Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời nói đầu và Lời cảm tạ

05 Tháng Sáu 201300:00(Xem: 9753)
Lời nói đầu và Lời cảm tạ

HÀNH TRÌNH GIÁC NGỘ

Tu tập Phật pháp trong cuộc sống hằng ngày
TULKU THONDUP
Harold Talbort biên soạn - Bản Dịch Việt Ngữ: Tuệ Pháp


LỜI NÓI ĐẦU

Sự rèn luyện cốt lõi nhất trong Phật giáo, và cho chủ đề này trong bất kỳ con đường tâm linh nào đều là “phương tiện thiện xảo”, nhờ đó hành giả có khả năng chuyển hóa mọi khía cạnh cuộc sống hàng ngày của họ thành rèn luyện tâm linh. Rèn luyện tâm linh là những luyện tập làm giải thoát tâm thức khỏi sự bám chấp mãnh liệt và lực khao khát thúc đẩy của chúng ta. Sự rèn luyện tâm linh xoa dịu đau khổ tạo ra bởi quan điểm chật hẹp, cứng rắn và những cảm xúc hỗn loạn, thiêu đốt của chúng ta.

Rèn luyện tâm linh quyết định sự nhận biếtkinh nghiệm của rộng mở, an bình, hoan hỷ, tình thương, và trí tuệ. Nếu tâm tràn đầy tình thương, an bìnhtrí tuệ, thì tâm thứcnăng lượng tâm linh chúng ta sẽ mạnh mẽ. Nếu tâm thứcnăng lượng tâm linh chúng ta mạnh mẽ, các nguyên tố vật chất của thân thể trở nên mạnh khỏe và các sự kiện trong cuộc sống chúng ta trở nên tích cực. Vì lẽ đó, nếu năng lượng tâm thức mạnh mẽ, tâm chúng ta sẽ tự nhiên an bìnhhoan hỷ hơn. Những ngày của toàn bộ cuộc đời sẽ trôi chảy trong một chu trình thực sự hạnh phúc. Như Ngài Dodrupchen Rinpoche đệ tam viết:

Khi tâm không rối loạn, năng lượng của bạn sẽ không nhiễu loạn và nhờ đó các nguyên tố khác của thân cũng sẽ không hỗn loạn. Do vậy tâm bạn sẽ không bị rối loạn và bánh xe hoan hỷ sẽ liên tục quay.

Có hai cách quan trọng để chuyển hóa cuộc sống hàng ngày thành sự rèn luyện. Thứ nhất, nếu bạn đã nhận biết trí tuệ siêu vượt tâm thức ý niệm, hoặc thậm chí nếu chưa siêu vượt được tâm thức ý niệm nhưng có kinh nghiệm tâm linh hùng mạnh như lòng bi, sùng kính, hay thiền định, thì bạn có thể hợp nhất hay chuyển hóa mọi hình tướngkinh nghiệm thành một hỗ trợ cho năng lượng của trí tuệ nhận biếtkinh nghiệm tâm linh.

Với những bậc đại tinh thông, mọi hình tướng của hiện tượng đều trở thành sự diễn tả của tự thân trí tuệ nội tại của họ. Tất cả hình tướng trở thành năng lực của giác ngộ, giống như ánh sáng mặt trời vỗ về những bông hoa hạnh phúc nở rộ trong lòng của tất cả những gì xung quanh.

Thứ hai, với người bình thường như chúng ta, tâm thức là khái niệm, cảm xúc và chưa nhận biết thì điều cốt lõidựa vào bất cứ phương tiện thiện xảo nào – các hình ảnh tâm linh, dấu hiệu, âm thanh, hay nguồn năng lượng tích cực – như phương tiện phát triển năng lượng tâm linh. Nếu có thể thấy các đối tượng chung quanh như một nguồn cảm hứngan bình, chúng sẽ phát sinh an bìnhhạnh phúc trong chúng tanăng lực của nhận thức chính mình.

Tương tự như vậy, chúng ta không thể chuyển hóa hoàn cảnh tiêu cực thành tích cực nếu thấy chúng là tiêu cựcphản ứng chúng với cảm xúc tiêu cực. Chừng nào còn giữ nhận thức tiêu cực, nhìn hoàn cảnh chúng ta qua bóng tối, thì toàn bộ thế gian sẽ xuất hiện tiêu cực, và mọi nỗ lực của chúng ta sẽ là một đấu tranh không bao giờ hết. Do vậy, chúng ta nên đặt nền tảng của an bìnhhoan hỷ thật sự trong tâm bằng việc phát triển phương tiện thiện xảo của rèn luyện tâm linh, không cố gắng né tránh nghịch cảnh. Như Ngài Shantideva (Tịch Thiên) giảng giải:2

Kẻ thù thì vô hạn như không gian (trải rộng)
Không thể chiến thắng tất cả chúng.
Tuy nhiên, nếu bạn chỉ chiến thắng tư tưởng thù hận,
Sẽ ngang bằng với việc chiến thắng mọi kẻ thù
Ở đâu có tấm da
Có thể che phủ cả trái đất?
Nhưng mang một dép da
Thì tương đương với việc bao phủ cả trái đất bằng da.

Quyển sách này bao gồm mười lăm bài báo và bản ghi chép các cuộc nói chuyện đã được xuất bản. Được chia thành hai phần: một dẫn nhập vào con đường của đạo Phật và một thảo luận về thực hành thiền định. Cốt tủy của sách này là điều khoản về thực hành thiền định Ngondro, sự rèn luyện cốt yếu của truyền thống Longchen Nyingthig của Phật giáo Tây Tạng. Ngondro tiêu biểu cho một tiến trình rèn luyện đầy đủ, khởi đầu với việc gợi cảm hứng tâm hành giả đến Giáo Phápkết thúc với việc hợp nhất tâm hành giả với tâm giác ngộ của đức Phật, sự giác ngộ phổ quát. Những đề mục khác đề cập đến các hướng dẫn hoặc tài liệu trợ giúp cùng nhau tạo thành một cẩm nang về việc làm sao chuyển những kinh nghiệm khác nhau mà chúng ta gặp, dù là hiện tượng bên ngoài hay bên trong, thành cái thấy tâm linh, tự chủ, và kinh nghiệm.

Phần Một bao gồm sáu chủ đề. Chúng tạo nên sự giới thiệu đến cái thấy tâm linh, văn hóa, và cuộc sống, là phương tiện quan trọng của việc chuyển hóa cuộc sống của thân, tâm chúng ta thành tu hành Giáo Pháp.

1. “Sử dụng cuộc Sống hàng Ngày như sự Thực hành Giáo Pháp.” Chủ đề này tổng kết một số nguyên lý nền tảng của Phật giáochúng ta là ai và tại sao có thể chuyển cuộc sống hàng ngày của chúng ta thành tu hành tâm linhnhận ra Phật tánh, trạng thái của an bìnhtrí tuệ vô thượng.

Nếu đi theo con đường đúng của tu hành tâm linh, chúng ta có thể chiến thắng mọi đau khổ của cuộc sống, đó chỉ là những ảo tưởng của tâm thức lừa gạt, và giống như người nằm mơ thức dậy từ một ác mộng. Bản tánh toàn giác là tự phát trong chúng ta, vì trong thật tánh mình chúng ta là tất cả chư Phật. Đau khổ là phó phẩm của tâm thức khái niệm chấp bám vào “bản ngã” của chúng ta, được khích động bởi sự gây hấn, tham lam, và hỗn loạn. Rèn luyện trong nhiều thiền định khác nhau như nhẫn nhụcthái độ làm lợi ích người khác sẽ an định những khái niệm và cảm xúc tiêu cực, và cùng lúc phát sinh an bình, hoan hỷ, và trí tuệ trong chúng ta.

2. “Mở rộng Tâm với lòng Bi mẫn.” Lòng bi là thái độ quan tâm, một sự rộng mở của tâm thức. Nó cũng là năng lực toàn giác của Phật Tánh. Chủ đề này giải nghĩa trong những lời đơn giản về lòng bi là gì và làm sao chúng ta có thể phát triển nó. Lòng bi mẫn như một thiền định không chỉ phát triển an bìnhhòa hợp, mà còn đánh thức Phật Tánh trong chúng ta. Sự giới thiệu về lòng bi này minh họa thêm loại kết quả gì chúng ta có thể trông chờ từ nhiều rèn luyện tâm linh khác nhau, như sự sùng kính, nhận thức thanh tịnh, và thiền quán.

3. “Một Hành trình Tâm linh trong một Cuộc Sống Hỗn loạn.” Dùng cuộc sống hỗn loạn của tôi như một minh họa, giáo lý sâu sắc của Phật giáo được trình bày. Bằng cách ban cho tôi sức mạnh để chịu đựng những tai ươngcảm xúc phá hoại xảy đến với tôi và nhiều người khác, giáo lý đạo Phật trở thành phương tiện duy nhất của sự sống còn của tôi trong một thế giới hỗn loạn. Nếu bạn biết cách thì đau khổ có thể trở thành một công cụ hùng mạnh hơn hạnh phúc trong việc chuyển hóa cuộc sống thành con đường giác ngộ.

4. “Công cụ của đạo Phật là sự Hỗ trợ của Nhận biết Tâm linh.” Hãy sử dụng một hình ảnh của Đức Avalokiteshvara như một ví dụ, chủ đề này giải thích ý nghĩa biểu tượng của công cụ tâm linh như một nguồn của cảm hứng, giảng dạy, và năng lực. Nếu chúng ta khéo léo hiểu được nhiều công cụ khác nhau như các biểu tượng tâm linh và suối nguồn của năng lực, thì sẽ đến lúc khi mọi hiện tượng, không chỉ các công cụ tâm linh, sẽ xuất hiện trước chúng ta như hình ảnh của giáo lý và sự nhận biết của an bình, hoan hỷ, và trí tuệ.

Nó dễ dàng cho người bình thường chúng ta sử dụng các đối tượng có ý nghĩa tâm linh trực tiếp và năng lực như một phương tiện của cảm hứng hơn là dùng các đối tượng khác. Các đối tượng có ý nghĩa tâm linh trực tiếp và năng lực bao gồm các bức họa tôn giáo, tượng, đền chùa, kinh sách, vị thầy, thiền giả, và những nơi thiêng liêng.

5. “Các Thangka Phật giáo Tây TạngÝ nghĩa Tôn giáo của Nó.” Chủ đề này phác thảo những nét chính các bức họa Phật giáo Tây Tạng của nhiều truyền thống khác nhau, với một nhấn mạnh về ý nghĩa tôn giáo của chúng.

Với người có khuynh hướng tâm linh, nghệ thuật tôn giáo trong nhiều tướng hiền minh và phẫn nộ là một công cụ hùng mạnh để phát triển và làm mạnh mẽ kinh nghiệm tâm linh với nhiều sự diễn tả khác nhau của hiện tượng. Với người đã giác ngộ, nghệ thuật tâm linhnăng lực, ánh sáng, và năng lượng, sự trải rộng của an bình, sức mạnhtrí tuệ bên trong của họ. Nghệ thuật cũng có thể là tự thân trí tuệ xuất hiện trong dạng hình ảnh của năng lựcbiểu tượng của giáo lý. Thế nên, nghệ thuật tâm linh là một phương tiện quan trọng để chuyển nhận thức của hiện tượng thành sự nhận biết của an bình, sức mạnh, và trí tuệ.

6. “Chuẩn bị cho Bardo: Các Giai đoạn của Cận Tử và Sau Khi Chết.” Chủ đề này giải thích chi tiết toàn bộ tiến trình cận tử từ lúc cái chết bắt đầu đến những gì xảy ra sau khi chết. Dựa căn bản trên kinh điển mật tông (tantra) của Phật giáo Tây Tạng, đặc điểm chính của chương này liên quan đến rất nhiều giai đoạn trong lúc sống và cận tử, với giáo lý về việc chúng ta nên thấy và kinh nghiệm mỗi bước như thế nào.

Cái chết là một thời điểm trọng yếu nhất cho mỗi người chúng ta, một cơ hội then chốt ảnh hưởng đến tương lai. Khi chết, tất cả chúng ta, giàu hay nghèo, đều chờ đợi kết quả giống nhau. Vào lúc chết, chẳng còn bạn bè, quyền lực, tiền bạc, ngay cả chính thân thể yêu mến chúng ta lại có thể đến trợ giúp được. Chỉ có thói quen, và năng lượng – karma – đã tồn trữ trong tâm thức sẽ tạo ra kết quả của cuộc sống kế tiếp, những kinh nghiệm tương lai của chúng ta. Do vậy, để chuẩn bị cho cái chết, chiến lược quan trọng nhất của chúng tađạt được sự hiểu biếtkinh nghiệm tâm linh trong lúc vẫn còn sống. Khi cái chết đến, việc khóc lóc cầu cứu là quá trễ.

Phần Hai bao gồm chín đề mục, tập trung chủ yếu là sự thiền định của Ngondro, sự rèn luyện thiết yếu trong Dzogpa Chenpo (“Đại Viên Mãn”), theo dòng truyền của truyền thống Longchen Nyingthig.

Ba đề mục đầu tiên là sự giới thiệu đến thực hành Ngondro. Trình bày một lịch sử tóm tắt của trường phái Nyingma và một phác thảo chính của truyền thống Ter qua đó Ngondro được phát hiện và đến với chúng ta.

7. “Trường phái Nyingma của Phật Giáo Tây Tạng.” Nyingma hay Nyingmapa (“Cổ Mật”) là trường phái cổ nhất của bốn trường phái chính của Phật giáo Tây Tạng. Đặc điểm chính của đề mục này tượng trưng độc nhất của trường phái Nyingma trong văn học, tinh thần, và lịch sử xã hội của Tây Tạng. Longchen Nyingthig mà Ngondro đặc biệt này thuộc về là một trong các dòng truyền lỗi lạc của trường phái Nyingma.

8. “Truyền thống Terma của Trường phái Nyingma.” Ter hay Terma có nghĩa “các kho tàng ẩn dấu.” Đó là các đối tượng tinh thần, giáo lý, và trao truyền được chôn dấu và phát hiện qua năng lực giác ngộ huyền bí của các bậc đại tinh thông. Trường phái Nyingma là truyền thống đạo Phật phong phú nhất về mặt giáo lý chôn dấu như Ter. Chủ đề này tổng kết những bộ Ter khác nhau được phát hiện: giáo lý Ter Đất (Sa gTer), Ter Tâm (dGong gTer), và Kiến Thanh Tịnh (Dag sNang). Nó trình bày đầy đủ chi tiết tiến trình giáo lý được chôn dấu và phát hiện sau đó. Giáo lý Longchen Nyingthig được Ngài Jigmed Lingpa (1729-1798) phát hiện là một Ter Tâm.

9. “Các Quán đảnhGiới Luật của Tu Hành Mật Tông.” Có hai phương diện: quán đảnh (Tạng, dBang, Phạn, abhisheka) và các giới luật (Tạng, Dam Tshig, Phạn, samaya). Quán đảnh là lối vào của rèn luyện tantric hay mật truyền. Người khao khát nhận được điều này từ một vị thầy mật tông để đưa chính họ vào nhập môn. Sự quán đảnh cũng có thể được tái tiếp nhận như sự rèn luyện trong con đường. Chúng cũng có thể được tiếp nhận như thành tựu rốt ráo.

Giới luật là nguyện, cam kết, nối kết, hoặc kết quả trong mật tông hay tu hành tantric. Chủ đề này cung cấp một tổng quan toàn diện về samaya, những nghĩa vụ của nhiều trình độ khác nhau của giáo lý mật tông.

Để đi vào con đường của thành tựunăng lực mật tông, chúng ta phải nhận được quán đảnh. Nhằm duy trì và phát triển trong thực hành mật truyền, chúng ta phải hoàn toàn an trụ nhờ các hỗ trợ tích cực của việc tuân thủ giới luậtkiên định kiềm chế những hành động tiêu cực.

Trong thật tánh mình, tất cả chúng ta là một trong an bìnhtrí tuệ tối thượng. Tuy nhiên, chừng nào chúng ta còn bị kẹt trong khuôn mẫu của một tâm thức nhị nguyên, trong cảm xúc tranh giành, và phiền muộn bất tận, chúng ta phải chọn con đường đúng và gắn bó với nó không thay đổi. Nếu chúng ta trên con đường đúng và đi với kỷ luật của giới nguyện, chúng ta có thể chắc chắn đạt được Phật quả.

Bộ bốn chủ đề kế tiếpgiáo lý về chánh hành Pháp, tập trung chủ yếu vào thiền định Ngondro.

10. “Sự Thiền định của Ngondro: Sự Tu Hành Chủ Yếu của Truyền thống Longchen Nyingthig.” Chủ đề này phác thảo sự thực hành Ngondro. Ngondro nguyên nghĩa là “chuẩn bị”. Tuy nhiên, rèn luyện Ngondro trong thực tế còn xa hơn thực hành chuẩn bị. Nó là một con đường thiết yếu và đầy đủ của rèn luyện thiền định Dzopa Chenpo. Nó khởi đầu bằng phát sinh cảm hứng đến việc rèn luyện tinh thầnkết thúc với sự hợp nhất với hoặc nhận ra bản tánh nội tại của tâm, là Phật tánh mà tất cả chúng ta đều thừa hưởng.

Sự thiền định Ngondro bao gồm các rèn luyện sau:

1. Cầu nguyện đến các vị thầy của dòng truyền để thành tựu thực hành Ngondro.

2. Thực hành chuẩn bị bốn bậc để gợi cảm hứng tâm chúng ta hướng đến Thiền định Giáo Pháp: suy nghĩ về sự quý báu của cuộc sống làm người, sự vô thường của cuộc đời, bản chất đau khổ của thế gian, và nghiệp, chu trình của nhân quả.

3. Rèn luyện thiết yếu bốn bậc: Thọ quy y để cam kết tâm chúng ta đến Giáo Pháp; phát triển tâm giác ngộ để đặt nền tảng của Giáo Pháp trong chúng ta; tịnh hóa qua Vajrasattva để tẩy tịnh khái niệm, cảm xúc, và nghiệp bất tịnh; và cúng dường mandala để tích lũy lực công đức.

4. Thực hành chính trong Ngondro: để nhận ra thế gian như cõi tịnh độ của Đức Guru Rinpoche, hãy cầu nguyện với lòng sùng kính, thực hành rèn luyện sùng kính bảy phần, tụng niệm mantra, tiếp nhận bốn bậc quán đảnh, và thiền định hợp nhất tâm hành giả với tâm giác ngộ của Guru Rinpoche.

5. Kết thúc: hồi hướng công đức đã tích lũy như nguyên nhân hạnh phúcgiác ngộ của tất cả chúng sanh với mọi mong ước tốt đẹp nhất.

Mục đích chính của thiền định Ngondro là nhận ra bản tánh nội tại của tâm bằng việc hợp nhất tâm chúng ta với tâm giác ngộ của Guru Rinpoche qua năng lực sùng kính. Tâm của Guru Rinpoche là sự hợp nhất của tất cả tâm giác ngộ của tất cả chư Phật và các vị thầy tâm linh, chân lý phổ quát. Bản tánh nội tại của tâm là hoàn toàn rộng mở không giới hạn, hoàn toàn nhất như không phân biệt, tánh giác tỉnh thức hoàn toàn không vô minh, và trí tuệ toàn giác không hỗn loạn.

11. “Ý nghĩa của Bài Nguyện Vajra Bảy Dòng đến Guru Rinpoche.” Trong truyền thống Nyingma bài nguyện này được xem là cầu nguyện linh thiêng, tối cao đến Guru Rinpoche. Bảy dòng của nó là trái tim của bài nguyện của thực hành Ngondro. Chủ đề này là tóm tắt của Guru’i Tshig bDun gSol ‘Debs Kyi rNam bShad Padma dKar Po, một luận giảng nổi tiếng về Bài nguyện Vajra bảy dòng do Ngài Mipham Rinpoche (1846-1912) viết, một học giả tinh thông và được tôn vinh của trường phái Nyingma. Nó diễn dịch bài nguyện trong bảy trình độ khác nhau về ý nghĩa bên ngoài và bên trong. Bài nguyện này có thể thực hành như một cầu thỉnh, một chỉ thị dẫn dắt về thiền định, hoặc một kinh nghiệm của việc thành tựu các giai đoạn khác nhau của tu hànhnhận biết mật tông.

12. “Tiếp nhận Bốn Quán đảnh của Thiền định Ngondro.” Tiếp nhận bốn quán đảnh là giai đoạn chót của thực hành thiền định Ngondro. Chủ đề này tổng kết tập hội của tu hành mật tôngthành tựu kết hợp với việc tiếp nhận bốn quán đảnh, sự ban phước năng lực giác ngộ của thân, khẩu, ý, và trí tuệ của Guru Rinpoche. Qua năng lực ban phước này thiền giả nhận biếthoàn thiện nhiều thành tựu mật truyền khác nhau. Thành tựu chót là nhận biết của sự hợp nhất tâm chúng tatâm trí tuệ của Guru Rinpoche, đó là bản tánh bên trong của tâm, chân lý phổ quát.

13. “Một Thiền định Ngắn về Guru Rinpoche, Đức Padmasambhava.” Đây là một hướng dẫn đơn giản và ngắn gọn cho người không có thời gian hay năng lượng đi suốt thực hành Ngondro. Nó là một thiền định sùng kính về Guru Rinpoche, quán tưởng Ngài với những biểu tượng giác ngộ, thấy Ngài như suối nguồn ban phước, và tiếp nhận ban phước trong dạng ánh sáng. Năng lượng tâm linh phát triển qua năng lực của tâm sùng kính, nhận thức tích cực, tấm lòng rộng mở, và tánh giác tỉnh thức chuyển hóa mọi diễn giải thành cầu nguyệnnăng lực trí tuệ giác ngộ của Ngài.

Hai chủ đề cuối liên hệ đến sự kết thúc của thực hành thiền định. Chúng là các hướng dẫn về rèn luyện hậu thiền định liên quan đến việc làm thế nào duy trì một cuộc sống tinh thần, trau dồi kinh nghiệm thiền quán đạt được trong thiền định, và tiếp tục phát triển.

14. “Đánh giá sự Phát triển của Thực hành Pháp.” Chủ đề này bàn về việc làm thế nào ước định sức mạnh tâm linh chúng ta, hồi hướng, những thành tựuđánh giá tiến bộ thực sự trong cuộc sống hàng ngày và trong thiền định của chúng ta. Truớc khi có thể tìm thấy đường ra khỏi thành phố, chúng ta cần biết mình ở đâu.

15. “Một Bài Hát Cầu Nguyện đến vị Lama Tuyệt đối.” Đây là một chuyển dịch bài nguyện ca đến vị Lama tuyệt đối (vị thầy tối thượng), bản tánh nội tại của chính tâm chúng ta, chân lý phổ quát. Bản tánh bên trong của tâm ở đây được nhân cách hóa bằng vị thầy tâm linh của chính hành giả. Đây là một bài nguyện diễn tả sùng kính để mở rộng tâm chúng ta đến trí tuệ Phật, hiện thân Phật, và hành động Phật. Nó là một bài nguyện thiền quán thúc đẩy sự giải thoát căng thẳng của tình cảm và khái niệm, mở rộng đôi mắt và tấm lòng đến bản tánh phổ quát, và hợp nhất toàn bộ hình ảnh chủ thể – đối tượng trong trí tuệ của Phật tánh và tánh quang minh tự nhiên của nó.


LỜI CẢM TẠ

Tôi muốn gửi lòng biết ơn của tôi đến các học viện và bạn bè sau đây, những người đã tử tế góp phần để quyển sách này được hiện diện: Harold Talbott vì sự khéo léo và tận tụy trong việc biên soạn toàn bộ quyển sách; Michael Baldwin và những người bảo trợ của Buddhayana, U.S.A, về sự tài trợ hào phóng của họ cho dự án của tôi trong mười ba năm gần đây; Lydia Segal vì sự giúp đỡ biên soạn của bà với nhiều bài báo; Jonathan Miller, Tenzin và Christina Parsons, Paul Levil, Philip Richman, và Martha Hamilton cho sự chuyển âm và biên soạn lại một số cuộc nói chuyện; David Dvore vì sự kiên định giúp đỡ về vi tính; Victor và Ruby Lam dành căn phòng dễ chịu để sinh hoạt và viết; Bản Tin của Trung tâm Nghiên cứu Tôn Giáo Thế giới của Đại Học Harvard và Nhật báo Tây Tạng của Thư viện các Tác phẩmVăn khố Tây Tạng cho phép sao lại các đề mục ở đây như chương 1 và 8; và Viện Bảo tàng Nghệ thuật Nguyên bản Boston, Học Viện Tabor ở Marion, Mass., và Trung tâm Mahasiddha Nyingmapa ở Hawley, Mass., vì cho phép xuất bản những cuộc nói chuyện được trình bày dưới sự đỡ đầu của họ. Cuối cùng tôi cám ơn Samuel Bercholz và nhân viên của nhà Xuất bản Shambala cho xuất bản quyển sách này với sự quan tâm to lớn, đến Larry Mermelstein vì rất chắt lọc quyển sách với trí tuệ biên soạn vô giá của ông, và đến Kendra Crossen vì sự biên soạn khéo léo một cách chuyên nghiệp cho tác phẩm.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14433)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14144)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39712)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15313)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13881)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13927)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37329)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40059)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14639)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14310)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12656)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14830)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19214)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13795)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42625)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13830)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37258)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12673)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11759)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22544)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12510)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12571)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13059)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13112)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17266)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33244)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14835)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11045)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12454)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11958)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11934)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13131)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51262)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12381)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6615)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30408)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13124)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13328)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30680)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19363)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12478)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11842)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14762)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13193)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13195)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30682)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12041)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11837)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12726)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31899)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29413)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11781)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11748)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10423)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11562)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9641)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9658)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9989)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35400)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10147)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10096)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10044)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9658)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27802)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15495)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9851)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13680)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9844)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9692)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18319)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12044)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9571)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9692)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8712)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8913)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8417)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11481)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31732)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12334)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13319)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8828)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9442)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11937)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9226)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9073)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9665)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29360)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9075)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9101)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33242)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8431)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30605)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31223)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37118)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32254)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9930)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27096)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8449)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19237)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 13012)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant