Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời nói đầu và Lời cảm tạ

05 Tháng Sáu 201300:00(Xem: 9811)
Lời nói đầu và Lời cảm tạ

HÀNH TRÌNH GIÁC NGỘ

Tu tập Phật pháp trong cuộc sống hằng ngày
TULKU THONDUP
Harold Talbort biên soạn - Bản Dịch Việt Ngữ: Tuệ Pháp


LỜI NÓI ĐẦU

Sự rèn luyện cốt lõi nhất trong Phật giáo, và cho chủ đề này trong bất kỳ con đường tâm linh nào đều là “phương tiện thiện xảo”, nhờ đó hành giả có khả năng chuyển hóa mọi khía cạnh cuộc sống hàng ngày của họ thành rèn luyện tâm linh. Rèn luyện tâm linh là những luyện tập làm giải thoát tâm thức khỏi sự bám chấp mãnh liệt và lực khao khát thúc đẩy của chúng ta. Sự rèn luyện tâm linh xoa dịu đau khổ tạo ra bởi quan điểm chật hẹp, cứng rắn và những cảm xúc hỗn loạn, thiêu đốt của chúng ta.

Rèn luyện tâm linh quyết định sự nhận biếtkinh nghiệm của rộng mở, an bình, hoan hỷ, tình thương, và trí tuệ. Nếu tâm tràn đầy tình thương, an bìnhtrí tuệ, thì tâm thứcnăng lượng tâm linh chúng ta sẽ mạnh mẽ. Nếu tâm thứcnăng lượng tâm linh chúng ta mạnh mẽ, các nguyên tố vật chất của thân thể trở nên mạnh khỏe và các sự kiện trong cuộc sống chúng ta trở nên tích cực. Vì lẽ đó, nếu năng lượng tâm thức mạnh mẽ, tâm chúng ta sẽ tự nhiên an bìnhhoan hỷ hơn. Những ngày của toàn bộ cuộc đời sẽ trôi chảy trong một chu trình thực sự hạnh phúc. Như Ngài Dodrupchen Rinpoche đệ tam viết:

Khi tâm không rối loạn, năng lượng của bạn sẽ không nhiễu loạn và nhờ đó các nguyên tố khác của thân cũng sẽ không hỗn loạn. Do vậy tâm bạn sẽ không bị rối loạn và bánh xe hoan hỷ sẽ liên tục quay.

Có hai cách quan trọng để chuyển hóa cuộc sống hàng ngày thành sự rèn luyện. Thứ nhất, nếu bạn đã nhận biết trí tuệ siêu vượt tâm thức ý niệm, hoặc thậm chí nếu chưa siêu vượt được tâm thức ý niệm nhưng có kinh nghiệm tâm linh hùng mạnh như lòng bi, sùng kính, hay thiền định, thì bạn có thể hợp nhất hay chuyển hóa mọi hình tướngkinh nghiệm thành một hỗ trợ cho năng lượng của trí tuệ nhận biếtkinh nghiệm tâm linh.

Với những bậc đại tinh thông, mọi hình tướng của hiện tượng đều trở thành sự diễn tả của tự thân trí tuệ nội tại của họ. Tất cả hình tướng trở thành năng lực của giác ngộ, giống như ánh sáng mặt trời vỗ về những bông hoa hạnh phúc nở rộ trong lòng của tất cả những gì xung quanh.

Thứ hai, với người bình thường như chúng ta, tâm thức là khái niệm, cảm xúc và chưa nhận biết thì điều cốt lõidựa vào bất cứ phương tiện thiện xảo nào – các hình ảnh tâm linh, dấu hiệu, âm thanh, hay nguồn năng lượng tích cực – như phương tiện phát triển năng lượng tâm linh. Nếu có thể thấy các đối tượng chung quanh như một nguồn cảm hứngan bình, chúng sẽ phát sinh an bìnhhạnh phúc trong chúng tanăng lực của nhận thức chính mình.

Tương tự như vậy, chúng ta không thể chuyển hóa hoàn cảnh tiêu cực thành tích cực nếu thấy chúng là tiêu cựcphản ứng chúng với cảm xúc tiêu cực. Chừng nào còn giữ nhận thức tiêu cực, nhìn hoàn cảnh chúng ta qua bóng tối, thì toàn bộ thế gian sẽ xuất hiện tiêu cực, và mọi nỗ lực của chúng ta sẽ là một đấu tranh không bao giờ hết. Do vậy, chúng ta nên đặt nền tảng của an bìnhhoan hỷ thật sự trong tâm bằng việc phát triển phương tiện thiện xảo của rèn luyện tâm linh, không cố gắng né tránh nghịch cảnh. Như Ngài Shantideva (Tịch Thiên) giảng giải:2

Kẻ thù thì vô hạn như không gian (trải rộng)
Không thể chiến thắng tất cả chúng.
Tuy nhiên, nếu bạn chỉ chiến thắng tư tưởng thù hận,
Sẽ ngang bằng với việc chiến thắng mọi kẻ thù
Ở đâu có tấm da
Có thể che phủ cả trái đất?
Nhưng mang một dép da
Thì tương đương với việc bao phủ cả trái đất bằng da.

Quyển sách này bao gồm mười lăm bài báo và bản ghi chép các cuộc nói chuyện đã được xuất bản. Được chia thành hai phần: một dẫn nhập vào con đường của đạo Phật và một thảo luận về thực hành thiền định. Cốt tủy của sách này là điều khoản về thực hành thiền định Ngondro, sự rèn luyện cốt yếu của truyền thống Longchen Nyingthig của Phật giáo Tây Tạng. Ngondro tiêu biểu cho một tiến trình rèn luyện đầy đủ, khởi đầu với việc gợi cảm hứng tâm hành giả đến Giáo Phápkết thúc với việc hợp nhất tâm hành giả với tâm giác ngộ của đức Phật, sự giác ngộ phổ quát. Những đề mục khác đề cập đến các hướng dẫn hoặc tài liệu trợ giúp cùng nhau tạo thành một cẩm nang về việc làm sao chuyển những kinh nghiệm khác nhau mà chúng ta gặp, dù là hiện tượng bên ngoài hay bên trong, thành cái thấy tâm linh, tự chủ, và kinh nghiệm.

Phần Một bao gồm sáu chủ đề. Chúng tạo nên sự giới thiệu đến cái thấy tâm linh, văn hóa, và cuộc sống, là phương tiện quan trọng của việc chuyển hóa cuộc sống của thân, tâm chúng ta thành tu hành Giáo Pháp.

1. “Sử dụng cuộc Sống hàng Ngày như sự Thực hành Giáo Pháp.” Chủ đề này tổng kết một số nguyên lý nền tảng của Phật giáochúng ta là ai và tại sao có thể chuyển cuộc sống hàng ngày của chúng ta thành tu hành tâm linhnhận ra Phật tánh, trạng thái của an bìnhtrí tuệ vô thượng.

Nếu đi theo con đường đúng của tu hành tâm linh, chúng ta có thể chiến thắng mọi đau khổ của cuộc sống, đó chỉ là những ảo tưởng của tâm thức lừa gạt, và giống như người nằm mơ thức dậy từ một ác mộng. Bản tánh toàn giác là tự phát trong chúng ta, vì trong thật tánh mình chúng ta là tất cả chư Phật. Đau khổ là phó phẩm của tâm thức khái niệm chấp bám vào “bản ngã” của chúng ta, được khích động bởi sự gây hấn, tham lam, và hỗn loạn. Rèn luyện trong nhiều thiền định khác nhau như nhẫn nhụcthái độ làm lợi ích người khác sẽ an định những khái niệm và cảm xúc tiêu cực, và cùng lúc phát sinh an bình, hoan hỷ, và trí tuệ trong chúng ta.

2. “Mở rộng Tâm với lòng Bi mẫn.” Lòng bi là thái độ quan tâm, một sự rộng mở của tâm thức. Nó cũng là năng lực toàn giác của Phật Tánh. Chủ đề này giải nghĩa trong những lời đơn giản về lòng bi là gì và làm sao chúng ta có thể phát triển nó. Lòng bi mẫn như một thiền định không chỉ phát triển an bìnhhòa hợp, mà còn đánh thức Phật Tánh trong chúng ta. Sự giới thiệu về lòng bi này minh họa thêm loại kết quả gì chúng ta có thể trông chờ từ nhiều rèn luyện tâm linh khác nhau, như sự sùng kính, nhận thức thanh tịnh, và thiền quán.

3. “Một Hành trình Tâm linh trong một Cuộc Sống Hỗn loạn.” Dùng cuộc sống hỗn loạn của tôi như một minh họa, giáo lý sâu sắc của Phật giáo được trình bày. Bằng cách ban cho tôi sức mạnh để chịu đựng những tai ươngcảm xúc phá hoại xảy đến với tôi và nhiều người khác, giáo lý đạo Phật trở thành phương tiện duy nhất của sự sống còn của tôi trong một thế giới hỗn loạn. Nếu bạn biết cách thì đau khổ có thể trở thành một công cụ hùng mạnh hơn hạnh phúc trong việc chuyển hóa cuộc sống thành con đường giác ngộ.

4. “Công cụ của đạo Phật là sự Hỗ trợ của Nhận biết Tâm linh.” Hãy sử dụng một hình ảnh của Đức Avalokiteshvara như một ví dụ, chủ đề này giải thích ý nghĩa biểu tượng của công cụ tâm linh như một nguồn của cảm hứng, giảng dạy, và năng lực. Nếu chúng ta khéo léo hiểu được nhiều công cụ khác nhau như các biểu tượng tâm linh và suối nguồn của năng lực, thì sẽ đến lúc khi mọi hiện tượng, không chỉ các công cụ tâm linh, sẽ xuất hiện trước chúng ta như hình ảnh của giáo lý và sự nhận biết của an bình, hoan hỷ, và trí tuệ.

Nó dễ dàng cho người bình thường chúng ta sử dụng các đối tượng có ý nghĩa tâm linh trực tiếp và năng lực như một phương tiện của cảm hứng hơn là dùng các đối tượng khác. Các đối tượng có ý nghĩa tâm linh trực tiếp và năng lực bao gồm các bức họa tôn giáo, tượng, đền chùa, kinh sách, vị thầy, thiền giả, và những nơi thiêng liêng.

5. “Các Thangka Phật giáo Tây TạngÝ nghĩa Tôn giáo của Nó.” Chủ đề này phác thảo những nét chính các bức họa Phật giáo Tây Tạng của nhiều truyền thống khác nhau, với một nhấn mạnh về ý nghĩa tôn giáo của chúng.

Với người có khuynh hướng tâm linh, nghệ thuật tôn giáo trong nhiều tướng hiền minh và phẫn nộ là một công cụ hùng mạnh để phát triển và làm mạnh mẽ kinh nghiệm tâm linh với nhiều sự diễn tả khác nhau của hiện tượng. Với người đã giác ngộ, nghệ thuật tâm linhnăng lực, ánh sáng, và năng lượng, sự trải rộng của an bình, sức mạnhtrí tuệ bên trong của họ. Nghệ thuật cũng có thể là tự thân trí tuệ xuất hiện trong dạng hình ảnh của năng lựcbiểu tượng của giáo lý. Thế nên, nghệ thuật tâm linh là một phương tiện quan trọng để chuyển nhận thức của hiện tượng thành sự nhận biết của an bình, sức mạnh, và trí tuệ.

6. “Chuẩn bị cho Bardo: Các Giai đoạn của Cận Tử và Sau Khi Chết.” Chủ đề này giải thích chi tiết toàn bộ tiến trình cận tử từ lúc cái chết bắt đầu đến những gì xảy ra sau khi chết. Dựa căn bản trên kinh điển mật tông (tantra) của Phật giáo Tây Tạng, đặc điểm chính của chương này liên quan đến rất nhiều giai đoạn trong lúc sống và cận tử, với giáo lý về việc chúng ta nên thấy và kinh nghiệm mỗi bước như thế nào.

Cái chết là một thời điểm trọng yếu nhất cho mỗi người chúng ta, một cơ hội then chốt ảnh hưởng đến tương lai. Khi chết, tất cả chúng ta, giàu hay nghèo, đều chờ đợi kết quả giống nhau. Vào lúc chết, chẳng còn bạn bè, quyền lực, tiền bạc, ngay cả chính thân thể yêu mến chúng ta lại có thể đến trợ giúp được. Chỉ có thói quen, và năng lượng – karma – đã tồn trữ trong tâm thức sẽ tạo ra kết quả của cuộc sống kế tiếp, những kinh nghiệm tương lai của chúng ta. Do vậy, để chuẩn bị cho cái chết, chiến lược quan trọng nhất của chúng tađạt được sự hiểu biếtkinh nghiệm tâm linh trong lúc vẫn còn sống. Khi cái chết đến, việc khóc lóc cầu cứu là quá trễ.

Phần Hai bao gồm chín đề mục, tập trung chủ yếu là sự thiền định của Ngondro, sự rèn luyện thiết yếu trong Dzogpa Chenpo (“Đại Viên Mãn”), theo dòng truyền của truyền thống Longchen Nyingthig.

Ba đề mục đầu tiên là sự giới thiệu đến thực hành Ngondro. Trình bày một lịch sử tóm tắt của trường phái Nyingma và một phác thảo chính của truyền thống Ter qua đó Ngondro được phát hiện và đến với chúng ta.

7. “Trường phái Nyingma của Phật Giáo Tây Tạng.” Nyingma hay Nyingmapa (“Cổ Mật”) là trường phái cổ nhất của bốn trường phái chính của Phật giáo Tây Tạng. Đặc điểm chính của đề mục này tượng trưng độc nhất của trường phái Nyingma trong văn học, tinh thần, và lịch sử xã hội của Tây Tạng. Longchen Nyingthig mà Ngondro đặc biệt này thuộc về là một trong các dòng truyền lỗi lạc của trường phái Nyingma.

8. “Truyền thống Terma của Trường phái Nyingma.” Ter hay Terma có nghĩa “các kho tàng ẩn dấu.” Đó là các đối tượng tinh thần, giáo lý, và trao truyền được chôn dấu và phát hiện qua năng lực giác ngộ huyền bí của các bậc đại tinh thông. Trường phái Nyingma là truyền thống đạo Phật phong phú nhất về mặt giáo lý chôn dấu như Ter. Chủ đề này tổng kết những bộ Ter khác nhau được phát hiện: giáo lý Ter Đất (Sa gTer), Ter Tâm (dGong gTer), và Kiến Thanh Tịnh (Dag sNang). Nó trình bày đầy đủ chi tiết tiến trình giáo lý được chôn dấu và phát hiện sau đó. Giáo lý Longchen Nyingthig được Ngài Jigmed Lingpa (1729-1798) phát hiện là một Ter Tâm.

9. “Các Quán đảnhGiới Luật của Tu Hành Mật Tông.” Có hai phương diện: quán đảnh (Tạng, dBang, Phạn, abhisheka) và các giới luật (Tạng, Dam Tshig, Phạn, samaya). Quán đảnh là lối vào của rèn luyện tantric hay mật truyền. Người khao khát nhận được điều này từ một vị thầy mật tông để đưa chính họ vào nhập môn. Sự quán đảnh cũng có thể được tái tiếp nhận như sự rèn luyện trong con đường. Chúng cũng có thể được tiếp nhận như thành tựu rốt ráo.

Giới luật là nguyện, cam kết, nối kết, hoặc kết quả trong mật tông hay tu hành tantric. Chủ đề này cung cấp một tổng quan toàn diện về samaya, những nghĩa vụ của nhiều trình độ khác nhau của giáo lý mật tông.

Để đi vào con đường của thành tựunăng lực mật tông, chúng ta phải nhận được quán đảnh. Nhằm duy trì và phát triển trong thực hành mật truyền, chúng ta phải hoàn toàn an trụ nhờ các hỗ trợ tích cực của việc tuân thủ giới luậtkiên định kiềm chế những hành động tiêu cực.

Trong thật tánh mình, tất cả chúng ta là một trong an bìnhtrí tuệ tối thượng. Tuy nhiên, chừng nào chúng ta còn bị kẹt trong khuôn mẫu của một tâm thức nhị nguyên, trong cảm xúc tranh giành, và phiền muộn bất tận, chúng ta phải chọn con đường đúng và gắn bó với nó không thay đổi. Nếu chúng ta trên con đường đúng và đi với kỷ luật của giới nguyện, chúng ta có thể chắc chắn đạt được Phật quả.

Bộ bốn chủ đề kế tiếpgiáo lý về chánh hành Pháp, tập trung chủ yếu vào thiền định Ngondro.

10. “Sự Thiền định của Ngondro: Sự Tu Hành Chủ Yếu của Truyền thống Longchen Nyingthig.” Chủ đề này phác thảo sự thực hành Ngondro. Ngondro nguyên nghĩa là “chuẩn bị”. Tuy nhiên, rèn luyện Ngondro trong thực tế còn xa hơn thực hành chuẩn bị. Nó là một con đường thiết yếu và đầy đủ của rèn luyện thiền định Dzopa Chenpo. Nó khởi đầu bằng phát sinh cảm hứng đến việc rèn luyện tinh thầnkết thúc với sự hợp nhất với hoặc nhận ra bản tánh nội tại của tâm, là Phật tánh mà tất cả chúng ta đều thừa hưởng.

Sự thiền định Ngondro bao gồm các rèn luyện sau:

1. Cầu nguyện đến các vị thầy của dòng truyền để thành tựu thực hành Ngondro.

2. Thực hành chuẩn bị bốn bậc để gợi cảm hứng tâm chúng ta hướng đến Thiền định Giáo Pháp: suy nghĩ về sự quý báu của cuộc sống làm người, sự vô thường của cuộc đời, bản chất đau khổ của thế gian, và nghiệp, chu trình của nhân quả.

3. Rèn luyện thiết yếu bốn bậc: Thọ quy y để cam kết tâm chúng ta đến Giáo Pháp; phát triển tâm giác ngộ để đặt nền tảng của Giáo Pháp trong chúng ta; tịnh hóa qua Vajrasattva để tẩy tịnh khái niệm, cảm xúc, và nghiệp bất tịnh; và cúng dường mandala để tích lũy lực công đức.

4. Thực hành chính trong Ngondro: để nhận ra thế gian như cõi tịnh độ của Đức Guru Rinpoche, hãy cầu nguyện với lòng sùng kính, thực hành rèn luyện sùng kính bảy phần, tụng niệm mantra, tiếp nhận bốn bậc quán đảnh, và thiền định hợp nhất tâm hành giả với tâm giác ngộ của Guru Rinpoche.

5. Kết thúc: hồi hướng công đức đã tích lũy như nguyên nhân hạnh phúcgiác ngộ của tất cả chúng sanh với mọi mong ước tốt đẹp nhất.

Mục đích chính của thiền định Ngondro là nhận ra bản tánh nội tại của tâm bằng việc hợp nhất tâm chúng ta với tâm giác ngộ của Guru Rinpoche qua năng lực sùng kính. Tâm của Guru Rinpoche là sự hợp nhất của tất cả tâm giác ngộ của tất cả chư Phật và các vị thầy tâm linh, chân lý phổ quát. Bản tánh nội tại của tâm là hoàn toàn rộng mở không giới hạn, hoàn toàn nhất như không phân biệt, tánh giác tỉnh thức hoàn toàn không vô minh, và trí tuệ toàn giác không hỗn loạn.

11. “Ý nghĩa của Bài Nguyện Vajra Bảy Dòng đến Guru Rinpoche.” Trong truyền thống Nyingma bài nguyện này được xem là cầu nguyện linh thiêng, tối cao đến Guru Rinpoche. Bảy dòng của nó là trái tim của bài nguyện của thực hành Ngondro. Chủ đề này là tóm tắt của Guru’i Tshig bDun gSol ‘Debs Kyi rNam bShad Padma dKar Po, một luận giảng nổi tiếng về Bài nguyện Vajra bảy dòng do Ngài Mipham Rinpoche (1846-1912) viết, một học giả tinh thông và được tôn vinh của trường phái Nyingma. Nó diễn dịch bài nguyện trong bảy trình độ khác nhau về ý nghĩa bên ngoài và bên trong. Bài nguyện này có thể thực hành như một cầu thỉnh, một chỉ thị dẫn dắt về thiền định, hoặc một kinh nghiệm của việc thành tựu các giai đoạn khác nhau của tu hànhnhận biết mật tông.

12. “Tiếp nhận Bốn Quán đảnh của Thiền định Ngondro.” Tiếp nhận bốn quán đảnh là giai đoạn chót của thực hành thiền định Ngondro. Chủ đề này tổng kết tập hội của tu hành mật tôngthành tựu kết hợp với việc tiếp nhận bốn quán đảnh, sự ban phước năng lực giác ngộ của thân, khẩu, ý, và trí tuệ của Guru Rinpoche. Qua năng lực ban phước này thiền giả nhận biếthoàn thiện nhiều thành tựu mật truyền khác nhau. Thành tựu chót là nhận biết của sự hợp nhất tâm chúng tatâm trí tuệ của Guru Rinpoche, đó là bản tánh bên trong của tâm, chân lý phổ quát.

13. “Một Thiền định Ngắn về Guru Rinpoche, Đức Padmasambhava.” Đây là một hướng dẫn đơn giản và ngắn gọn cho người không có thời gian hay năng lượng đi suốt thực hành Ngondro. Nó là một thiền định sùng kính về Guru Rinpoche, quán tưởng Ngài với những biểu tượng giác ngộ, thấy Ngài như suối nguồn ban phước, và tiếp nhận ban phước trong dạng ánh sáng. Năng lượng tâm linh phát triển qua năng lực của tâm sùng kính, nhận thức tích cực, tấm lòng rộng mở, và tánh giác tỉnh thức chuyển hóa mọi diễn giải thành cầu nguyệnnăng lực trí tuệ giác ngộ của Ngài.

Hai chủ đề cuối liên hệ đến sự kết thúc của thực hành thiền định. Chúng là các hướng dẫn về rèn luyện hậu thiền định liên quan đến việc làm thế nào duy trì một cuộc sống tinh thần, trau dồi kinh nghiệm thiền quán đạt được trong thiền định, và tiếp tục phát triển.

14. “Đánh giá sự Phát triển của Thực hành Pháp.” Chủ đề này bàn về việc làm thế nào ước định sức mạnh tâm linh chúng ta, hồi hướng, những thành tựuđánh giá tiến bộ thực sự trong cuộc sống hàng ngày và trong thiền định của chúng ta. Truớc khi có thể tìm thấy đường ra khỏi thành phố, chúng ta cần biết mình ở đâu.

15. “Một Bài Hát Cầu Nguyện đến vị Lama Tuyệt đối.” Đây là một chuyển dịch bài nguyện ca đến vị Lama tuyệt đối (vị thầy tối thượng), bản tánh nội tại của chính tâm chúng ta, chân lý phổ quát. Bản tánh bên trong của tâm ở đây được nhân cách hóa bằng vị thầy tâm linh của chính hành giả. Đây là một bài nguyện diễn tả sùng kính để mở rộng tâm chúng ta đến trí tuệ Phật, hiện thân Phật, và hành động Phật. Nó là một bài nguyện thiền quán thúc đẩy sự giải thoát căng thẳng của tình cảm và khái niệm, mở rộng đôi mắt và tấm lòng đến bản tánh phổ quát, và hợp nhất toàn bộ hình ảnh chủ thể – đối tượng trong trí tuệ của Phật tánh và tánh quang minh tự nhiên của nó.


LỜI CẢM TẠ

Tôi muốn gửi lòng biết ơn của tôi đến các học viện và bạn bè sau đây, những người đã tử tế góp phần để quyển sách này được hiện diện: Harold Talbott vì sự khéo léo và tận tụy trong việc biên soạn toàn bộ quyển sách; Michael Baldwin và những người bảo trợ của Buddhayana, U.S.A, về sự tài trợ hào phóng của họ cho dự án của tôi trong mười ba năm gần đây; Lydia Segal vì sự giúp đỡ biên soạn của bà với nhiều bài báo; Jonathan Miller, Tenzin và Christina Parsons, Paul Levil, Philip Richman, và Martha Hamilton cho sự chuyển âm và biên soạn lại một số cuộc nói chuyện; David Dvore vì sự kiên định giúp đỡ về vi tính; Victor và Ruby Lam dành căn phòng dễ chịu để sinh hoạt và viết; Bản Tin của Trung tâm Nghiên cứu Tôn Giáo Thế giới của Đại Học Harvard và Nhật báo Tây Tạng của Thư viện các Tác phẩmVăn khố Tây Tạng cho phép sao lại các đề mục ở đây như chương 1 và 8; và Viện Bảo tàng Nghệ thuật Nguyên bản Boston, Học Viện Tabor ở Marion, Mass., và Trung tâm Mahasiddha Nyingmapa ở Hawley, Mass., vì cho phép xuất bản những cuộc nói chuyện được trình bày dưới sự đỡ đầu của họ. Cuối cùng tôi cám ơn Samuel Bercholz và nhân viên của nhà Xuất bản Shambala cho xuất bản quyển sách này với sự quan tâm to lớn, đến Larry Mermelstein vì rất chắt lọc quyển sách với trí tuệ biên soạn vô giá của ông, và đến Kendra Crossen vì sự biên soạn khéo léo một cách chuyên nghiệp cho tác phẩm.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11396)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
(Xem: 11559)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13559)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14129)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10313)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10792)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11342)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11287)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11443)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10178)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9970)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10718)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11321)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42233)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10494)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11866)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10024)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10468)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10640)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45794)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32131)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11338)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10708)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11335)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10638)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13462)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12383)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11048)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10630)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12333)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11178)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11852)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29290)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9222)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10555)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10247)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10600)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10912)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10813)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32164)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27412)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17814)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11883)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12293)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10449)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11705)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10439)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10795)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28097)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10164)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10292)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10659)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10775)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11237)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10404)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10697)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11481)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18272)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10531)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12859)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11757)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29211)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28615)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28312)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13333)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22792)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13449)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11585)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13832)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25737)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26092)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22327)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14493)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12077)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11816)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11694)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11497)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33208)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31860)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12045)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39644)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22511)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11966)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14249)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13353)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14310)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12077)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10416)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11239)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13332)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34547)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12636)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12239)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13536)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12631)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12990)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16313)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11761)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27405)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28444)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant