Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đường Về Cõi Phật A Di Đà

03 Tháng Hai 201507:50(Xem: 9450)
Đường Về Cõi Phật A Di Đà

Đường Về Cõi Phật A Di Đà


Cư sĩ Trúc LâmAn Bình

(thuyết giảng tại Tự Viện Linh Sơn Pháp quốc, tháng 5/1985)
=====================

 


I. Dẫn nhập:

Kinh Đại Bổn Di Đà nói: Một hôm Đức Phật Thích Ca dung nhan khác lạ, ngài A Nan mới hỏi có nhân duyên gì mà Đức Thế Tôn hoan hỷ như vậy? Đức Phật nói có pháp môn niệm Phật Di Đà rất thích hợp với chúng sanh, đặc biệt vào thời mạt pháp khi căn cơ chúng sanh bị giới hạn đi nhiều và bất cứ ai cũng có thể trì niệm được. Đây là nguyên do đầu tiên.

Bà Vaidehy cùng vua Bimbisara có sanh một vị hoàng tử tên là A Xà Thế, người con này vô cùng ngỗ nghịch, không bao giờ nghe lời chỉ dạy của phụ vương cũng như mẫu hậu. Ông nghe lời Đề Bà Đạt Đa (y nói rằng trong Đạo có Phật Thích Ca là lớn nhất, ngoài đời có vua Tần Bà Sa Lauy quyền hơn cả) về nhà bắt giam vua cha vô cớ. Hay tin này, bà Vaidehy rất đau khổ mới xin những người gác ngục vào thăm vua. Để có thể mang đồ ăn thức uống vào cho vua đang bị giam, bà lấy trái Ampala lớn như trái ổi (loại trái cây này chỉ có bên Ấn Độ) giả như mang một xâu chuổi, trong đó hoàng hậu để các đồ cần dùng no lòng. Cứ thế nhiều ngày trôi qua, tuy nhiên, sự việc này cuối cùng bị A Xà Thế phát giác và điều tra, sau đó bắt và hạ ngục luôn bà mẹ của mình.

Trong ngục tối của thành Vương Xá dưới chân núi Linh Thứu, mỗi đêm bà đều hướng lên Linh Sơn để cầu nguyện với Đức Phật: «Làm sao Thế Tôn cho con sống trong một thế giới nào không có những đứa con ngỗ nghịch!» . Đức Phật ở trên núi Linh Thứu mới phóng quang cho bà thấy cả 10 phương thế giới. Từ đó bà mới chọn cảnh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, có Phật Di Đà đáng kính đáng về (đây là theo nhân duyên cảm nhận, thực sự 10 phương Phật, phương nào cũng là cực lạc, cõi Phật nào cũng đều nên về cả). Bà phát nguyện khi xã báo thân này là sẽ về cõi Phật A Di Đà. Đây là nguyên do thứ hai.

Trong kinh nói rằng, Đức Phật Di Đà luôn luôn chờ đợi để tiếp đón chúng sanh lên 9 phẩm sen vàng, phần còn lại là ở nơi chúng sanh có muốn về cõi Phật hay là không.

II. Định nghĩa, đại nguyện, và cảnh giới:

Namo Amitàbha Buddha hay Nam Mô A Di Đà Phật nghĩa là Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang, Vô Lượng Công Đức.

Namo nghĩa là quy mạng, nương về ở đây dịch âm từ tiếng Bắc Phạn, Tàu dịch là Nam Vô, người Việt đọc là Nam Mô; Amitàbha là Vô Lượng Thọ (mạng sống lâu không thể lường), Vô Lượng Quang (sáng suốt vô cùng tận), Vô Lượng Công Đức (ngài tu hành không biết bao nhiêu kiếp nên công đức không thể nào lường được); Buddha là Phật hay Phật Đà (là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, người nào có đủ ba hạnh đều gọi là phật cả). Trong mỗi chúng ta có sẵn những đức tánh vừa nêu trên, nhưng từ nhiều đời nhiều kiếp trở lại đây nó đã bị bụi trần vô minh che lấp, nên không thấy được. Đức Phật dạy ta pháp môn niệm Phật Di Đà nhằm hướng dẫn ta trở về con đường nầy, hơn nữa sự trở về này dù cho có Phật Di Đà làm trợ duyên tốt, nhưng trước tiên chính là mỗi người trong chúng ta cần phải đầu tư thật nhiều cố gắng, thì mới có thể về được cõi Phật.

Cõi Phật Di Đà hay là Tịnh Độ có nhiều tên gọi khác nhau như Cực Lạc, Tây Phương, An Dưỡng Quốc, An Lạc Quốc. Cảnh trí cõi Tịnh cho chúng ta thấy rằng chánh báo nào thì y báo nấy. Chánh báo là chỉ cho Đức Phật Di Đà, Y báu là cõi nước. Chánh báu là phước báu chánh của vị đó, còn Y báu là phước báu nương theo vị đó. Khi ta đã biết được cảnh trí Tịnh độ rồi (diễn tả chi tiết trong Kinh A Di Đà), thì mới hết lòng cầu về cõi Tịnh.

Nguyện về tịnh độ một nhà
Hoa sen chín phẩm là cha mẹ mình
Hoa nở rồi biết tánh linh
Các ông Bồ Tát bạn lành với ta.

Khi chúng sanh chưa giác ngộ thì các vị Bồ Tát là cao, còn khi ta ngộ (sinh về Tịnh độ) thì các ngài là người bạn lành của chúng ta. Chúng ta muốn thật sự gia đình được đoàn tụ (không phải sau khi chết rồi, mỗi người mỗi nẻo luân hồi), thì chỉ nên đi một đường này. Tất cả chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả (Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu – chín phẩm hoa sencha mẹ). Khi chúng ta bắt đầu niệm Phật tại đây thì trong Ao Thất Bảo bên Tịnh độ hiện lên một hoa sen ghi danh hiệu của ta ở trên đó. Khi niệm Phật phải phát tâm Chánh Tín rằng chư Phật không bao giờ nói dối chúng sanh; hơn nữa phải tin tưởng giáo pháp của Phật đã chỉ dạy trong các kinh điển, và quan trọng hơn cả là phải tự tin nơi chính bản thân của mình. Còn nếu có người vẫn niệm Phật nhưng lòng còn nghi, thì sau khi chết sanh về nghi thành, và ở đó trong nhiều tháng, đây là lời trong Kinh Đại Bổn Di Đà đã ghi. Do đó nhất định không thể nào nghi được, phải có một ý chí sắt đá tin tưởng vào sự trì niệm danh hiệu Phật Di Đà và cầu sanh Tịnh độ. Muốn về Tịnh độ phải trang bị tư lương thật đầy đủ. Tư nghĩa là thực hành các loại công đức khác nhau, như làm lành lánh dữ (thọ Tam Quy trì ngũ giới), giúp đỡ kẻ yếu binh vực người ngay (ở đây cần hiểu rộng ra là người Phật tử ngoài chuyện tụng kinh niệm Phật, còn phải đóng góp tâm trí vào việc cứu vớt dân tộc Việt ra khỏi ách nạn cộng sản); Lương nghĩa là hành trang niệm Phật tụng kinh một cách chí thành khẩn thiết. Ngài Huệ Viễn là vị Tổ sư của pháp môn Tịnh độ dạy rằng: «Thà về Tịnh độHạ phẩm, còn hơn lên các cõi trời, vì lên trời còn bị đọa sau khi hết phước». Khi về Tịnh độ thì thần thức ta ở trong hoa sen, hoa nở mới gặp được Phật A Di Đà, tại đây sẽ được bậc Bất thối chuyển, không có thân tướng nam nữ khác biệt.

Còn về cảnh trí Tịnh Độ thì mỗi nơi chốn tiêu biểu cho số 7. Cho nên mới nói về đến Tây phương Tịnh độ được tắm ao thất bảo. Tắm ao thất bảo này để trừ thất bất khả tỵ (bảy việc không thể tránh khỏi) như: 1/ Sanh (theo nghiệp lành dữ), 2/ Già (tuổi lần xế chiều), 3/ bịnh, 4/ chết, 5/ tội (khổ quả tội nghiệp), 6/ phước (khổ quả thiện nghiệp), 7/ nhơn duyên (hòa hợp sanh ra, họa phước giàu nghèo). Ngoài ra còn có hương ngũ phận, lưu ly có đất sáng ngần, ma ni có nước trong ngần chảy quanh, thất trân có 7 lớp thành, 7 hàng cây báu 7 hàng lưới châu, có ngân các có kim lầu, có chim nói pháp nhiệm mầu dễ nghe; Nghe rồi tỏ đạo bồ đề các ông Bồ tát bạn lành với ta. Do đó ta thấy rằng cõi chúng ta ở là Ta bà đầy cảnh khổ đau, dầu có phước đức như thế nào đi nữa thì cũng không thoát khỏi sanh, lão, bịnh, tử.

Trong tất cả các pháp hội khi Đức Thế Tôn còn tại thế, tất cả các bộ kinh ngài thuyết đều do có người hỏi cả; đặc biệt bộ Kinh Di Đà thì ngài đã vô vấn tự thuyết (không hỏi mà nói), như trong kinh tiểu bổn Di Đà, Đức Phật kêu ngài Xá Lợi Phất mà nói về công đức của bộ kinh này. Pháp môn Tịnh độ chỉ cho chúng ta đi về con đường an vui, sự trình bày của tôi hôm nay để cùng nhau đi về thế giới thanh tịnh an vui mà chư Phật, chư vị Tổ sư đã đi trước chúng ta một thời gian khá dài. Thế giới Tịnh độ thực ra không xa nơi chúng ta đang cư ngụ, nếu ta giác ngộ thì thế giới đó ở ngay chính trong ta, nên có một câu nói là Duy Tâm Tịnh Độ (nghĩa là muốn trở về cõi Tịnh thì trước nhất Tâm của ta phải Tịnh, vì Tâm tịnh tức Phật độ tịnh), là ở ý nghĩa đó. Đức Phật Di Dà rất từ bi, ngài phát 48 lời đại nguyện và lúc nào cũng đưa tay sẳn sàng tiếp đón thần thức của ta về với quốc độ của ngài, nhưng nếu tâm ta chưa thanh tịnh thì chưa thể nào về cõi Tịnh được.
Do vậy người niệm Phật phải luyện tập hằng giờ, hằng ngày, hằng tháng cho được thuần thụcnhất tâm. Trong các bài sám có câu «Một lòng mỏi mệt không nài, cầu về tịnh độ ngồi đài liên hoa, cha lành vốn thiệt Di Đà, soi hào quang tịnh chói lòa thân con…». Nếu niệm Phật không tinh tấn thì không thể nào về được cõi Tịnh, và mọi người đều biết rằng ai ai cũng đều phải chết, có một vị Tổ sư nhắc rằng «Chớ đợi đến già mới niệm Phật, thiếu chi mồ trẻ đã qua đời». Khi chết ta phải tìm con đường để đi, điều cần yếu là đừng trở lại chốn này. Trong chúng ta đây là những người có được phước, so với đồng bào ta ở trong nước đang phải sống rất khổ cực dưới chế độ cộng sản, cho dù đủ ăn đủ mặc nhưng vẫn phải chịu những cái khổ khác không sao tránh khỏi, vì đây là thế giới đầy sự đau khổ, trong đó chúng sanh lấy khổ cho là vui, thân chịu trong cảnh khổ không tìm cách thoát ly. Về với Phật Di Đà là để có cơ duyên thuận tiện để tu hành chứ không phải về tới Tịnh độ là được thành Phật ngay, cho nên có 3 phẩm hóa sanh (thượng, trung và hạ) là ở nơi công đức tu trì của hành giả mà thôi.

Đức Phật thuyết giảng hơn tám muôn bốn ngàn pháp môn, nhưng ngài nói pháp môn niệm Phật Di Đà và cầu sanh Tịnh độBất Nhị Pháp Môn (nghĩa là pháp môn có một không hai), các pháp môn khác đều phải tự lực trước; riêng pháp môn này khi bắt đầu trì niệm hồng danh Đức Phật Di Đà, thì người trì niệm đã được an trụ trong hào quang, cũng như sự che chở của ngài, sự việc này đến do nơi 48 đại nguyện phát ra trước đây. Lời nguyện thứ 18 nói rằng: «Có chúng sanh nào, muốn sanh đến thế giới của ngài, chí thành tâm thiện chí thành tâm niệm danh hiệu của ngài 10 lần. Nếu người đó không sanh về cõi ngài thì ngài không chứng bực chánh giác». Do đó ta thấy pháp môn nầy nhờ vào đại nguyện của đức Phật Di Đà và các bực thánh chúng, đặc biệt là rất phổ cập và không khó để hành trì, hàng Phật tửtại gia hay xuất gia, gặp nhau nơi nào đi nữa, câu nói đầu tiên thoát ra từ cửa miệng là A Di Đà Phật!

III. Tư lương, điều kiệnkết luận:

Dưới đây là một vài điều kiện căn bản để làm tư lương trên đường về cõi Phật A Di Đà :

1/ Sự kiện trên có ý nghĩa đặc biệt nhằm gợi lại Phật tánh sẳn có nơi mỗi người (bản tánh của ta vốn sáng suốt, nhưng bị vô minh che lấp từ nhiều đời nhiều kiếp trở lại); thứ hai nhắc nhở tới bình đẳng Phật tánh giữa tất cả mọi loài cùng mười phương chư Phật. Cho nên trì niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà tức là tưởng nhớ tới danh hiệu của 10 phương chư Phật. Nhưng muốn thành tựu công đức này, một điều không thể nào quên được, đó là phải có niềm tin. Vì có niềm tin nên mới trì niệm, có niềm tin nên thực hành, và có niềm tin mới đi đến kết quả sau cùng. Cho nên mới nói rằng: Tín vi đạo nguyên công đức mẫu, Tín năng trưởng dưỡng chư thiện căn, Tín năng siêu xuất chúng ma lộ, Tín năng đắc nhập tam ma địa, Tín năng giải thoát sanh tử hải, Tín năng thành tựu Phật bồ đề. Bởi thế cho nên Nhân Vô Tín Bất Lập. Người tu niệm tin Phật không bao giờ nói dối chúng đệ tửthân khẩu ý của ngài đã thanh tịnh; tin Pháp là chơn lý không bao giờ dời đổi; tin sức mạnh của bản thân sẽ được đi về Tịnh độ. Tất cả chúng sanh đều có tánh Phật, tiềm ẩn tự tánh Di Đà, và tâm Tịnh độ, cho nên, ta phải chí thành tin tưởngtrì niệm mỗi ngày để ngày nào khi tắt thở, thì thần thức này đương nhiên sẽ đi về cõi Tịnh độ mà thôi.

2/ Về mặt phát nguyện phải hết sức thành khẩn, kinh Di Đà nói chúng sanh mong muốn về cõi Tịnh độ để thấy Phật Di Đà cũng như con mong muốn được gặp mẹ. Cho nên có câu trong bài sám tụng như sau: «…đã sanh về chín phẩm sen, mấy tai cũng xẩy, mấy duyên cũng tròn, Phật như thể mẹ tìm con, con mà gặp mẹ lại còn lo chi, lầu vàng đài các thiếu gì, ăn thời cơm ngọc, mặc thời áo châu, không ơn không oán không sầu, không già không chết có đâu luân hồi…». Qua đó ta thấy rằng Đức Phật giống như một bà mẹ hiền lúc nào cũng muốn đưa chúng ta về cảnh giới an lành, còn về hay không là tùy ở nơi mỗi người chúng ta. Chư vị thiền đức đã nhắc chúng ta rằng nơi cõi chúng ta đang sống là một cảnh chiêm bao lớn. Trong giấc chiêm bao lớn này, sống chếtchiêm bao nhỏ, khi giác ngộ rồi thì đại địa vô thốn thổ (cả trời đất bao la này không còn gì cả), vì chúng ta chưa ngộ nên cho tất cả mọi chuyện chung quanh đều là thật cả. Phải phát tâm mong muốn hết lòng, cầu về gặp cho bằng được bà mẹ hiền (Đức Phật Di Đà) đã chờ ta từ vô lượng kiếp tới nay.

3/ Mỗi ngày cần siêng năng niệm Phật để chuẩn bị tư lương đường về cõi Phật. Tư lương này ví nhưcông đức của ta cần tích lũy cho mai sau khi ta nhắm mắt lìa trần. Khi xa lìa thế gian chỉ có tư lương này là có thể đem theo ta vĩnh viễn, còn tiền bạc mà ta tạo dựng hay dành dụm khi còn sống thì không thể nào đem theo được; như Kinh Pháp Hoa có phẩm Thí Dụ ghi lại câu chuyện ông nhà giàu vì muốn cứu các người con mê muội quây quần chơi giỡn trong nhà lửa nên dùng các thứ xe làm phương tiện để cứu các con thoát chết. Khi các người con được ra khỏi nhà lửa (tam giới) thì người cha bảo đó chỉ là phương tiện để cứu các con mà thôi. Ở nơi đây cũng thế, pháp môn niệm PhậtĐức Phật thuyết giảngphương tiện để cứu vớt chúng sanh ra khỏi luân hồi (tam giới) và về cõi Tịnh. Về sự thực hành thì tôi đề nghị như sau: «mỗi ngày đêm 24 tiếng đồng hồ để lo toan việc đời cũng như ngũ nghĩ, cần để riêng 30 phút hoặc tối hay sáng tùy theo hoàn cảnh, ai đủ thời giờ thì trì niệm cả hai thời sáng và tối càng tốt.Trong nhà thờ Phật Di Đà, sau khi vào kinh tụng tiểu phẩm Di Đà, đến khi hồi hướng thì nguyện con tên…pháp danh…phát nguyện trì niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà khi xả báo thân này được sanh về tây phương cực lạc thế giới. Lưu ý là nên thực hành đều đặn, không nên hôm làm hôm nghĩ và cần có một xâu chuổi để niệm Phật. Trong kinh còn nhắc nhở rằng tu hành mà không phát nguyện thì khó mong thành tựu đạo quả.

Có 4 phương pháp thực hành:

1/ Trì danh niệm Phật: gìn giữ danh hiệu đức Phật, cũng như suy nghĩ về sự sáng suốt của ngài, vì không niệm Phật thì sẽ niệm chúng sanh. Đây là phương pháp niệm Phật ra tiếng (Sự niệm Phật).
2/ Quán tưởng niệm Phật: quán tưởng hình tượng Đức Phật Di Đà phóng quang mà niệm. Chú ý nên để hình tượng Phật Di Đà trước mặt để niệm Phật (Sự niệm Phật).
3/ Tham cứu niệm Phật: niệm một câu Nam Mô A Di Đà Phật phải tham khảo cứu xét mà niệm. Quan niệm rằng niệm Phậtniệm Tâm, niệm Tâmniệm Phật. Vì Tâm, Phật, cập chúng sanh ba việc đó không có sai khác. Vì không sai khác nên mới tham cứu, niệm từ nơi tâm, tâm ta là Phật. Phật tức tâm, tâm tức Phật. Chính ta có Phật, vì niệm Phật ở ngoài là niệm Phật ở trong (Lý niệm Phật). Ở phần này cho ta thấy không khác sự tham cứu thoại đầuthiền tông, đưa đến kết luận rằng Thiền và Tịnh không khác gì nhau cả. Nếu có khác là do tâm phân biệt của người tu hành mà ra, hễ có tâm phân biệt như thế thì chưa đúng là người tu thiền thật sự. Khi xưa, Bồ tát Khương Tăng Hội, vị Tỵ Tổ của Thiền tông Đông độ cũng như của Việt Nam đã cho rằng giữa thiền và tịnh độ thực ra không có gì khác biệt cả.
4/ Thật tướng niệm Phật: Trong khi niệm Phật quán sát tướng vũ trụ nhân sanh chỉ có một, không có nhiều. Khi còn mê muội thì thấy chúng nóthiên hình vạn trạng (pháp giới trùng trùng duyên khởi), còn khi giác ngộ rồi thì sơn hà đại địa vô thốn thổ. Quán sát tướng chân thật đó, thấy ra tất cả chúng sanh đều như ta không khác - ở đây Đức Phật nói Đồng Thể Đại Bi - người đau khổ tức là mình bị khổ đau. Do đó Bồ Tát Thấy Dân Kêu Ca, Do Vậy Gạt Lệ, Xông Mình Vào Nơi Chính Trị Hà Khắc Để Cứu Dân Khỏi Nạn Lầm Than mà cách đây 2000 năm đã được ghi trong Lục Độ Tập Kinh làm phương pháp hành đạo cứu nước cứu đời của các vị trí thức, nhân sĩ Phật giáo nước ta dùng làm phương châm chống lại sự xâm lăng của người Tàu phương Bắc. Truyền thống này còn lưu truyềnphổ biến cho tới mãi bây giờ. Trở lại phương pháp thứ tư Thật Tướng Niệm Phật cho ta thấy là thượng chí nhất tâm bất loạn, hạ chí thập niệm thành công.

Bồ đề vừa nắm trên tay
Bao nhiêu phiền não trần lao dứt liền
Phật hiệu Di Đà gắng sức tinh chuyên
Luân hồi sanh tử không còn từ đây

Những điều cần lưu ý khi sắp lìa trần.

1/ Trên vấn đề hộ niệm: Thực hành Vô úy thí bằng cách khuyên nhũ nhẹ nhàng người sắp chết đừng suy nghĩ những chuyện thế gian nữa, hãy bỏ hết, chỉ suy nghĩ duy nhất một việc đó là con đường trở về cõi Tịnh của đức Phật A Di Đà. Cần nên nhớ rằng, trước khi sắp chết người bịnh rất yếu về mặt tinh thần giống như con cua bị bỏ trong nồi nước nóng (thí dụ như nghĩ ngợi đủ chuyện, rồi tùy theo tâm niệm lúc đó mà vào địa ngục hay là lên Tịnh độ v.v…). Chúng ta phải dặn những người tới trợ niệm khuyên người bịnh phải dũng mãnh, và luôn nhớ Phật Di Đà.

2/ Cách bày biện trong căn phòng: cần tôn trí một hình Phật A Di Đà đang phóng hào quang tiếp dẫn, nơi để hình Phật khiến cho người bịnh được trông thấy dễ dàng nhằm gia tăng chánh niệm, cũng như hộ niệm dễ dàng.

3/ Hạn chế sự khóc lóc: Trong việc này phải cố gắng kềm chế sự xúc động, vì càng xúc động, càng khóc lóc nhiều sẽ không lợi lạc cho sự hộ niệm, mà ngược lại cản trở cho công cuộc hộ niệm cho người sắp chết cầu sanh Tây phương cực lạc. Trong những tình huống như thế này, theo quan niệm tổng quát, khi thân nhân sắp lìa trần những người còn ở lại khóc lóc thương tiếc nhiều chứng tỏ có sự thâm tình hoặc là có hiếu đối với cha mẹ. Nhưng đối với người tu niệm Phật Di Đà, TUYỆT ĐỐI KHÔNG ĐƯỢC KHÓC, vì khóc sẽ là chướng ngại lớn cũng như làm tiêu tan công đức niệm Phật của người sắp chết. Sau khi hộ niệm xong, người thân đã lìa trần một cách êm ái, lúc đó, hãy ra nơi khác mà khóc mà bày tỏ tình thương. Dù cho người sắp chết suốt đời tu niệm Phật, nhưng lúc lâm chung mà không được hộ niệm một cách tốt đẹp, thì sẽ mai một công đức của họ, thật tiếc vô cùng. Xin hãy thận trọng ở điểm này.

Lợi ích của sự niệm Phật:
1/ Khi niệm Phật sẽ trừ được niệm chúng sanh để cho tâm hồn chúng ta được sáng suốt; 2/ Niệm Phật tội chướng được tiêu trừ, gia tăng tín tâm với Phật Pháp; 3/ Trì niệm danh hiệu đức Phật Di Đà sẽ được sanh về cõi Tịnh độ, chứng được bậc vô sanh bất thối, sau đó tùy tiện trở lại chốn này hóa độ chúng sanh.

Công đức của việc trì niệm danh hiệu đức Phật Di Đà được ghi lại trong các bộ kinh tiểu bản Di Đà, đại bản Di Đà, Thập Lục Quán, Kinh Hoa Nghiêm v.v… Hội Liên Xã ở Tàu có ngài Huệ Viễn đại sư là người hành trì pháp môn niệm Phật cũng là vị Tổ của pháp môn Tịnh độ, ngài đã biết trước ngày giờ chết của mình trước bảy ngày và thông báo cho đại chúng. Tới ngày thứ bảy, ngài Huệ Viễn ngồi an nhiên thị tịch giữa ba hồi bát nhã tiễn đưa. Tại Việt Nam chúng ta thường đề cập tới trái tim bất diệt của Bồ tát Thích Quảng Đức, đây cũng là một minh chứng hùng hồn về sự niệm Phật vãng sanh tịnh độ. Xin kể hầu quý vị liên hữu một câu chuyện vãng sanhchúng tôi được biết. Số là vị Sư tổ của tôi là Hòa thượng…(xin được miễn nêu danh tánh vì sự an toàn của thầy tôi) từ Bình Định vào Sài gòn tu hành ở những năm 30-40. Ngôi chùa mà vị Sư tổ trụ trì, khởi đầu được xây trên một nghĩa trang (sau khi được thỉnh về trụ trì, sư tổ mới biết được điều này), nên hằng đêm thường bị các linh hồn về quấy phá. Có một đêm, Sư tổ trông thấy con quỷ một giò rất lớn hiện lên và đứng nhìn vào chùa. Ngài không chút sợ hãi, đã bình tĩnh niệm Phật Di Đà một hồi lâu thì con quỷ nọ biến mất hẳn từ đó về sau. Nhờ chuyên trì kinh Pháp Hoa cũng như thành tâm niệm Phật Di Đà nên lần lần Phật tử chung quanh về hộ đạo rất đông đảo. Trước ngày thị tịch, Sư tổ bảo với Thầy tôi rằng, vào giờ ngọ trưa mai ta sẽ theo Phật, con ở lại lo liệu mọi chuyện. Quả nhiên như vậy, đúng ngọ ngày hôm sau lúc Sư tổ đang tụng kinh trên chánh điện thì chung quanh tự nhiên thoảng lên mùi hương rất nhẹ nhàng và thanh thoát, thì chính ngay lúc ấy, ngài đã quy Tây phương. Lúc đó thầy của tôi ngồi cạnh vẫn không hay, tay vẫn đều tiếng mõ, đến khi hồi kinh chấm dứt, không thấy Sư tổ đứng dậy lễ Phật thì mới biết đã viên tịch. Sau khi hỏa táng có nhặt được xá lợi, trong đó tôi có giữ một chiếc răng của Sư tổ mà thầy tôi đã cho cách đây hơn 20 năm khi rời khỏi Việt Nam. Chiếc răng xá lợi này hiện tôi vẫn còn tôn thờ cẩn thận.

Thưa quý liên hữu vừa rồi chúng tôi đã trình bày một cách khái quát phương pháp cũng như nguyên nhân mà Đức Từ Phụ của chúng ta đã từ bi ban bố cho chư Phật tử pháp môn niệm Phật Di Đà có một không hai này. Để khỏi phụ lòng của ngài, và cũng để thoát khỏi cảnh khổ sanh tử luân hồi, chúng ta hãy cùng nhau phát nguyện cầu sanh Tây phương cực lạc thế giới của Đức Phật A Di Đà vì :

Ái hà thiên xích lãng
Khổ hải vạn trùng ba
Dục thoát luân hồi khổ
Tảo cấp niệm Di Đà

Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật tác đại chứng minh

Cư sĩ Trúc LâmAn Bình cẩn kính.

Hoằng pháp thị gia vụ
Trí tuệ vi sự nghiệp

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14153)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39719)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15320)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13885)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13933)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37342)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40069)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14642)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14314)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12658)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14839)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19226)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13798)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42629)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13842)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37270)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12684)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11772)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22551)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12515)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12575)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13068)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13115)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17269)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33260)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14839)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11048)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12462)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11965)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11937)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13142)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51271)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12391)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6618)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30425)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13130)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13336)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30687)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19373)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12481)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11852)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14767)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13198)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13202)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30702)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12043)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11837)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12729)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31911)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29420)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11789)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11754)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10435)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11566)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9645)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9670)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9994)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35411)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10160)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10099)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10053)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9664)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27813)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15504)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9864)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13687)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9849)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9698)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18331)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12046)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9575)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9695)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8723)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8919)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8421)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11484)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31749)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12337)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13323)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8832)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9446)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11946)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9233)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9077)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9673)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29373)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9080)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9109)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33272)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8435)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30630)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31243)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37136)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32276)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9936)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27108)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8454)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19247)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 13017)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
(Xem: 9787)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant