Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Một Câu A Di Đà Phật Niệm Đến Cùng

21 Tháng Giêng 201506:34(Xem: 11086)
Một Câu A Di Đà Phật Niệm Đến Cùng

 

MỘT CÂU A DI ĐÀ PHẬT NIỆM ĐẾN CÙNG


Pháp Sư Tịnh Không


Một Câu A Di Đà Phật Niệm Đến CùngChào chư vị đồng tu! Chúng ta xem tiếp đoạn thứ năm ở trong đoạn lớn này: “A Di Đà Phật thị vạn đức hồng danh, dĩ danh chiêu đức, khánh vô bất tận. Cố tức dĩ chấp trì danh hiệu vi chánh hạnh, bất tất canh thiệp quán tưởng, tham cứu đẳng hạnh, chí giản dị chí trực tiếp dã”. Đoạn nhỏ này là bảo với chúng ta chỗ thù thắng bất tư nghì của pháp môn này. Đây đích thực là pháp môn khó tin, quá dễ dàng, quá đơn giản, rất nhiều người tiếp xúc mà không cách gì tiếp nhận được.

A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức. Đây là tiếng phạn, nếu như theo ý nghĩa của mặt chữ mà dịch thì A dịch thành Vô, Di Đà dịch thành Lượng, Phật dịch thành Giác hoặc dịch thành Trí. Dịch hoàn toàn qua ý nghĩa tiếng Trung QuốcVô Lượng Trí, Vô Lượng Giác. Quí vị thử nghĩ về danh hiệu này, Vô Lượng Trí là bản thể của tự tánh, Vô Lượng Giácđức dụng của tự tánh, bao gồm hết rồi! Đại đức xưa gọi đây là vạn đức hồng danh, danh hiệu của thể đại dụng chân như tự tánh toàn.

“Dĩ danh chiêu đức, khánh vô bất tận”. Danh và thực nhất định tương ưng. Chúng ta niệm cái danh hiệu này là chiêu đức của ai vậy? Chiêu tự tánh của chính mình, chiêu tánh đức của chính mình. Hay nói cách khác, dùng một câu danh hiệu này đánh thức tự tánh của chúng ta, tìm trở lại tánh đức của chúng ta. Thể dụng của tự tánh chúng ta hoàn toàn không bị mất, mà chỉ bị làm sao vậy? Chỉ mê mất mà thôi. Dùng một câu Phật hiệu này để phá vỡ cái cửa mê này, đánh thức trở lại thể dụng của tự tánh chúng ta. Nếu như bạn hiểu rõ đạo lý này, thì bạn sẽ quyết chí một lòng chấp trì danh hiệu, bạn mới hiểu được danh hiệu này, pháp môn này, không thể tìm ra thêm một pháp môn nào khác có thể thù thắng hơn nó được. Hơn nữa, nó rất dễ dàng, rất đơn giản. Tất cả mọi thứ của khắp pháp giới hư không giới toàn bộ bao gồm trong đó, khánh vô bất tận.

Ở trong Phật pháp có hai câu nói, nếu như chúng ta thật sự có thể thể hội được, bạn sẽ hiểu rõ, đó là: “Tâm bao thái hư, lượng khắp pháp giới”. Hai câu nói này chúng ta nghe rất quen, cũng nói được, nhưng có nghĩa là gì vậy? Người đích thực có thể thể hội được không nhiều. Đây là toàn bộ pháp giới, người hiện nay gọi là vũ trụ, trong Phật pháp gọi là pháp giới. Danh từ pháp giới này hay hơn vũ trụ, tại sao vậy? Vũ trụ thì không có linh tri, ở trong pháp giới có linh tri; Pháp giới là sống, còn vũ trụ không phải sống, cho nên danh từ pháp giới này hay hơn vũ trụ. Phạm vi của vũ trụ không lớn bằng pháp giới, vì pháp giớitrùng trùng vô tận, ở trong pháp giới không có lớn nhỏ, không có đến đi, không có trước sau, không có sinh diệt, không có có không, kỳ diệu tuyệt vời, không thể nghĩ bàn. Ở trong vũ trụ không hàm chứa những tư tưởng này ở trong đó. Danh tướng của Phật học thù thắng.

“Danh dĩ chiêu đức”. Danh hiệu A Di Đà Phật này là tổng danh hiệu, ở trong Phật pháp gọi danh từ thuật ngữ, đây là tổng danh hiệu. Tất cả mọi danh hiệu chư Phật đều từ đây lưu xuất ra, tất cả mọi danh hiệu Bồ-tát cũng từ đây lưu xuất ra, tất cả mọi danh hiệu của chúng sanh vẫn không lìa khỏi nó. Đây là trong kinh Hoa Nghiêm nói, chúng ta đã đọc qua ở trong phẩm danh hiệu Như Lai.

“Tức dĩ chấp trì danh hiệu vi chánh hạnh”. Pháp môn Tịnh-độ, vãng sanh thế giới Tây Phương Cực-lạc, phải tu như thế nào? Chánh hạnh. Tu hành chính thức chính là niệm Phật. Phật pháp phải phá chấp trước, pháp môn này vẫn cứ dùng chấp trước, chính là chấp trước danh hiệu; ngoài câu danh hiệu ra, tất cả mọi chấp trước khác đều buông xả, không chấp trước thêm nữa, chính là chấp trước danh hiệu này, gìn giữ cái danh hiệu này niệm niệm không mất, gọi là trì. Niệm niệm đều là A Di Đà Phật, đó chính là trì. Nhớ kỹ, A Di Đà Phậtvô lượng trí, vô lượng giác, niệm niệm giác chứ không mê, niệm niệm chánh chứ không tà, niệm niệm tịnh chứ không nhiễm, đây chính là tự tánh A Di Đà, tự tánh tam bảo. Tam bảomột thể, một mà ba, ba mà một. Những quán tưởng, tham cứu, trì chú, nghiên cứu giáo lý khác thảy đều không cần, không nên xen tạp những thứ này, chính là một câu Di Đà niệm đến cùng, chí giản dị. Chí là đến chỗ tột cùng, đơn giản đến tột cùng, dễ dàng đến tột cùng. Đơn giản dễ dàng, hơn nữa nó còn trực tiếp, không vòng vo. Trực tiếp đến đâu vậy? Trực tiếp đến minh tâm kiến tánh, trực tiếp đến vô thượng chánh đẳng chánh giác, trực tiếp đến Phật quả cứu cánh viên mãn.

Có người hỏi, không phải người hiện nay, mà người xưa đã có người hỏi, đến thế giới Tây Phương Cực-lạc còn tu pháp môn gì nữa? Đậu cơ thuyết giáo, tức là bạn muốn tu pháp môn nào, bạn liền có thể thành tựu được pháp môn ấy. Ưa thích, vậy là quá hay. Thành thật mà nói với bạn, đến thế giới Tây Phương Cực-lạc rồi bạn sẽ thay đổi ý định. Đổi ý định gì vậy? Một câu A Di Đà Phật này niệm đến cùng, không tu thêm pháp môn khác nữa. Tại sao vậy? Một câu A Di Đà Phật này đã bao gồm tất cả pháp môn ở trong đó rồi. Cũng tức là nói, vạn pháp quy về một. Một chính là tự tánh. A Di Đà Phật chính là tánh thể, tánh đức, tánh tướng, tánh dụng, chỉ cần bạn khế nhập cảnh giới. Đây là kinh luận các tổ sư đại đức nói rất hay. Nếu như bạn niệm Phật, niệm đến lý nhất tâm bất loạn, thì tất cả pháp thế xuất thế gian tự nhiên thông đạt cả, bạn cần phải học nữa hay không? Bất kể pháp môn nào, có người thỉnh giáo bạn, bạn đều đối đáp trôi chảy, không cần phải suy nghĩ. Cái này kỳ lạ, cái này không thể nghĩ bàn. Trên thực tế không có gì kỳ lạ cả, nguyên nhân gì vậy? Pháp thế xuất thế gian đều do tự tánh biến hiện ra. Đã là tự tánh biến hiện ra, chỉ cần bạn kiến tánh được rồi thì đâu có lý nào mà không biết. Bạn đối với tất cả các pháp không hiểu, không biết, nguyên nhân căn bản là gì vậy? Là bạn đã mê mất tự tánh. Một câu A Di Đà Phật này khi niệm đến lý nhất tâm bất loạn, triệt kiến tự tánh, viên kiến tự tánh, thì vấn đề chẳng phải đã giải quyết rồi sao, bạn còn đi tìm phiền phức khác sao?

Thế gian này có một số người không biết, nên thiền tịnh song tu, mật tịnh song tu, còn có gì nữa vậy? Thiền mật tịnh tam tu. Thông thường người thế gian chúng ta nghe xong, mới nghe đến, cái này tuyệt quá, cao siêu! Kỳ thực, người trong nghề biết họ đang lòng vòng. Mặc dù có thể thành tựu, nhưng thành tựu của họ không đủ sâu, tại sao vậy? Tinh thần, sức lực của họ bị phân tán rồi. Họ phân thành hai mặt, phân thành ba mặt, họ không chuyên! Nếu bạn muốn nhanh, hãy chuyên công phu một môn, một mục tiêu, một phương hướng, sẽ nhanh! Không có gì nhanh hơn cái này. Cùng lúc đi hai đường, cùng lúc đi ba đường thì khó lắm, không dễ đâu, lại chậm chạp nữa! Pháp môn này đơn giản thẳng tắt thành đạo vô thượng. Chúng ta phải nhận thức rõ ràng, chỉ có thật sự hiểu rõ thì niềm tin mới kiên cố, nguyện mới không nghi, dứt khoát không đổi. Pháp môn không thể nghĩ bàn.

Xem tiếp phía dưới đoạn thứ sáu: “Biệt minh tam tuệ”. Tam tuệ, cái mà Bồ-tát đại thừa tu là văn, tư, tu tam tuệ. Ở đây chia thành ba đoạn nhỏ. Đoạn nhỏ thứ nhất: “Cụ túc tam tư phương danh văn tuệ”. Cái này rất hiếm có. Nguyên văn ở trong Yếu Giải là: “Văn nhi tín, tín nhi nguyện, nguyện nhi năng trì”. Chính là chịu chấp trì. Bất tín bất nguyện thì bằng với không nghe. “Tuy vi viễn nhân, bất danh văn tuệ”, đây là nguyên văn của Yếu Giải. Văn tuệ nhất định phải đầy đủ ba điều kiện văn tư tu. Nếu như không đầy đủ ba điều kiện này, bạn chỉ có nghe không thể gọi là tuệ. Cái tam tuệ này bạn có thể gọi văn, gọi tư, gọi tu, không có chữ tuệ. Phàm phu có văn, tư, tu không có tuệ. Không những phàm phu không có, nói thêm với quí vị, nhị thừa cũng không có. Nhị thừa tu tam học giới, định, tuệ, Bồ-tát tu văn, tư, tu tam tuệ. Bồ-tát cao hơn nhị thừa. Tam tuệ là tuệ gì vậy? Tam tuệ chính là tuệ của giới, định, tuệ. Không có giới, không có định thì làm gì có tuệ? Cái danh tướng thuật ngữ này nhất định phải hiểu rõ, dứt khoát không được hiểu lầm. Đến giới, định, tuệ thì trí tuệ mở rồi. Do giới được định, do định khai tuệ, trí tuệ mở rồi. Trí tuệ áp dụng vào trong đời sống thường ngày, áp dụng vào công việc, áp dụng trong ứng xử với người với vật, hoàn toàntrí tuệ. Đời sống ở trong trí tuệ, đây gọi là tam tuệ, văn, tư, tu tam tuệ.

Văn là gì vậy? Tiếp xúc. Mắt tiếp xúc sắc tướng, tai tiếp xúc âm thanh, mũi tiếp xúc mùi vị, sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần bên ngoài, vừa tiếp xúc liền biết rõ. Thông đạt biết rõ đây gọi là văn tuệ. Văn là đại biểu cho tiếp xúc, dùng một chữ làm đại biểu. Sáu căn tiếp xúc cảnh giới bên ngoài đều gọi là văn. Tuệ là biết rõ, thông đạt biết rõ, ở trong biết rõ dứt khoát không có sai lầm. Từ tiếp xúc đây là văn, từ biết rõ gọi là tư. Phàm phu chúng ta lúc nào cũng suy nghĩ, Ồ! Tôi hiểu rồi. Họ không cần tư, vừa tiếp xúc liền biết rõ. Vừa biết rõ là quyết định không có sai lầm, không có sai lầm gọi là tu. Văn tư tu là một sự việc, tuyệt đối không có ba giai đoạn. Không phải nói sau khi tôi nghe rồi mới suy nghĩ, sau khi suy nghĩ tiếp đó tôi mới tu. Đó là gì vậy? Đó là phàm phu, đâu phải Bồ-tát. Văn tư tu tam tuệ là một mà ba, ba mà một, là ở trong một sát na đó đã xong rồi, không có thứ lớp trước sau. Cái này bạn mới biết đây gọi là Bồ-tát. Nghe xong, thấy xong còn đi suy nghĩ, đây không phải Bồ-tát. Nhị thừa thì được. Tuyệt đối không rơi vào ý thức, cũng tức là hoàn toàn không có phân biệt, không có vọng tưởng, phân biệt, thông đạt tường tận. Thế giới Tây Phương Cực-lạc là đại thừa, không phải tiểu thừa, ở nơi đây giảng tam tuệ, nghe đến danh hiệu của Phật A Di Đà, vừa tiếp xúc liền tin sâu không nghi, liền phát nguyện cầu sanh, liền thật thà niệm Phật, đây gọi là văn tuệ. Họ thật thông minh, không có nghi ngờ, không có xen tạp, làm thật, họ chân thật có được thành tựu.

Chúng ta xem tiếp điều thứ hai: “Tịnh niệm tương tục, vô hữu gián đoạn, cố danh tư tuệ”. Ngẫu Ích đại sư ở trong đoạn này giảng văn tự hơi dài một chút: “Chấp trì là mổi niệm nhớ đến danh hiệu Phật, như vậy là tư tuệ”. Niệm Phật, niệm không phải niệm bằng miệng. Chữ niệm của niệm Phật không thể thêm chữ khẩu, có rất nhiều người đã thêm chữ khẩu cho nó, vậy là sai rồi, vậy là họ hoàn toàn không hiểu ý nghĩa của niệm Phật. Niệm Phật là trong tâm thật sự có Phật. Chữ niệm này của Trung Quốc là chữ hội ý. Bạn xem cách viết của chữ này, bạn phải hiểu được ý nghĩa của nó. Kim tâm, kim là hiện tại. Hiện tại trong tâm có Phật gọi là niệm Phật, không nhất định niệm bằng miệng, trong tâm bạn thật có. Trong tâm không có Phật, cửa miệng có Phật thì không linh, không có cảm ứng. Trong tâm thật sự có Phật, cửa miệng không có Phật, có cảm ứng. Thế thì tại sao niệm Phật vẫn phải niệm thành tiếng vậy? Trong tâm có Phật là tự lợi, niệm ra thành tiếng là lợi tha. Niệm Phật hiệu ra thành tiếng không phải niệm cho mình, mà niệm cho người khác nghe, niệm cho tất cả chúng sanh nghe. Ta hướng dẫn tất cả chúng sanh niệm Phật, nên niệm ra thành tiếng công đức rất lớn, tự lợi lợi tha. Không niệm ra thành tiếng, đối với người có công phu thiền định Bát-nhã tương đối sâu, họ có thể được lợi ích. Tại sao vậy? Họ thấy tướng được lợi ích. Người có trí tuệ Bát-nhã định lực rất sâu. Ở trong tâm có Phật, tướng của bạn sẽ khác. Cái gọi là: “một niệm tương ưng một niệm Phật, niệm niệm tương ưng niệm niệm Phật”. Trong tâm bạn nhớ đến Phật, thì Phật ở trong tâm bạn. Phật ở trong tâm bạn thì Phật sẽ gia trì cho bạn, tự nhiên gia trì. Thân của bạn phóng ra hào quang kim sắc, tướng mạo của bạn đoan trang hiền từ, họ có thể nhìn thấy, có thể nhìn thấy thân bạn tỏa sáng, hào quang kim sắc, nên được lợi ích. Nhưng phàm phu không được lợi ích, phàm phu nhìn không thấy, không có năng lực này. Nhưng niệm Phật thì được, phàm phu nhĩ căn là lợi nhất: “Ta bà chân giáo thể, thanh tịnh tại âm văn”. Bạn niệm ra thành tiếng thì có rất nhiều chúng sanh được lợi ích, ngoại trừ người nghiệp chướng quá sâu thì vô phương, họ không tin, họ không thể tiếp nhận. Tuy là không tin, không thể tiếp nhận, nhưng họ nghe thấy rồi. Nghe thấy gì vậy? Gieo chủng tử vào trong A-lại-da thức. Nên niệm thành tiếng thì: “Ba căn trải khắp, lợi độn đều nhận”. Đây là chỗ hay của niệm Phật.

Tâm chân thành khẩn thiết mong muốn cầu sanh Tịnh-độ, đây là tư tuệ. Đại sư nói với chúng ta, ở trong đây có sự trì, có lý trì. Trì là trì danh. Sao gọi là sự trì? Sự là ở trên sự tướng, quyết chí cầu sanh, quyết định chí nguyện của ta là cầu sanh về thế giới Tây Phương Cực-lạc. Câu dưới đây là ví dụ: “Như con nhớ mẹ”. Giống như con cái tuy ở xa, mà họ thường hay nghĩ về mẹ của mình. Họ nhớ mẹ của họ hoàn toàn không có nói ra ngoài miệng, trong tâm họ nhớ thật, không lúc nào quên. Thật sự là ở mọi lúc, ở mọi nơi, ở trong tâm họ luôn nhớ về mẹ không bao giờ rời, đây gọi là sự trì. Nhưng người hiện nay thì không được. Người bây giờ đã quên mất mẹ từ lâu rồi. Thời xưa dùng cái ví dụ này thì được, người hiện nay thì không được. Thời xưa dạy từ nhỏ, cha mẹ dạy, thầy cô dạy, người lớn dạy, quan niệm hiếu với cha mẹ thường giữ rất sâu ở trong tâm, quả thực họ niệm niệm không quên, tâm hiếu. Hiện nay từ nhỏ cha mẹ không dạy họ, ở trường thầy cô cũng không dạy, người lớn cũng không dạy, nên không biết đạo hiếu là gì. Đặc biệtxã hội hiện nay, là xã hội chủ nghĩa công lợi. Xã hội chủ nghĩa công lợi, chúng ta hãy bình tĩnhquan sát, hiện nay người trong xã hội họ cũng có một thứ không bao giờ quên, ở mọi lúc họ đều nhớ đến, họ đều mong cầu, đó là gì vậy? Tiền! Hiện nay không nên nói như con nhớ mẹ, nên nói là như người nhớ ngân phiếu. Cái này họ niệm niệm không quên, ở mọi lúc, ở mọi nơi họ đều nhớ đến nó, mẹ quên mất từ lâu rồi! Điều mong cầu duy nhất, chúng ta không học Phật không biết, cũng giống như người thế gian vậy, đây là cổ nhân nói: “Người chết vì tiền, chim chết vì thức ăn”. Ý niệm tham tiền tài ở trong xã hội hiện nay là đứng đầu, không có gì vượt qua điều này. Chỉ cần có tiền, còn cha mẹ thì quên từ lâu rồi. Không giống trước đây, người trước đây quả thật cha mẹ đứng hàng đầu, thù thắng khác, danh vọng lợi dưỡng nhiều bao nhiêu, nhưng vì cha mẹ họ thảy đều có thể xả bỏ. Hiện nay quan niệm thay đổi rồi, thời đại thay đổi rồi, không đúng rồi!

Loại thứ hai là lý trì, là từ trên lý luận: “Tâm tác tâm thị, tâm cảnh nhất như, năng sở bất nhị, tức thị lý trì”. Cảnh giới này rất cao. Tâm tác, tâm là Phật, tâm làm Phật, đây là đích thực hiểu rõ chân tướng của vũ trụ vạn hữu. Phạm vi của hai chữ “Tâm tác” này quả thật là quá rộng. Tâm tác bao gồm cái mà trong kinh Hoa Nghiêm đã nói là: “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Hoa nghiêm nói tám chữ, còn Tịnh-độ tông nói hai chữ: “Tâm tác”. Tâm đã tác gì vậy? Hư không là tâm tác. Chữ tác này tức là có thể biến hiện. Hư không là tâm tác. Tâm là năng tác, hư khôngsở tác. Sát độ, sát độthế giới, đại thế giới, người hiện nay gọi là hệ sao. Hệ sao là gì vậy? Ở trong thường thức của chúng ta ngày nay, hệ sao lớn nhất gọi là hệ ngân hà. Ở trong kinh Phật nói, hệ ngân hà là nhỏ nhất, là đơn vị thế giới. 1000 cái hệ ngân hà hợp thành một đại thế giới, gọi là tiểu thiên thế giới. Lại lấy tiểu thiên thế giới làm đơn vị, hợp 1000 cái tiểu thiên thế giới, quí vị phải nhớ kỹ, một cái tiểu thiên thế giới là 1000 cái hệ ngân hà, 1000 lại nhân lên 1000, đây là một trung thiên thế giới. Sau đó lại lấy trung thiên thế giới làm đơn vị, 1000 cái trung thiên thế giới gọi là một đại thiên thế giới. Đây là thế giới mà ở trong kinh Phật thông thường hay nói. Thuật ngữ Phật học gọi là một cõi Phật. Vì nó có ba cái 1000 là tiểu thiên, trung thiên, đại thiên gọi là tam thiên đại thiên thế giới. Đây là thế giới ở trong kinh Phật nói, không thể nghĩ bàn. Cái thế giới như vậy có phải là lớn nhất chưa? Chưa phải. Cái lớn nhất, kinh Hoa Nghiêm nói thế giới chủng. Một cái thế giới chủng, cái đại thế giới này là vô lượng vô biên. Chúng ta xem thấy ở trong phẩm thế giới thành tựu, xem thấy ở trong thế giới Hoa Tạng, phẩm thế giới Hoa Tạng là nêu ra một cái thế giới chủng. Thế giới Cực-lạc và thế giới Ta-bà chúng ta đều ở tầng thứ mười ba của cái thế giới chủng này. Ở trong một tầng này lại có vô lượng vô biên tam thiên đại thiên thế giới. Ta-bà và Cực-lạc cùng ở một tầng, không thể nghĩ bàn. Ở trong kinh Phật nói, giống như cái thế giới chủng này ở trong hư không pháp giớivô lượng vô biên, tuyệt đối không thể dùng tính toán mà có thể tính ra được. Đây là nói đại thế giới.

Ở trong thế giới có rất nhiều vô số chúng sanh. Từ đâu mà có vậy? “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”, do tâm tạo. Tâm có thể tạo, tác chính là tạo tác, nó có thể tạo. Thân của tôi, thân của bạn, thân của mọi người cũng là tâm tạo. Thân của Phật Thích-ca-mâu-ni, thân của Phật Tỳ-Lô-giá-na, thân của Phật A Di Đà cũng là tâm tạo. Tất cả vạn pháp không thể rời khỏi tâm. Tâm là năng biến, tâm là bản thể của vạn pháp. Trong kinh Lăng Nghiêm nói: “Thế giới vi trần, nhân tâm thành thể”, cái thể này chính là hiện tượng. Hiện tượng do đâu mà có? Do tâm biến, tâm hiện. Đây là tâm tác. Hiện nay chúng ta giác ngộ rồi, hiểu rõ sự việc này rồi. Tâm thị, ta hiện nay cái tâm này là tâm Phật, là Phật. Tâm tác, cái tâm đó là chân tâm, là bản tánh. Ta hiện nay vừa niệm Phật, cái tâm niệm Phật này tương ưng với tự tánh, chân tâm, bản tánh. Thị tâm tác Phật, ta phát tâm, ta nhất định phải làm Phật, vậy là tương ưng với Phật. Bạn thử xem, tâm mình vốn là Phật, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Bây giờ bạn lại muốn phát tâm làm Phật, cái nguyện vọng này của bạn sẽ không phải là trống không, ngay trong đời này bạn chắc chắn làm Phật. Tín tâm đầy đủ, không hề có mảy may nghi ngờ.

Chúng tôi thường hay nhắc nhở các đồng tu, tâm là tâm Phật, nguyện là nguyện Phật, giải là giải Phật, hạnh là hạnh Phật. Tín, nguyện, giải, hạnh phải đồng Phật. Tâm Phật là gì? Chúng ta không thể nói từ trên tánh. Nói từ trên tánh thì dứt đường ngôn ngữ, bặt dấu tâm hành, không có gì để nói, không thể nói được. Chúng ta nói từ trên sự, không nói từ trên lý, trên lý nói không được. Trên sự, tâm chân thành, thường giữ chân thành; tâm thanh tịnh, không bị bất kỳ sự ô nhiễm nào; tâm bình đẳng, không có cao thấp; tâm chánh giác, không mê hoặc; tâm từ bi, không tự tư. Nếu như chúng ta khởi tâm động niệm đều có thể hoàn toàn tương ưng với chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi, thì cái tâm này là tâm Phật. Dùng cái tâm này để niệm A Di Đà Phật, thì tâm tâm tương ưng. Tại sao vậy? Tâm của Phật A Di Đà chính là cái tâm này, cái này chính là tâm đại Bồ-đề.

Chân thành là thể, thể của chân tâm, tâm của chúng ta chân, tâm của chúng ta thành, không có một mảy hư ngụy, không hề mảy may giả dối, là bạn đã tương ưng với thể của chân tâm.

Đức của chân tâmthanh tịnh, bình đẳng, chánh giác. Tác dụng của chân tâmđại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn. Bạn đều tương ưng với thể, tướng, dụng của chân tâm, tự tánh, dùng cái tâm này niệm A Di Đà Phật, dùng cái tâm này cầu sanh Tịnh-độ, dùng cái tâm này gần gũi Di Đà, tâm cảnh nhất như. Âu Dương Cánh Vô nói: “Phật giáo không phải triết học” chính là cái ý này. Ở trong triết học tâm và cảnh là đối lập. Phật pháp không phải triết học, Phật pháp tâm và cảnh không phải đối lập, là viên dung, là thống nhất. Ở trong đại kinh Phật thường hay nói sự việc này với chúng ta; không một không khác. Bạn không thể nói nó là một, tại sao vậy? Bạn nói nó là một, tâm là tâm, cảnh là cảnh, không thể nói một. Bạn cũng không thể nói không một, không phải một. Nó là một tánh biến hiện ra. Lời nói này hơi khó hiểu. Chúng ta dùng vàng để làm ví dụ, mọi người sẽ dễ hiểu. Ví dụ bạn có một chiếc nhẫn làm bằng vàng và bạn có một chiếc vòng tay bằng vàng. Hai thứ này bày ra ở đây, bạn nói nó là một hay là hai? Nếu bạn nói nó là một, nhưng nhẫn không phải vòng tay, vòng tay không phải nhẫn. Nếu bạn nói nó là hai, nhưng đều là vàng cả mà. Nhẫn là vàng ròng, vòng tay cũng là vàng ròng, không có gì khác. Bạn không thể nói nó là hai, cũng không thể nói nó là một. Không một không khác, tâm cảnh nhất như. Chữ như là nói tánh. Ngày nay chúng ta nói tâm, nói tâm Bồ-đề: chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi là ở trong tự tánh hiện ra. Tất cả cảnh giới cũng là ở trong tự tánh hiện ra. Cảnh giới, nhỏ như cơ thể chúng ta, hoặc giả cái gắn liền nhất với cơ thể chúng ta là áo lót chúng ta mặc, gắn liền nhất. Lớn, khắp pháp giới hư không giới, đây là cảnh.

Cái tâm này của chúng ta hiện nay là tâm duyên lự, có thể tư duy, có thể tưởng tượng, chúng ta dùng tâm duyên lự. Cái tâm này là chân tâm hiện ra, là thức tâm biến ra. Toàn bộ vũ trụ, toàn bộ pháp giới, đây chính là cái gọi là cảnh, cũng là cái tâm này hiện ra, cũng là cái tâm này biến ra, không hai không khác. Năng sở không hai, câu nói này ý nghĩa rất sâu. Cái năng biếntự tánh, cái sở biến là vạn pháp. Vạn pháp là tướng, tự tánh là thể, thể không lìa tướng, tướng không lìa thể. Nếu tướng lìa khỏi thể, thì tướng không thể tồn tại. Tất cả hiện tướng phải viên mãn đầy đủ đức năng của thể tánh, hiện nay chúng ta nói nhất định đầy đủ bản năng của bản thể. Bản năng của bản thể là gì vậy? Ở trong Phật pháp gọi là linh tri, ở trong kinh đại thừa Phật nói là kiến, văn, giác, tri. Kiến, văn, giác, tri là bản năng của tự tánh, bất sanh bất diệt, không đến không đi, không có không không. Nó đã biến hiện ra tất cả vạn sự vạn vật, lớn như thế giới, nhỏ như vi trần. Nhân tâm thành thể, nó không bị mất đi đặc tính của tâm. Đặc tính của tâm chính là linh tri. Tất cả vạn vật là sống, không phải chết. Tánh là sống, nó biến ra mọi thứ, làm sao chết được? Tất cả vạn sự vạn vật, bản năng của nó có thể thấy, có thể nghe, có thể giác, có thể biết. Phàm phu chúng ta tâm ý lơ là, cho rằng những thực vật, khoáng vật này không có tri giác, sai rồi! Thảy đều có tri giác. Ở trong Phật pháp nói linh tri, không gọi là tri giác, gọi là linh tri.

Tiến sĩ Giang Bản Thắng, Nhật Bản, họ của ông là Giang Bản, không giống như người Trung Quốc chỉ một chữ, ông họ Giang Bản, tên là Thắng. Ông thực nghiệm chứng minh, chứng minh nước (nước là vật chất) có đầy đủ đặc tính của tự tánh. Lá cây cũng thảy đều đầy đủ. Vi trần cũng đầy đủ. Ông có thể thực nghiệm bùn cát đất đá. Tất cả vạn vật bạn làm thực nghiệm bạn sẽ phát hiện, thảy đều biết nghe, đều biết thấy, đều hiểu được ý của con người. Ở trong kinh Phật nói rất rõ ràng, rất sáng tỏ, ông đặc biệt dùng phương pháp khoa học thực nghiệm chứng minh ra được. Ban đầu chỉ chứng minh được một sự việc, sau đó bạn từ từ thực nghiệm, tất cả mọi vạn vật thảy đều đầy đủ bản năng của tự tánh là kiến, văn, giác, tri.

Bây giờ thời gian đã hết! A Di Đà Phật!

MỘT CÂU A DI ĐÀ PHẬT NIỆM ĐẾN CÙNG

(Trung phong tam thời hệ niệm toàn tập)

Người giảng: Lão pháp sư Tịnh Không

Giảng tại Học viện Tịnh tông Úc Châu.

Thời gian: tháng 5 năm 2003

Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ, Viên Đạt cư Sĩ

Biên tập: Phật tử Diệu Hiền

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11555)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13557)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14127)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10312)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10785)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11337)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11284)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11441)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10178)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9970)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10716)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11321)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42227)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10489)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11865)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10020)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10462)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10638)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45788)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32130)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11329)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10708)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11334)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10637)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13462)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12381)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11036)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10622)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12331)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11175)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11852)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29287)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9221)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10555)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10247)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10598)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10912)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10812)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32155)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27408)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17812)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11882)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12293)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10448)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11702)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10438)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10792)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28091)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10163)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10289)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10659)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10773)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11235)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10404)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10697)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11481)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18271)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10529)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12859)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11756)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29207)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28613)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28310)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13330)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22790)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13446)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11583)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13829)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25732)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26089)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22321)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14492)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12077)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11812)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11692)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11494)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33207)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31853)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12044)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39638)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22506)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11966)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14244)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13352)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14310)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12075)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10415)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11238)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13331)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34541)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12635)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12238)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13534)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12629)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12984)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16312)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11759)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27404)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28441)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 13431)
Phật là hoa sen, hoa sen là Phật. Khi Ngài sinh ra bước đi trên bảy đóa hoa senhình ảnh biểu đạt con đường đi đến thăng chứng qua bảy giai trình tu tập...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant