Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ngày Xuân Mượn Một Bài Thơ Của Vương Duy Để Tặng Những Người Xa Quê Hương

01 Tháng Hai 201400:00(Xem: 13343)
Ngày Xuân Mượn Một Bài Thơ Của Vương Duy Để Tặng Những Người Xa Quê Hương

Ngày Xuân Mượn Một Bài Thơ Của Vương Duy
Để Tặng Những Người Xa Quê Hương


Hoang Phong

mai_tet Ngày Tết là một dịp để trở về với gia đình, với bè bạn, với làng xóm, với quê hương, và nếu mở rộng lòng mình hơn nữa thì ngày Tết cũng là một dịp để quay về với kỷ niệm, với tuổi thơ, với một vài quãng đời xa xưa nào đó vẫn còn in đậm trong tâm thức mình. Dù xa quê thế nhưng nơi đất khách mỗi độ xuân về, hoa vẫn nở, thời gian vẫn trôi.... Nhìn những cánh hoa "xa lạ" ấy những kẻ xa quê sao tránh được một niềm nhớ nhung nào đó thoáng hiện trong lòng mình. Vì thế cũng xin mượn một bài thơ xưa của một thi nhân thời Đường, sống cách nay đã hơn mười ba thế kỷ để tặng những người "lưu lạc" hôm nay.

 Bài thơ không có tựa, được tác giả xếp vào loại "tạp thi". Chữ tạp trong tiếng Hán có nghĩa tạp nhạp, hỗn tạp..., nói lên một cái gì đó không có giá trị nhiều. Thế nhưng chữ tạp cũng có nghĩa là phức tạp hay rắc rối, có nghĩa là khó nói ra. Có thể là vì lý do này mà Vương Duy không sao tìm được một cái tựa thích hợp cho bài thơ của mình, hoặc cũng có thể là tác giả đã cố tình không hé lộ ý nghĩa của bài thơ qua một cái tựa nào cả, mà cứ để cho người đọc tự tìm hiểu lấy? Vương Duy là một thi nhân vô cùng kín đáo, vậy nhân ngày đầu xuân chúng ta hãy thử tìm hiểu xem ông muốn gửi gấm điều gì trong bài "tạp thi" thật ngắn của ông.

 Bài thơ như sau:

  雜詩   Tạp Thi  
 君自故鄉來 Quân tự cố hương lai, 
 應知故鄉事 Ưng tri cố hương sự. 
 來日綺窗前 Lai nhật ỷ song tiền, 
 寒梅著花未 Hàn mai trước hoa vị.

 Dịch nghĩa:

 Tạp thi

 Này người quân tử từ quê lên,
 Ắt rõ chuyện quê nhà.
 Hôm đi ngang chiếc cửa sổ che tấm màn the,
 Có thấy gốc mai của những ngày đông giá đã trổ hoa chưa?

Bài thơ khá giản dị và cũng đã được nhiều người dịch. Chỉ xin đơn cử một vài bài tiêu biểu sau đây:

 Tạp Thi

Ở quê anh mới tới đây,
Việc quê anh biết đổi thay thế nào.
Hôm đi, trước cửa buồng thêu,
Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?

Trần Trọng Kim dịch

 Tạp Thi

Nghe tin bác ở quê ra,
Em sang hỏi chút chuyện nhà xem sao.
Nhà em mé cổng bước vào,
Gốc mai nay đã nụ nào hay chưa?

Thu Tứ dịch

  Tạp Thi

Vừa hay Bác ở quê ra
Việc Quê hẳn Bác rành mà…” sáu câu” 
Trước song ngày lại sắc màu ?... 
Hàn mai đà nở ? đùa nhau;…mấy cành

Lại Quang Nam dịch  

 Tất nhiên bài thơ này của Vương Duy cũng đã được dịch sang các ngôn ngữ Tây Phương, và chỉ xin trích ra đây hai bài bằng tiếng Anh:

Random Poem

You also come from my home town,
You must know all the home town news.
At dawn, before the silken window,
Is it too cold for plum blossom to show?

(Trích trong: The World's Poetry Archive, Classic Poetry Series, 2004, Wang Wei poems, tr. 38)

 Lines

You who have come from my old country,
Tell me what has happened there ! –
Was the plum, when you passed my silken window,
Opening its first cold blossom?

Witter Bynner dịch

(xin lưu ý là các chữ in đậm không được trung thực lắm với ý nghĩa trong bài thơ gốc)

 Trong số các bản tiếng Việt tham khảo thì có lẽ bản dịch của cụ Trần Trọng Kim là tương đối "khá gần" với ý tứ và xúc cảm trong bài thơ của Vương Duy. Dầu sao nếu dùng thể thơ lục bát để dịch thơ Đường thì thường là không được thích hợp lắm, bởi vì nhạc và vần của lục bát quá khác biệt với âm hưởng tạo ra bằng cách đối âm và đối chữ trong các thể thơ Đường, do đó rất khó để chuyển tải một cách trung thực xúc cảm trong các thể thơ này. Tuy nhiên hai câu thơ cuối cũng trên đây cũng đã được cụ Trần Trọng Kim dịch rất khéo, tuy không làm nổi bật được ý mà Vương Duy muốn nói lên.

 Bản dịch tiếng Anh thứ nhất trên đây dịch tựa là "Bài thơ ngẫu hứng" thật khéo. Thế nhưng hai câu thơ cuối thì lại hoàn toàn "lạc đề":

 ...
  Lúc hừng đông, trước cửa sổ màn the,
 Phải chăng trời còn quá lạnh để gốc mận có thể đơm hoa?


 Bản tiếng Anh thứ hai dịch tựa là "Vài hàng" và hai câu cuối là:
 ...
  Khi đi ngang cửa sổ che tấm màn the của nhà tôi,
 Bạn có thấy gốc mận đã trổ những cánh hoa lạnh đầu mùa hay chưa?

 Trong tất cả các bản dịch đã được tham khảo, tiêu biểu là các bản trên đây, đều cho thấy ý nghĩa của hai câu cuối không "thống nhất" với nhau, thế nhưng đấy lại là hai câu quan trọng nhất của cả bài thơ. Cũng xin nêu thêm một chi tiết nhỏ là cây mai ở đây có nghĩa là cây mơ hay cây mận (prunier / plum tree), bởi vì ở các vùng ôn đới không có cây mai vàng như ở miền Nam Việt Nam. Dầu trong trường hợp nào thì đấy cũng là một loại cây có hoa nở rộ vào mùa xuân.

 Trở lại với ý của toàn bài thơ thì thật ra cũng chẳng có gì là bí hiểm lắm. Hai chữ song trong câu 3 (Lai nhật ỷ song tiền) giúp chúng ta có thể đoán được ý mà Vương Duy muốn nêu lên. Chữ có nghĩa là vải the hay tấm lụa thêu, và cũng có nghĩa là đẹp. Chữ nghĩa tương đương với chữ sa, là một loại lụa mỏng hay vải thưa. Chữ song có nghĩa là cửa sổ, trong Kiều có câu: "Gương nga chênh chếch dòm song" (câu 173). Nếu đem ghép hai chữ songsa với nhau thì có nghĩa là chiếc cửa sổ che lụa mỏng hay the, tức là phòng của một người con gái. Trong Kiều có câu: "Song sa vò võ phương trời, Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng" (câu 1267 và 1268) nói lên sự mong chờ của Thuý Kiều. Hai chữ hàn mai có thể hiểu là gốc mai hay cành mai giữa mùa đông chưa đơm hoa trổ lá, thế nhưng theo nghĩa bóng thì cũng có thể hiểu cành mai lạnh là một cô bé ngây thơ và vô tư chưa biết rung cảm là gì. Đây là một cách so sánh mang tính cách ẩn dụ.

 Cách phân tích ý nghĩa của từng chữ trên đây cho thấy thật hết sức rõ ràngVương Duy có ý hỏi người ở quê lên là "người con gái ấy nay thế nào, khi xưa lúc mình ra đi thì cô bé vẫn còn thơ dại, ngày nay đã dậy thì và trổ mã hay chưa?". Biết đâu Vương Duy cũng đã ghé vào tai hỏi nhỏ người quen ở quê lên để hỏi về chuyện này, vì thế nên bài thơ cũng chỉ thuộc vào loại "tạp thi".

 Ngoài ra bài thơ của Vương Duy còn mang một ý nghĩa phụ nữa, đấy là người ra đi đã lâu ngày và chưa lần nào trở lại quê nhà. Thật vậy ngày xưa ra đi cũng khó, mỗi lần trở về cũng không phải dễ. Đường xá hiểm trở, phải đi bộ, dùng ngựa, thuyền, hay ghe, không những gian nan mà còn sợ cả tai nạn xảy ra và cả các bọn cướp đường. Ngày nay tuy phương tiện tân tiến hơn thế nhưng đôi khi cũng vì những lý do khác mà mình chưa có dịp trở về cố hương. Ngày xuân nơi quê người chợt nhớ đến kỷ niệm của những ngày xưa năm cũ, nên cứ hễ gặp được ai quen vừa từ quê sang chơi thì hay hỏi chuyện quê nhà. Chỉ tiếc rằng trong bài thơ không thấy Vương Duy hỏi han gì đến cha mẹ hay bạn bè, mà chỉ thắc mắc về cô bé hàng xóm bên cửa sổ sau chiếc màn the.

 Sau đây cũng xin mạn phép tạm dịch bài "tạp thi" của Vương Duy như sau:

Ngẫu hứng

Này người khách đến, cố hương xa,
Đôi lời han hỏi chuyện quê nhà.
Có thấy màn the bên song cửa,
Mai lạnh ngày xưa đã trổ hoa?
30.01.14

 Trên đây chỉ là vài lời phỏng đoán ý nghĩa của vài dòng "tạp thi" của một thi nhân thời Đường, nhằm gửi tặng những người "lưu lạc". Thế nhưng riêng đối với những người tu tập Phật Giáo thì có nên rung đùi bên tách trà thơm mà hồi tưởng lại những chuyện quá khứ đại loại như thế hay không?

 Thật vậy cũng có những người biết nhìn thẳng vào hiện thực dưới một góc cạnh khác hơn. Người con gái ngày xưa biết đâu hôm nay đang tay bồng tay dắt, đầu tắt mặt tối, Tết nhất đến nơi, lu bu mua sắm cho ba ngày Tết. Thế nhưng cũng biết đâu: đứa thì khóc, đứa thì la, ngược xuôi chạy nợ... Nếu nhìn bao quát hơn thì chúng ta tất sẽ thấy vô thường không những chỉ vận hành trong bối cảnh bên ngoài như trên đây mà còn tác động trên thân xác và cả bên trong tâm thức của mỗi con người chúng ta nữa. Người con gái e thẹn ngày xưa và cả chính mình trước đây không còn nữa. Mỗi con người đều liên tục biến đổi tùy thuộc vào nghiệp và bản năng thúc đẩy mình. Nếu ngồi mơ màng tưỏng nhớ đến bóng dáng một cô bé thấp thoáng sau tấm màn thưa thì đấy chỉ là cách cho thấy mình rơi ra bên ngoài hiện thực.

 Tuy nhiên cũng có một số người có thể quán thấy xa hơn thế nữa, họ vượt lên cả những biểu hiện của vô thường để nhìn thấy bản chất đích thật của mọi hiện tượng. Chỉ cần giới hạn trong lãnh vực văn chương cũng đủ để thấy rằng thi phú cũng chỉ là ngôn từ, và ngôn từ thì cũng chỉ là quy ước. Một bài thơ gồm một số ngôn từ sắp xếp theo một quy luật nào đó cũng chỉ nhằm gợi lên một số xúc cảm để tự đánh lừa mình và đánh lừa người khác. Chẳng phải là rung đùi để thưởng thức bài thơ trên đây cũng chỉ là một cách tự tách rời mình ra bên ngoài hiện thực hay sao?

 Tuy nhiên thi phú dưới một khía cạnh nào đó cũng có thể xem như một phương tiện hay một công cụ tận dụng sức mạnh của xúc cảm để hướng tư duy theo một chiều hướng mà mình mong muốn. Nếu là người tu tập, và dù mình là người làm thơ hay thưởng thức thơ, thì cũng nên ý thức điều này để không rơi ra bên ngoài con đường mà mình đang bước đi.

 Vương Duy làm quan dưới triều vua Đường Huyền Tông, thế nhưng sau khi An Lộc Sơn đánh chiếm Trường An thì ông không bỏ trốn theo Đường Huyền Tông. An Lộc Sơn bắt ép ông trở ra làm quan, và chỉ được một thời gian sau thì ông xin rút lui vì bất mãn. Khi Đường Huyền Tông khôi phục lại ngai vàng thì đáng lý ra ông phải tội phản, thế nhưng nhờ người em là Vương Tấn làm quan to nên xin tha cho ông và sau đó lại được làm quan trở lại. Người ta cho rằng đến lúc tuổi già thì ông bắt đầu chán ngán lợi danh nên đã tu thiền.

 Ngoài ra cũng xin kể thêm trường hợp của nhà thơ Tô Đông Pha (1037-1101). Người ta thường ca ngợi các bài "thơ thiền" thật tuyệt vời của ông. Thế nhưng ông cũng chỉ là một người thất chí, bị vua Thần Tông giáng chức và cử đi làm tri huyện Hàng Châu, một thị trấn bé xíu vào thời bấy giờ. Một hôm ông gửi một bài cho thiền sư Phật Ấn xem và cứ đinh ninh vị sư này tất sẽ phải khen mình. Thế nhưng Phật Ấn phê ngay một câu là "đồ đánh rắm" (độc giả có thể xem giai thoại này trong một bài viết ngắn mang tựa là Tám mối lo toan thế tục trên Thư Viện Hoa Sen).

 Sự kiện nêu lên vài nét về cuộc đời của các thi nhân lừng danh trên đây không hề có ý chê trách mà chỉ để nói lên một sự tương phản nào đó nơi mỗi con người, một sự giằng co giữa bản năng và những xúc cảm thanh cao và thoát tục trong lòng mình. Vương Duy không phải chỉ viết các bài tạp thi đại loại như trên đây mà còn trước tác nhiều vần thơ thật sâu sắc, chẳng hạn như trong bài sau đây:

酬張少 Thù Trương thiếu phủ 

晚年惟好靜, Vãn niên duy hiếu tĩnh, 
萬事不關心。 Vạn sự bất quan tâm.
自顧無長策, Tự cố vô trường sách,
空知返舊林。 Không tri phản cựu lâm. 
松風吹解帶, Tùng phong xuy giải đới, 
山月照彈琴。 Sơn nguyệt chiếu đàn cầm.
君問窮通理, Quân vấn cùng thông lý,
漁歌入浦深。 Ngư ca nhập phố thâm.

 Xin tạm dịch nghĩa như dưới đây:

 Mời rượu vị quan phủ trẻ họ Trương

 Về già chỉ muốn được yên thân,
 Không còn quan tâm đến bất cứ gì nữa cả.
 Xưa nay cũng chẳng giỏi giang gì,
 Nay cũng không biết làm gì hơn ngoài việc quay về với khu rừng cũ.
 Gió xuyên qua các cành tùng làm tung bay dải thắt lưng.
 Trăng trên núi rọi xuống chiếc đàn cầm.
 Nếu ai đấy có hỏi cái lý lẽ cuối cùng là gì?
 Thì có nghe chăng tiếng hát của người câu cá xa tít trên bến sông?

 Tất nhiên là bài thơ này cũng có nhiều bàn dịch sang tiếng Việt và cả các ngôn ngữ Tây Phương. Xin trích dẫn dưới đây một vài bản dịch tiêu biểu: một bằng tiếng Việt, một bằng tiếng Pháp và hai bằng tiếng Anh, nhằm nêu lên vài quan điểm và cách dịch khác nhau, hầu giúp chúng ta tìm hiểu cặn kẽ hơn về bài thơ gốc của Vương Duy:

Bản dịch tiếng Việt của Trần nhất Lang:

Mời rượu huyện uý họ Trương

Chuỗi ngày còn lại sống âm thầm,
Mọi việc trên đời chẳng để tâm.
Đã biết tập bầy mưu chẳng có,
Thà về trở lại núi xưa thăm.
Gió thông phất phới bay tà áo,
Trăng núi lung linh rọi phím cầm.
Cái lẽ "Cùng Thông" người mới hỏi,
Hãy nghe chài hát vọng bên đầm.

Bản dịch tiếng Pháp của Sophie Annah

Sur le tard, je n’aime que la quiétude

Sur le tard, je n’aime que la quiétude.
Loin de mon esprit la vanité des choses.
Dénué de ressources, il me reste la joie
De hanter encore ma forêt ancienne.

La brise des pins me dénoue la ceinture;
La lune caresse les sons de ma cithare.
Quelle est, demandez-vous, l’ultime vérité?
Chant de pêcheur, dans les roseaux, qui s’éloigne

 Không thấy dịch giả dịch tựa của bài thơ mà chỉ mượn câu thơ thứ nhất để làm tựa. Thật vậy tựa của bài thơ của Vương Duy khá rắc rối, không thấy bản dịch nào dịch thật sát nghĩa: chữ thiếu phủ có nghĩa là vị quan phủ trẻ tuổi, không có nghĩa là vị phó phủ hay uý phủ. Tựa bài thơ cho thấy Vương Duy mượn ý trong bài thơ này để tâm sự với một vị quan còn trẻ trước khi rút lui vào nơi ẩn dật.

Bản dịch tiếng Anh thứ nhất:

To The Honorable Magistrate Zhang

As of late, all I like
is quiet.
Far from my mind
the vanity of things.
Stripped of all resources,
what I have left is the joy
Of hanging around again
in my old forest.

The breeze in the pines
undoes my sash;
The moon caresses the sounds
of my dulcimer.
What is, you ask,
the ultimate truth?
Song of the fisherman
in the reeds, fading into the distance….

Grace Gravelle dịch

Bản dịch tiếng Anh thứ hai dưới đây không thấy dịch tựa bài thơ:

Life at dusk, in careless quiet.
The tasks are done, my mind turned free:
No more career to plan for,
Only the hills have work for me.
Pine-winds blow on my loosened sash,
Moon lights upon my lute-plucking hand.
You asked about duty. All I know:
A fisherman’s tune drifts up from the river.

David Warren dịch

 Tất nhiên là các bản dịch trên đây, nhất là các bản dịch sang các ngôn ngữ Tây Phương, cho thấy có nhiều chỗ không đúng hoặc hiểu sai. Chúng ta sẽ không phân tích toàn bộ các bản dịch trên đây, mà chỉ chú trọng đến hai câu thơ cuối cùng là câu 7 và câu 8 mà thôi, và đấy cũng là hai câu sâu sắc nhất trong toàn bài thơ.

 Trước hết chúng ta hãy tìm hiểu các chữ quan trọng nhất trong hai câu này. Trong câu 7 (Quân vấn cùng thông lý): chữ thông có nghĩa là thông suốt không có gì cản trở; chữ cùng có nghĩa là tột cùng; chữ gốc từ chữ lý học là một triết thuyết thuộc lãnh vực luận lý. Tóm lại ba chữ cùng thông lý có nghĩa là "cái lý thông suốt tột cùng" hay là "cái nguyên lý tối thượng" của hiện thực. Bản dịch tiếng Việt giữ nguyên tiếng Hán là "Cùng Thông" khiến người đọc khó hiểu ý nghĩa là gì. Bản tiếng Pháp và bản tiếng Anh thứ nhất dịch là "sự thật tột cùng" hay "tối thượng" (vérité ultime / ultimate truth) rất hay và rất đúng. Bản tiếng Anh thứ hai dịch là nghĩa vụ hay trách nhiệm (devoir / duty) là hoàn toàn sai.

 Trong câu 8 (Ngư ca nhập phổ thâm): chữ phổ có nghĩa là bến sông, bờ sông hay ven sông. Chữ này khiến liên tưởng đến hai câu tuyệt tác của Bà Huyện Thanh Quan:

Gác mái ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng mục tử lại cô thôn.

 Viễn phố có nghĩa là bến sông xa. Hình ảnh của một buổi hoàng hôn đang buông xuống với những tia nắng thấp cuối cùng, một lão già câu cá ghé vào một bến sông xa tít và một cậu bé chăn trâu gõ sừng để thúc trâu quay về một thôn ấp hẻo lánh, biết đâu cũng đã mở ra một bầu không gian mênh mông và gợi lên sự quay về một nơi nào đó thật êm ả và sâu kín trong lòng mỗi người trong chúng ta? 

Bản tiếng Pháp dịch hai câu thơ thứ 7 và 8 là:

 Nếu bạn hỏi tôi sự thật tối hậu là gì?
 [Thì cứ hãy lắng nghe] tiếng hát của gã đi câu xa dần trong những bờ lau sậy.

Bà Huyện Thanh Quan là một thi nhân và một nhà Hán học, tất bà cũng đã từng đọc hai câu thơ trên đây của Vương Duy.

 Bản tiếng Anh thứ nhất dịch haì câu này là:

 Bạn muốn biết sự thật tối hậu là gì à?
 Đấy là tiếng hát của gã đi câu xa dần trong những bờ lau sậy.

 Bản tiếng Anh thứ hai dịch là:
 
 Bạn muốn hiểu trách nhiệm là gì à? Những gì tôi hiểu:
 Đấy là tiếng hát của gã đi câu vang xa trên dòng sông.

 Hai câu thơ của Vương Duy không những tuyệt vời trên phương diện thi pháp mà còn nói lên cả một quan điểm vô cùng sâu sắc trong Phật Giáo: đó là tính cách vô nghĩa trong tất cả các sự thắc mắc của con người. Ngôn từ cũng chỉ là các quy ước giả tạo và hạn hẹp. Một trong các phương pháp trong giáo lý nhà Phật giúp đánh thức con người và đưa họ ra khỏi những sự vướng mắc quy ước và khái niệm, là cách đánh lạc hướng tâm thức họ và cắt đứt dòng tư duy vô minh đang khuấy động họ, bằng một sự yên lặng tuyệt đối hoặc bằng cách bất ngờ chuyển tâm thức họ và dòng tư duy của họ sang một thứ gì đó thật phi lý. Đấy là cách giải đápđồng thời cũng không giải đáp những thắc mắc đang bùng lên trong đầu họ. Hai câu thơ trên đây của Vương Duy xứng đáng là một công án Thiền Học với tất cả ý nghĩa của nó.

 

Hoang Phong

Bures-Sur-Yvette, 31.01.14 (mùng một Tết Nhâm Ngọ)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10522)
Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người... Nguyện san Chánh Pháp - Số Xuân 2014
(Xem: 10142)
Thi hào Vương Duy (701-761) cùng với Đỗ Phủ (712-770) và Lý Bạch (701-762) là ba thi nhân cự phách dưới triều đại của Đường Huyền Tông (685-762)... Hoang Phong
(Xem: 20421)
Trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “đau khổ” được dùng để chỉ trạng thái bất như ý, khó chịu và buồn phiền cùng cực... Nguyễn Hữu Đức
(Xem: 11659)
Thiền không xa lạ đối với giới Phật học trong suốt hơn hai ngàn năm qua. Cá nhân tôi, trong những năm gần đây cũng áp dụng Thiền song song với thuốc cần thiết để chữa bệnh, kết quả rất tốt... Hồng Quang
(Xem: 13798)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 19149)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 46724)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12099)
Thiền cứu tôi từ tuyệt vọng hơn một lần. Trong những giai đoạn bệnh hoạn trầm trọng nhất, tôi đã được cứu bằng nhận thức rằng kinh nghiệm đau đớn chỉ là nhất thời... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 11680)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 23100)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 17861)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10163)
"Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên, Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền." Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 17776)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13941)
“Nếu chúng ta chia quả đất này thành từng mảnh nhỏ như những hạt cỏ, số lượng những mảnh này không lớn bằng số lượng lần mà mỗi chúng sanh đã là cha mẹ ta”... Karen Villanueva, Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 14053)
"Một lòng kính lạy Phật Đà, Ngàn đời con nguyện ở nhà Như Lai, Con hằng mặc áo Như Lai, Con ngồi pháp tọa Như Lai muôn đời"... Tịnh Bình
(Xem: 15115)
Càng lớn con càng thương Mẹ hơn, Tình dâng cao vút đỉnh liên sơn, Tháng năm đời có thêm cay đắng, Mẹ gánh oằn vai chút chẳng sờn... Thích Minh Tuệ
(Xem: 20311)
Thời gian trôi, tiếng đồn về Mẹ ngài bèn gửi thư đi cho ngài: "Con ơi! Mẹ nghĩ kỹ rồi Hiến mình cho Phật, cho nơi đạo mầu
(Xem: 18305)
Thiền sư bước đến lặng yên, Rồi dùng thiền trượng gõ lên quan tài Người ta nghe tiếng của ngài...
(Xem: 17426)
Khuyên con chữ hiếu lo tròn Không thời quả báo sẽ luôn dữ dằn Từ đây kính mẹ, ăn năn Ai hơn mẹ quý, ai bằng tình thâm
(Xem: 18185)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 12732)
Một thời đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật gần thành Vương Xá nước Ma Kiệt với mấy nghìn Tỳ Kheo, mấy vạn Bồ Tát, và vô số trăm nghìn Chư Thiên rải hoa trỗi nhạc cúng dường Phật... Toàn Không
(Xem: 12868)
Những lời khuyên này, ta muốn nói với Dagmema. Hãy bình tâm, đừng trộn lẫn tâm ấy với những gì thế tục. Hãy đánh thức sự kiên địnhbuông bỏ niềm đau.
(Xem: 13432)
Xuân qua thu lại, cùng thời gian này vào năm tới, vô số người sẽ gặp phải cái chết của mình. Ai có thể quả quyết rằng bạn không phải là một người trong số đó?
(Xem: 17047)
Đây là một cuốn sách quý, đúc kết kinh ngiệm trên 25 năm giảng dạy Phật pháp và hướng dẫn hành thiền của Thiền sư Ajaham tại Úc và các nước Đông Nam Á...
(Xem: 11489)
Tinh yếu của thiền trước tiên là quay cái nhìn vào bên trong tự thể. Muốn như thế chúng ta cần phải biết sử dụng 3 phương tiện...
(Xem: 18299)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 18606)
Đạo sư Padma nói: Hãy thực hành Pháp thập thiện và hãy có niềm tin vào cái nên tránh và cái nên làm theo các loại hậu quả trắng và đen của những hành động ấy.
(Xem: 21398)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 22181)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 16886)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
(Xem: 12569)
Mỗi năm gần đến ngày Phật đản, Phật tử chúng ta lại có dịp suy ngẫm về bối cảnh lịch sử - xã hội, trong đó Đức Phật thị hiệnđạo Phật ra đời...
(Xem: 15338)
Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn. Nhất thiết thế gian, Sinh lão bệnh tử... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 24629)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 14241)
Ý nghĩa ra đời của Thái tử là một hàm ý trọng đại xác định Phật tính trong mỗi chúng sanh khi đã hoàn giác thì cái “duy ngã” đó là một tối thượng...
(Xem: 11651)
Thiền Và Chỉ Quán - Nguyên tác: Thiên Thai Trí Khải, Paul L. Swanson biên soạn, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
(Xem: 19751)
Pháp bản như vô pháp, Phi hữu diệc phi vô, Nhược nhân tri thử pháp, Chúng sanh dữ Phật đồng... Thiền sư Huệ Sinh
(Xem: 13429)
Đức Phật, vô cùng thực tếthiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại.
(Xem: 22815)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thươnglòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
(Xem: 19011)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
(Xem: 18468)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệtừ bi...
(Xem: 21633)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 20535)
Hương quyện của đất trời, sắc màu của trần gian, hai bờ của phân ly, hai ngã của mê ngộ, một sự thảnh thơi nhẹ bước...
(Xem: 20044)
Thực hành Bổn tôn là phương pháp đặc biệt và lớn lao để nhanh chóng chuyển hóa những sự hiện hữu thế tục mê mờ thành sự giác ngộ.
(Xem: 14084)
Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma...
(Xem: 15017)
Sau khi định tâm, tôi nhắm mắt tưởng nhớ đến Thánh: “Hôm nay con thấy vô cùng hạnh phúc được đặt chân lên Tu viện, nơi Thánh Trulshik và các vị đạotu hành...
(Xem: 13802)
Phật tử nên tin sâu vào nhân quả, tin vào đạo lý vô thường, duyên sinh, huyễn mộng của các pháp... Thích Thông Huệ
(Xem: 15119)
Khác với Trung Quốc và một số quốc gia khác, rồng không hiện hữu nơi niềm tin của người Ấn... Nghiệp Đức
(Xem: 17249)
Theo những nghiên cứu lâu dàicẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal).
(Xem: 15303)
Nụ cười của Ngài cũng là sự thể hiện hai đức hạnh quý báu trong đạo Phật, đó là hỷ, xả. Có hỷ, xả chúng ta mới nở nụ cười vui tươi chân thật, hạnh phúc, an lạc.
(Xem: 12824)
Những lời thuyết giảng của vị sư già đã mang lại cho chị một tâm hồn phong phú, bén nhạy và nhiều yêu thương hơn.
(Xem: 15893)
Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên.
(Xem: 13011)
Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu...
(Xem: 13142)
Những người mới bắt đầu nên tập trung vào việc chắc chắn rằng động cơ của họ là thanh tịnh, và cầu nguyện chí thành đến vị thầy gốc. Đây là thực hành tốt nhất.
(Xem: 15031)
Mùa xuân gần kề với niềm tin sức sống mới. Hãy tu để chuyển nghiệp! Đức Phật đã dạy như vậy! Bất kỳ hoàn cảnh nào chúng ta cũng có thể tu được...
(Xem: 22668)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 7168)
An-ban thiền được thành lập trên nền tảng là kinh An-ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập. Ngài An Thế Cao dịch có kinh An-ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập chuyên nói về thiền định...
(Xem: 19372)
Tara là hiện thân lòng từ bi của chư Phật ba thời, quá khứ, hiện tạivị lai. Bà là vị Thánh nữ có khả năng thực hiệnhoàn thành mọi hoạt động giác ngộ của chư Phật.
(Xem: 37719)
Thật ra, là hoàn toàn sai lầm khi nói rằng tôn nam này kết hợp với tôn nữ kia. Đúng ra phải nói rằng trong Tự Tánh hiển lộ ra một hình tướng bất nhị.
(Xem: 9183)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầu thiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinh điển thiền ngữ”
(Xem: 8689)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 17908)
Không tách lìa hiện tướngtánh không. Đây chính là chánh kiến, chẳng còn gì sở đắc được hơn.
(Xem: 14880)
Thiền là một con đò dùng để đưa người rời bỏ bờ khổ đau và vô minh để tới bờ của an lạcgiải thoát...
(Xem: 27066)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 19959)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15279)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15494)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26801)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 14573)
Nếu ta tiếp cận Pháp như những đứa trẻ con, ta có thể nhớ lại giây phút đầu tiên ta gặp Giáo Pháp, nó trở nên quan trọng đối với ta ra sao...
(Xem: 19718)
Mục đích chính yếu của sự hóa hiện của một vị tái sanh là để tiếp tục công việc chưa hoàn tất của vị tiền nhiệm để hộ trì Giáo pháp và [hóa độ] chúng sinh.
(Xem: 14643)
Đức Tara nhanh chóng giúp bạn thành công trong việc đạt được hạnh phúc tối hậu của giác ngộ. Bạn nhận lãnh rất nhiều công đức tốt lành, hay nguyên nhân của hạnh phúc...
(Xem: 18666)
Mắt mở nửa chừng, hãy dịu dàng cảm nhận từng hơi thở vào và ra. Và cảm nhận rằng toàn thân bạn đang dịu dàng thở.
(Xem: 15943)
Nếu giáo Pháp của Đức Phật vẫn còn hiện hữu và con có một niềm tin vững chắc thì đơn giản con đã tích lũy rất nhiều công đức trong quá khứ.
(Xem: 16360)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19378)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19744)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19911)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18620)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 29843)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 14586)
Tôi thấy thầy trao cho Út Huy gói quà, thằng nhóc vừa đưa tay nhận lấy, thầy lại móc túi áo lấy ra một chai dầu nóng dúi vào tay nó. Xong, thầy xoa đầu nó âu yếm...
(Xem: 17772)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
(Xem: 32444)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 15279)
Quán các pháp chẳng thường chẳng đoạn, cũng chẳng phải có, chẳng phải không, chỗ tâm hành diệt, ngôn thuyết cũng bặt dứt. Đó gọi là quán sâu xa thanh tịnh.
(Xem: 17317)
Quyển "Thiền tông quyết nghi tập" này do thiền sư Đoạn Vân Trí Triệt soạn vào đời Nguyên, được ấn hành vào niên hiệu Khang Hi thứ 6 (1667) đời Thanh...
(Xem: 29779)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31557)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 64726)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 32823)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 20244)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 18536)
Hiện tại chúng ta đang sở hữu thân người quý giá và đã gặp được giáo lý Phật Đà. Nhờ sự gia trìlòng từ ái của chư đạo sư, chúng ta có thể thọ nhận, nghiên cứuthực hành giáo pháp.
(Xem: 30831)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 19935)
Thực hành Kim Cương thừa được bắt đầu thông qua một quán đảnh. Để hiệu quả, quán đảnh đòi hỏi sự chứng ngộ của đạo sư, bậc trao truyền nó, cũng như sự tin tưởngtrí thông minh của đệ tử nhận nó.
(Xem: 45916)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 32607)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39366)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40469)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 50157)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 19105)
Hệ thống Phật giáo Đại thừa được hình thành vào khoảng trước sau thế kỷ thứ nhất ở những vùng Nam Ấn Độ với chủ trương “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”...
(Xem: 18567)
Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi.
(Xem: 20698)
Việc chúng ta được sinh ra làm người mang lại cho ta cơ hội và thuận lợi để thực hành Pháp và cho ta con đường dẫn tới truyền thống bao lasâu xa của Phật Pháp.
(Xem: 19427)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant