Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ngày Xuân Mượn Một Bài Thơ Của Vương Duy Để Tặng Những Người Xa Quê Hương

01 Tháng Hai 201400:00(Xem: 13373)
Ngày Xuân Mượn Một Bài Thơ Của Vương Duy Để Tặng Những Người Xa Quê Hương

Ngày Xuân Mượn Một Bài Thơ Của Vương Duy
Để Tặng Những Người Xa Quê Hương


Hoang Phong

mai_tet Ngày Tết là một dịp để trở về với gia đình, với bè bạn, với làng xóm, với quê hương, và nếu mở rộng lòng mình hơn nữa thì ngày Tết cũng là một dịp để quay về với kỷ niệm, với tuổi thơ, với một vài quãng đời xa xưa nào đó vẫn còn in đậm trong tâm thức mình. Dù xa quê thế nhưng nơi đất khách mỗi độ xuân về, hoa vẫn nở, thời gian vẫn trôi.... Nhìn những cánh hoa "xa lạ" ấy những kẻ xa quê sao tránh được một niềm nhớ nhung nào đó thoáng hiện trong lòng mình. Vì thế cũng xin mượn một bài thơ xưa của một thi nhân thời Đường, sống cách nay đã hơn mười ba thế kỷ để tặng những người "lưu lạc" hôm nay.

 Bài thơ không có tựa, được tác giả xếp vào loại "tạp thi". Chữ tạp trong tiếng Hán có nghĩa tạp nhạp, hỗn tạp..., nói lên một cái gì đó không có giá trị nhiều. Thế nhưng chữ tạp cũng có nghĩa là phức tạp hay rắc rối, có nghĩa là khó nói ra. Có thể là vì lý do này mà Vương Duy không sao tìm được một cái tựa thích hợp cho bài thơ của mình, hoặc cũng có thể là tác giả đã cố tình không hé lộ ý nghĩa của bài thơ qua một cái tựa nào cả, mà cứ để cho người đọc tự tìm hiểu lấy? Vương Duy là một thi nhân vô cùng kín đáo, vậy nhân ngày đầu xuân chúng ta hãy thử tìm hiểu xem ông muốn gửi gấm điều gì trong bài "tạp thi" thật ngắn của ông.

 Bài thơ như sau:

  雜詩   Tạp Thi  
 君自故鄉來 Quân tự cố hương lai, 
 應知故鄉事 Ưng tri cố hương sự. 
 來日綺窗前 Lai nhật ỷ song tiền, 
 寒梅著花未 Hàn mai trước hoa vị.

 Dịch nghĩa:

 Tạp thi

 Này người quân tử từ quê lên,
 Ắt rõ chuyện quê nhà.
 Hôm đi ngang chiếc cửa sổ che tấm màn the,
 Có thấy gốc mai của những ngày đông giá đã trổ hoa chưa?

Bài thơ khá giản dị và cũng đã được nhiều người dịch. Chỉ xin đơn cử một vài bài tiêu biểu sau đây:

 Tạp Thi

Ở quê anh mới tới đây,
Việc quê anh biết đổi thay thế nào.
Hôm đi, trước cửa buồng thêu,
Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?

Trần Trọng Kim dịch

 Tạp Thi

Nghe tin bác ở quê ra,
Em sang hỏi chút chuyện nhà xem sao.
Nhà em mé cổng bước vào,
Gốc mai nay đã nụ nào hay chưa?

Thu Tứ dịch

  Tạp Thi

Vừa hay Bác ở quê ra
Việc Quê hẳn Bác rành mà…” sáu câu” 
Trước song ngày lại sắc màu ?... 
Hàn mai đà nở ? đùa nhau;…mấy cành

Lại Quang Nam dịch  

 Tất nhiên bài thơ này của Vương Duy cũng đã được dịch sang các ngôn ngữ Tây Phương, và chỉ xin trích ra đây hai bài bằng tiếng Anh:

Random Poem

You also come from my home town,
You must know all the home town news.
At dawn, before the silken window,
Is it too cold for plum blossom to show?

(Trích trong: The World's Poetry Archive, Classic Poetry Series, 2004, Wang Wei poems, tr. 38)

 Lines

You who have come from my old country,
Tell me what has happened there ! –
Was the plum, when you passed my silken window,
Opening its first cold blossom?

Witter Bynner dịch

(xin lưu ý là các chữ in đậm không được trung thực lắm với ý nghĩa trong bài thơ gốc)

 Trong số các bản tiếng Việt tham khảo thì có lẽ bản dịch của cụ Trần Trọng Kim là tương đối "khá gần" với ý tứ và xúc cảm trong bài thơ của Vương Duy. Dầu sao nếu dùng thể thơ lục bát để dịch thơ Đường thì thường là không được thích hợp lắm, bởi vì nhạc và vần của lục bát quá khác biệt với âm hưởng tạo ra bằng cách đối âm và đối chữ trong các thể thơ Đường, do đó rất khó để chuyển tải một cách trung thực xúc cảm trong các thể thơ này. Tuy nhiên hai câu thơ cuối cũng trên đây cũng đã được cụ Trần Trọng Kim dịch rất khéo, tuy không làm nổi bật được ý mà Vương Duy muốn nói lên.

 Bản dịch tiếng Anh thứ nhất trên đây dịch tựa là "Bài thơ ngẫu hứng" thật khéo. Thế nhưng hai câu thơ cuối thì lại hoàn toàn "lạc đề":

 ...
  Lúc hừng đông, trước cửa sổ màn the,
 Phải chăng trời còn quá lạnh để gốc mận có thể đơm hoa?


 Bản tiếng Anh thứ hai dịch tựa là "Vài hàng" và hai câu cuối là:
 ...
  Khi đi ngang cửa sổ che tấm màn the của nhà tôi,
 Bạn có thấy gốc mận đã trổ những cánh hoa lạnh đầu mùa hay chưa?

 Trong tất cả các bản dịch đã được tham khảo, tiêu biểu là các bản trên đây, đều cho thấy ý nghĩa của hai câu cuối không "thống nhất" với nhau, thế nhưng đấy lại là hai câu quan trọng nhất của cả bài thơ. Cũng xin nêu thêm một chi tiết nhỏ là cây mai ở đây có nghĩa là cây mơ hay cây mận (prunier / plum tree), bởi vì ở các vùng ôn đới không có cây mai vàng như ở miền Nam Việt Nam. Dầu trong trường hợp nào thì đấy cũng là một loại cây có hoa nở rộ vào mùa xuân.

 Trở lại với ý của toàn bài thơ thì thật ra cũng chẳng có gì là bí hiểm lắm. Hai chữ song trong câu 3 (Lai nhật ỷ song tiền) giúp chúng ta có thể đoán được ý mà Vương Duy muốn nêu lên. Chữ có nghĩa là vải the hay tấm lụa thêu, và cũng có nghĩa là đẹp. Chữ nghĩa tương đương với chữ sa, là một loại lụa mỏng hay vải thưa. Chữ song có nghĩa là cửa sổ, trong Kiều có câu: "Gương nga chênh chếch dòm song" (câu 173). Nếu đem ghép hai chữ songsa với nhau thì có nghĩa là chiếc cửa sổ che lụa mỏng hay the, tức là phòng của một người con gái. Trong Kiều có câu: "Song sa vò võ phương trời, Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng" (câu 1267 và 1268) nói lên sự mong chờ của Thuý Kiều. Hai chữ hàn mai có thể hiểu là gốc mai hay cành mai giữa mùa đông chưa đơm hoa trổ lá, thế nhưng theo nghĩa bóng thì cũng có thể hiểu cành mai lạnh là một cô bé ngây thơ và vô tư chưa biết rung cảm là gì. Đây là một cách so sánh mang tính cách ẩn dụ.

 Cách phân tích ý nghĩa của từng chữ trên đây cho thấy thật hết sức rõ ràngVương Duy có ý hỏi người ở quê lên là "người con gái ấy nay thế nào, khi xưa lúc mình ra đi thì cô bé vẫn còn thơ dại, ngày nay đã dậy thì và trổ mã hay chưa?". Biết đâu Vương Duy cũng đã ghé vào tai hỏi nhỏ người quen ở quê lên để hỏi về chuyện này, vì thế nên bài thơ cũng chỉ thuộc vào loại "tạp thi".

 Ngoài ra bài thơ của Vương Duy còn mang một ý nghĩa phụ nữa, đấy là người ra đi đã lâu ngày và chưa lần nào trở lại quê nhà. Thật vậy ngày xưa ra đi cũng khó, mỗi lần trở về cũng không phải dễ. Đường xá hiểm trở, phải đi bộ, dùng ngựa, thuyền, hay ghe, không những gian nan mà còn sợ cả tai nạn xảy ra và cả các bọn cướp đường. Ngày nay tuy phương tiện tân tiến hơn thế nhưng đôi khi cũng vì những lý do khác mà mình chưa có dịp trở về cố hương. Ngày xuân nơi quê người chợt nhớ đến kỷ niệm của những ngày xưa năm cũ, nên cứ hễ gặp được ai quen vừa từ quê sang chơi thì hay hỏi chuyện quê nhà. Chỉ tiếc rằng trong bài thơ không thấy Vương Duy hỏi han gì đến cha mẹ hay bạn bè, mà chỉ thắc mắc về cô bé hàng xóm bên cửa sổ sau chiếc màn the.

 Sau đây cũng xin mạn phép tạm dịch bài "tạp thi" của Vương Duy như sau:

Ngẫu hứng

Này người khách đến, cố hương xa,
Đôi lời han hỏi chuyện quê nhà.
Có thấy màn the bên song cửa,
Mai lạnh ngày xưa đã trổ hoa?
30.01.14

 Trên đây chỉ là vài lời phỏng đoán ý nghĩa của vài dòng "tạp thi" của một thi nhân thời Đường, nhằm gửi tặng những người "lưu lạc". Thế nhưng riêng đối với những người tu tập Phật Giáo thì có nên rung đùi bên tách trà thơm mà hồi tưởng lại những chuyện quá khứ đại loại như thế hay không?

 Thật vậy cũng có những người biết nhìn thẳng vào hiện thực dưới một góc cạnh khác hơn. Người con gái ngày xưa biết đâu hôm nay đang tay bồng tay dắt, đầu tắt mặt tối, Tết nhất đến nơi, lu bu mua sắm cho ba ngày Tết. Thế nhưng cũng biết đâu: đứa thì khóc, đứa thì la, ngược xuôi chạy nợ... Nếu nhìn bao quát hơn thì chúng ta tất sẽ thấy vô thường không những chỉ vận hành trong bối cảnh bên ngoài như trên đây mà còn tác động trên thân xác và cả bên trong tâm thức của mỗi con người chúng ta nữa. Người con gái e thẹn ngày xưa và cả chính mình trước đây không còn nữa. Mỗi con người đều liên tục biến đổi tùy thuộc vào nghiệp và bản năng thúc đẩy mình. Nếu ngồi mơ màng tưỏng nhớ đến bóng dáng một cô bé thấp thoáng sau tấm màn thưa thì đấy chỉ là cách cho thấy mình rơi ra bên ngoài hiện thực.

 Tuy nhiên cũng có một số người có thể quán thấy xa hơn thế nữa, họ vượt lên cả những biểu hiện của vô thường để nhìn thấy bản chất đích thật của mọi hiện tượng. Chỉ cần giới hạn trong lãnh vực văn chương cũng đủ để thấy rằng thi phú cũng chỉ là ngôn từ, và ngôn từ thì cũng chỉ là quy ước. Một bài thơ gồm một số ngôn từ sắp xếp theo một quy luật nào đó cũng chỉ nhằm gợi lên một số xúc cảm để tự đánh lừa mình và đánh lừa người khác. Chẳng phải là rung đùi để thưởng thức bài thơ trên đây cũng chỉ là một cách tự tách rời mình ra bên ngoài hiện thực hay sao?

 Tuy nhiên thi phú dưới một khía cạnh nào đó cũng có thể xem như một phương tiện hay một công cụ tận dụng sức mạnh của xúc cảm để hướng tư duy theo một chiều hướng mà mình mong muốn. Nếu là người tu tập, và dù mình là người làm thơ hay thưởng thức thơ, thì cũng nên ý thức điều này để không rơi ra bên ngoài con đường mà mình đang bước đi.

 Vương Duy làm quan dưới triều vua Đường Huyền Tông, thế nhưng sau khi An Lộc Sơn đánh chiếm Trường An thì ông không bỏ trốn theo Đường Huyền Tông. An Lộc Sơn bắt ép ông trở ra làm quan, và chỉ được một thời gian sau thì ông xin rút lui vì bất mãn. Khi Đường Huyền Tông khôi phục lại ngai vàng thì đáng lý ra ông phải tội phản, thế nhưng nhờ người em là Vương Tấn làm quan to nên xin tha cho ông và sau đó lại được làm quan trở lại. Người ta cho rằng đến lúc tuổi già thì ông bắt đầu chán ngán lợi danh nên đã tu thiền.

 Ngoài ra cũng xin kể thêm trường hợp của nhà thơ Tô Đông Pha (1037-1101). Người ta thường ca ngợi các bài "thơ thiền" thật tuyệt vời của ông. Thế nhưng ông cũng chỉ là một người thất chí, bị vua Thần Tông giáng chức và cử đi làm tri huyện Hàng Châu, một thị trấn bé xíu vào thời bấy giờ. Một hôm ông gửi một bài cho thiền sư Phật Ấn xem và cứ đinh ninh vị sư này tất sẽ phải khen mình. Thế nhưng Phật Ấn phê ngay một câu là "đồ đánh rắm" (độc giả có thể xem giai thoại này trong một bài viết ngắn mang tựa là Tám mối lo toan thế tục trên Thư Viện Hoa Sen).

 Sự kiện nêu lên vài nét về cuộc đời của các thi nhân lừng danh trên đây không hề có ý chê trách mà chỉ để nói lên một sự tương phản nào đó nơi mỗi con người, một sự giằng co giữa bản năng và những xúc cảm thanh cao và thoát tục trong lòng mình. Vương Duy không phải chỉ viết các bài tạp thi đại loại như trên đây mà còn trước tác nhiều vần thơ thật sâu sắc, chẳng hạn như trong bài sau đây:

酬張少 Thù Trương thiếu phủ 

晚年惟好靜, Vãn niên duy hiếu tĩnh, 
萬事不關心。 Vạn sự bất quan tâm.
自顧無長策, Tự cố vô trường sách,
空知返舊林。 Không tri phản cựu lâm. 
松風吹解帶, Tùng phong xuy giải đới, 
山月照彈琴。 Sơn nguyệt chiếu đàn cầm.
君問窮通理, Quân vấn cùng thông lý,
漁歌入浦深。 Ngư ca nhập phố thâm.

 Xin tạm dịch nghĩa như dưới đây:

 Mời rượu vị quan phủ trẻ họ Trương

 Về già chỉ muốn được yên thân,
 Không còn quan tâm đến bất cứ gì nữa cả.
 Xưa nay cũng chẳng giỏi giang gì,
 Nay cũng không biết làm gì hơn ngoài việc quay về với khu rừng cũ.
 Gió xuyên qua các cành tùng làm tung bay dải thắt lưng.
 Trăng trên núi rọi xuống chiếc đàn cầm.
 Nếu ai đấy có hỏi cái lý lẽ cuối cùng là gì?
 Thì có nghe chăng tiếng hát của người câu cá xa tít trên bến sông?

 Tất nhiên là bài thơ này cũng có nhiều bàn dịch sang tiếng Việt và cả các ngôn ngữ Tây Phương. Xin trích dẫn dưới đây một vài bản dịch tiêu biểu: một bằng tiếng Việt, một bằng tiếng Pháp và hai bằng tiếng Anh, nhằm nêu lên vài quan điểm và cách dịch khác nhau, hầu giúp chúng ta tìm hiểu cặn kẽ hơn về bài thơ gốc của Vương Duy:

Bản dịch tiếng Việt của Trần nhất Lang:

Mời rượu huyện uý họ Trương

Chuỗi ngày còn lại sống âm thầm,
Mọi việc trên đời chẳng để tâm.
Đã biết tập bầy mưu chẳng có,
Thà về trở lại núi xưa thăm.
Gió thông phất phới bay tà áo,
Trăng núi lung linh rọi phím cầm.
Cái lẽ "Cùng Thông" người mới hỏi,
Hãy nghe chài hát vọng bên đầm.

Bản dịch tiếng Pháp của Sophie Annah

Sur le tard, je n’aime que la quiétude

Sur le tard, je n’aime que la quiétude.
Loin de mon esprit la vanité des choses.
Dénué de ressources, il me reste la joie
De hanter encore ma forêt ancienne.

La brise des pins me dénoue la ceinture;
La lune caresse les sons de ma cithare.
Quelle est, demandez-vous, l’ultime vérité?
Chant de pêcheur, dans les roseaux, qui s’éloigne

 Không thấy dịch giả dịch tựa của bài thơ mà chỉ mượn câu thơ thứ nhất để làm tựa. Thật vậy tựa của bài thơ của Vương Duy khá rắc rối, không thấy bản dịch nào dịch thật sát nghĩa: chữ thiếu phủ có nghĩa là vị quan phủ trẻ tuổi, không có nghĩa là vị phó phủ hay uý phủ. Tựa bài thơ cho thấy Vương Duy mượn ý trong bài thơ này để tâm sự với một vị quan còn trẻ trước khi rút lui vào nơi ẩn dật.

Bản dịch tiếng Anh thứ nhất:

To The Honorable Magistrate Zhang

As of late, all I like
is quiet.
Far from my mind
the vanity of things.
Stripped of all resources,
what I have left is the joy
Of hanging around again
in my old forest.

The breeze in the pines
undoes my sash;
The moon caresses the sounds
of my dulcimer.
What is, you ask,
the ultimate truth?
Song of the fisherman
in the reeds, fading into the distance….

Grace Gravelle dịch

Bản dịch tiếng Anh thứ hai dưới đây không thấy dịch tựa bài thơ:

Life at dusk, in careless quiet.
The tasks are done, my mind turned free:
No more career to plan for,
Only the hills have work for me.
Pine-winds blow on my loosened sash,
Moon lights upon my lute-plucking hand.
You asked about duty. All I know:
A fisherman’s tune drifts up from the river.

David Warren dịch

 Tất nhiên là các bản dịch trên đây, nhất là các bản dịch sang các ngôn ngữ Tây Phương, cho thấy có nhiều chỗ không đúng hoặc hiểu sai. Chúng ta sẽ không phân tích toàn bộ các bản dịch trên đây, mà chỉ chú trọng đến hai câu thơ cuối cùng là câu 7 và câu 8 mà thôi, và đấy cũng là hai câu sâu sắc nhất trong toàn bài thơ.

 Trước hết chúng ta hãy tìm hiểu các chữ quan trọng nhất trong hai câu này. Trong câu 7 (Quân vấn cùng thông lý): chữ thông có nghĩa là thông suốt không có gì cản trở; chữ cùng có nghĩa là tột cùng; chữ gốc từ chữ lý học là một triết thuyết thuộc lãnh vực luận lý. Tóm lại ba chữ cùng thông lý có nghĩa là "cái lý thông suốt tột cùng" hay là "cái nguyên lý tối thượng" của hiện thực. Bản dịch tiếng Việt giữ nguyên tiếng Hán là "Cùng Thông" khiến người đọc khó hiểu ý nghĩa là gì. Bản tiếng Pháp và bản tiếng Anh thứ nhất dịch là "sự thật tột cùng" hay "tối thượng" (vérité ultime / ultimate truth) rất hay và rất đúng. Bản tiếng Anh thứ hai dịch là nghĩa vụ hay trách nhiệm (devoir / duty) là hoàn toàn sai.

 Trong câu 8 (Ngư ca nhập phổ thâm): chữ phổ có nghĩa là bến sông, bờ sông hay ven sông. Chữ này khiến liên tưởng đến hai câu tuyệt tác của Bà Huyện Thanh Quan:

Gác mái ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng mục tử lại cô thôn.

 Viễn phố có nghĩa là bến sông xa. Hình ảnh của một buổi hoàng hôn đang buông xuống với những tia nắng thấp cuối cùng, một lão già câu cá ghé vào một bến sông xa tít và một cậu bé chăn trâu gõ sừng để thúc trâu quay về một thôn ấp hẻo lánh, biết đâu cũng đã mở ra một bầu không gian mênh mông và gợi lên sự quay về một nơi nào đó thật êm ả và sâu kín trong lòng mỗi người trong chúng ta? 

Bản tiếng Pháp dịch hai câu thơ thứ 7 và 8 là:

 Nếu bạn hỏi tôi sự thật tối hậu là gì?
 [Thì cứ hãy lắng nghe] tiếng hát của gã đi câu xa dần trong những bờ lau sậy.

Bà Huyện Thanh Quan là một thi nhân và một nhà Hán học, tất bà cũng đã từng đọc hai câu thơ trên đây của Vương Duy.

 Bản tiếng Anh thứ nhất dịch haì câu này là:

 Bạn muốn biết sự thật tối hậu là gì à?
 Đấy là tiếng hát của gã đi câu xa dần trong những bờ lau sậy.

 Bản tiếng Anh thứ hai dịch là:
 
 Bạn muốn hiểu trách nhiệm là gì à? Những gì tôi hiểu:
 Đấy là tiếng hát của gã đi câu vang xa trên dòng sông.

 Hai câu thơ của Vương Duy không những tuyệt vời trên phương diện thi pháp mà còn nói lên cả một quan điểm vô cùng sâu sắc trong Phật Giáo: đó là tính cách vô nghĩa trong tất cả các sự thắc mắc của con người. Ngôn từ cũng chỉ là các quy ước giả tạo và hạn hẹp. Một trong các phương pháp trong giáo lý nhà Phật giúp đánh thức con người và đưa họ ra khỏi những sự vướng mắc quy ước và khái niệm, là cách đánh lạc hướng tâm thức họ và cắt đứt dòng tư duy vô minh đang khuấy động họ, bằng một sự yên lặng tuyệt đối hoặc bằng cách bất ngờ chuyển tâm thức họ và dòng tư duy của họ sang một thứ gì đó thật phi lý. Đấy là cách giải đápđồng thời cũng không giải đáp những thắc mắc đang bùng lên trong đầu họ. Hai câu thơ trên đây của Vương Duy xứng đáng là một công án Thiền Học với tất cả ý nghĩa của nó.

 

Hoang Phong

Bures-Sur-Yvette, 31.01.14 (mùng một Tết Nhâm Ngọ)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14156)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39724)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15322)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13888)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13939)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37355)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40075)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14644)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14317)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12660)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14846)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19226)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13800)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42643)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13846)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37272)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12696)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11777)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22553)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12516)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12576)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13070)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13119)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17280)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33272)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14842)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11049)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12465)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11967)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11939)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13148)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51282)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12392)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6620)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30435)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13131)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13337)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30704)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19385)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12487)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11859)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14771)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13208)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13204)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30708)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12046)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11842)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12732)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31918)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29427)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11792)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11755)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10438)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11566)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9648)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9671)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 10007)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35425)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10167)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10105)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10061)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9671)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27822)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15510)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9867)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13689)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9853)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9705)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18345)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12048)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9579)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9700)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8723)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8926)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8425)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11485)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31759)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12340)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13334)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8836)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9452)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11952)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9238)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9082)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9676)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29378)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9088)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9115)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33278)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8438)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30638)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31252)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37147)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32290)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9939)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27118)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8456)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19249)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 13019)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
(Xem: 9791)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant