nhất trong lịch sử nhân loại. Suốt 45 năm, Ngài đã đi từ nơi này sang nơi khác để hoằng dương chánh pháp cho giới bình dân lẫn trí thức.
(Xem: 11425)
Giáo pháp Phật nhắc ta làm chủ mình, điều tâm, lập hạnh bồi đức để hưởng hạnh phúc vĩnh hằng. Đức Phật không bao giờ dùng quyền uy đe dọa hay ép buộc ai phải theo mình.
(Xem: 11512)
Ngày Đức Thích Tôn từ Thiên cung phát tâm xuống phàm trần để hóa độ chúng sanh, cũng là ngày trần gian có thêm một ánh sáng, ánh sáng chân lý, từ khế kinh do Đức Phật nói...
(Xem: 11302)
Ðức Phật đản sanh là một sự kiện kỳ diệu hy hữu như lời Ngài đã dạy: ”Có một người sinh ra đời vì an lạc của quần sanh, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạchạnh phúc của chư thiênnhân loại.
(Xem: 11591)
Đã bao lâu rồi ta chưa về thăm cha-mẹ, hay bởi vì nghĩ rằng ta có điện thoại hỏi thăm và gởi hình về nên thôi không cần thiết phải về thăm?
(Xem: 12996)
Trong khuôn viên Lâm Tỳ Ni chiều nay, những lá cờ Phật giáo tung bay theo chiều gió, các lá phướn mầu rực rỡ của Phật tử Tây Tạng giăng trên các tàng cây.
(Xem: 14179)
Phật Đản lại về, cuối xuân đầu hạ, cây đủ lá xanh tràn trề sức sống, hoa sen rộ nở đóa đóa diệu hồng, trắng mát, tỏa hương khoe sắc, như đón bậc vĩ nhân...
(Xem: 11016)
Tâm hồn Tôi chao động mãnh liệt khi nhớ lại những ngày hội tấp nập người qua lại mừng ngày Ðản Sanh. Cờ xí Phật Giáo treo ngợp phố...
(Xem: 11874)
Với Ðức Phật, sự phát triển tâm linh cho mỗi cá nhân cũng như những vấn đề chung của cộng đồng xã hội là phải thực hành cho đúng chứ không phải lý thuyết hay quan điểm.
(Xem: 13162)
Hoa sen vừa nở trên đầm biếc Nắng đã lên rồi thức bình minh Chim non trên cành đang nói Pháp Phật đản đến rồi độ chúng sanh
(Xem: 11582)
Đức Từ-Bi vô lượng xuống trần gian Giờ phút thiêng liêng Huy hoàng cõi tục Ðịa cầu sáng ngời trong bạch ngọc Ðóa sen hồng nâng bước đấng cha lành
(Xem: 11429)
Ngày Ðản sinh của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là một sự kiện vĩ đại vào loại bậc nhất trong lịch sử xã hội loài người. Ðối với giới Phật tử, sự kiện lớn lao ấy còn mang đậm tinh chất kỳ vĩ...
(Xem: 10934)
Nếu chúng ta tìm hiểu các hoạt động, các nghi thứcPhật giáo ở các nước tổ chức Đại lễ Phật đản ở xứ họ thì chúng ta sẽ học hỏi được rất nhiều điều giá trị...
(Xem: 11290)
Đứng trên cao từ phía gác chuông đại hồng nhìn khắp sân Chùa, tôi thấy một đoàn quý Thầy tề chỉnh trang nghiêm trong bộ y vàng sáng rực...
(Xem: 10819)
Bài thơ mừng đón Đản sinh Âm ba đồng vọng ân tình nước non Quê hương đạo nghĩa vuông tròn Từng trang lịch sử vàng son thái hòa.
(Xem: 11062)
Kiếp nhân sinh chỉ như làn chớp nhoáng Duy có một ngày sinh Tồn tại giữa muôn nơi Phật đản ngày khai hóa nhịp thở cho đời
(Xem: 10895)
Đức Phật ra đời không phải là ngẫu nhiên mà do một đại sự nhân duyên: Ngài có nhiệm vụ mở bày (khai thị) cho chúng sinh thấy vào (ngộ nhập) Phật tri kiến...
(Xem: 10266)
Chúng ta đã học, đã tu, phải hành nữa mới đủ. Tu là sửa, hành là làm, sửa cong ra thẳng, sửa tà thành chánh, làm tất cả mọi việc lành với một tâm hồn trong sạch...
(Xem: 17112)
Hôm nay, trong bầu không khí trang nghiêm mừng Phật đản sanh, hình ảnh của Đấng Từ Tôn qua khói trầm xông tỏa, vẫn là nụ cười trầm tỉnh, uy hùng.
(Xem: 11014)
Sự kiện Thái tử Tất Đạt Đa có đủ 32 tướng đã báo hiệu Ngài không phải là một người thường. Điều đó trở thành hiện thực khi Ngài xuất gia tìm đạo và đã thành tựu được quả vị Phật Đà.
(Xem: 10868)
Những lời đức Phật dạy đã giúp cho nhân loại nhận thấy được qui luật vận độngbiến đổi của vũ trụnhân sinh, để rồi từ đó tạo dựng một cuộc sống phù hợp với những quy luật ấy...
(Xem: 10410)
Sự thị hiện đản sanh của đức Phật trong thân thế thái tử Tất-đạt-đa con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-da cho ta một tia hy vọngchúng ta cũng sẽ có thể thành Phật.
(Xem: 10760)
Khi Thái tử Siddhàrtha vượt thành Kapilavatthu trong đêm trường thanh vắng để vào núi Himalayas tìm đường tu tập, Ngài đã xác định hướng đi cho cuộc chuyển hóa nhân sinh toàn diện nhất trong lịch sử nhân loại.
(Xem: 11387)
Nhân mùa Phật Đản đang trở về trong lòng người con Phật, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tập thơ đặc biệt "Tuyển tập Thơ Phật Đản" của Mặc Giang như là món quà nhỏ gởi đến quí vị...
(Xem: 11085)
Năng nhân là có khả năng thực hiện sự yêu thương; Năng nhẫn là có khả năng kham nhẫn; Năng tịch có khả năng thực hiện đời sống an tịnh...
(Xem: 10575)
Buổi sáng sớm của ngày trọng đại, trong gió có mùi thơm chiên đàn, trầm thủy phả xuống từ các cõi trời. Bầu trời trong xanh và sâu thẳm hơn thường ngày.
(Xem: 11381)
Ngày qua đi chúng ta làm được nhiều điều bổ ích cho tự thân và mọi người, một ngày qua đi cảm thấy có gì đó tiếc nuối. Ngày đó đều là ngày Phật Đản.
(Xem: 10355)
Hàng năm khi mùa sen nở, người con Phật ở khắp nơi trên hành tinh này hân hoan, tưởng nhớ về những lời dạy vàng ngọc của đức Thế Tôn; tâm niệm mỗi người luôn hướng về ngày kỷ niệm đản sanh của bậc Đạo Sư.
(Xem: 10655)
Cũng như hoa sen mọc ra từ bùn, lớn lên từ bùn nhưng không bao giờ nhiễm bùn. Đức Phật cũng vậy, tuy Ngài sanh ra trong cõi đời ô trược nhưng không bị nhiễm ô bởi cõi đời ô trược.
(Xem: 12771)
Như chúng ta đã biết, thế giới của Phật là trạng thái tự tại với tất cả mọi chướng ngại đến tri thứcquấy rầy của cảm thọ. Đấy là trạng thái mà tâm hoàn toàn khai mở.
(Xem: 19271)
Cho dù gặp lúc phong ba, Tình thương của mẹ chan hòa xiết bao! Ngày của mẹ, đẹp làm sao! Cho con dâng chút ngọt ngào nhớ ơn.
(Xem: 19707)
Chập chờn thức giấc nửa khuya, Tưởng hình bóng Mạ như vừa thoáng qua. Áo dài nối vạt phất phơ!
(Xem: 21291)
Đêm qua nhớ Mẹ xiết bao! Trằn qua trở lại, nghẹn ngào lòng con. Mơ màng giấc mộng chưa tròn, Nửa đêm ray rứt héo hon vô cùng.
(Xem: 20338)
Con đã viết nhiều bài thơ về Mẹ Không lần nào kể hết nỗi lòng con. Ơn nghĩa sinh thành như biển như non
(Xem: 19767)
Con nghe rằng mẹ giấu điều lo lắng Mẹ hay buồn, hay lo nghĩ về con Mẹ hay bước ra ngoài con đường vắng...
(Xem: 19051)
Cơn bão tuyết châm chíchvùi dập Ánh trăng thanh lạnh lẽo chiếu trên trời Giờ tôi lại thấy rìa làng quen thuộc...
(Xem: 20493)
Bình minh đang gọi ra bình minh khác Trên cánh đồng lúa mạch bốc khói sương? Tôi nhớ về người tôi thương mến nhất...
(Xem: 21096)
Vĩ đại thay! Sau từng cánh cửa Dù đi xa hay ở rất gần Ta vẫn nghe tiếng con gọi mẹ...
(Xem: 17930)
Mẹ có nghĩa là ánh sáng Một ngọn đèn thắp bằng máu con tim Mẹ có nghĩa là mãi mãi Là cho đi không đòi lại bao giờ
(Xem: 21853)
Con sẽ không đợi một ngày kia Khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant