Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Dòng Truyền Thừa Mahamudra Drikung Kagyu

19 Tháng Sáu 201421:48(Xem: 11029)
Dòng Truyền Thừa Mahamudra Drikung Kagyu

DÒNG TRUYỀN THỪA MAHAMUDRA (ĐẠI ẤN)
DRIKUNG KAGYU


Ba Dòng Suối Truyền thừa tụ hội thành Dòng Drikung Kagyu
Thanh Liên dịch

drikung_kagyu_2drikung_kagyu_1

Thanka Chi tiết về Dòng Truyền thừa Thanka Vắn tắt về Dòng Truyền thừa

Sự Truyền thừa

(Ba Dòng Truyền thừa nhập thành Một)

A. Dòng Thực hành Sâu xa

Đức Phật Di Lặc truyền cho Asanga (Vô Trước), tiếp tục truyền cho Vasubandhu (Thế Thân), tới Arya Namdrole, Namdrol De, Chokgi De, Dulwai De, Khenpo Yangdak Namnangze, tới Sengha Badra, Rinchen Zangpo, Rata Pranapala, Gunamaitra, Atisha, tới Gampopa, Phagmo Drupa, tới Đức Jigten Sumgon (vị sáng lập dòng Drikung Kagyu) cho tới các vị hộ trì dòng truyền thừa hiện tại Chokyi Jugne (Chuntsang Rinpoche Hiện tại) và Thinley Lhundrub (Chetsang Rinpoche Hiện tại).

B. Dòng Quan kiến Sâu xa

Arya Nagarjuna (Thánh Long Thọ) truyền cho Chandrakirti (Nguyệt Xứng), tiếp tục truyền cho Rigpe Khuchuk, tới Kusali Lớn, tới Kusali Nhỏ, Atisha, Gampopa, Phagmo Drupa, Đức Jigten Sumgon (vị sáng lập dòng Drikung Kagyu) cho tới các vị hộ trì dòng truyền thừa hiện tại Chokyi Jugne (Chuntsang Rinpoche Hiện tại) và Thinley Lhundrub (Chetsang Rinpoche Hiện tại).

C. Dòng Kinh nghiệm Thiền định Gia hộ Sâu xa

Đức Phật Kim Cương Trì truyền cho Thành tựu giả Tilopa, tiếp tục truyền cho Thành tựu giả Naropa, tới Dịch giả Marpa, tới Đức Jetsun Milarepa, Lharje Gampopa (Dhagpo), Phagmo Drupa, Đức Jigten Sumgon (vị sáng lập dòng Drikung Kagyu) cho tới các vị hộ trì dòng truyền thừa hiện tại Chokyi Jugne (Chuntsang Rinpoche Hiện tại) và Thinley Lhundrub (Chetsang Rinpoche Hiện tại). Xem bảng ở bên trái….

drikung_kagyu_3


Gi
ới thiệu Ngắn gọn Dòng Drikung Kagyu

Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước. Dòng này được truyền trực tiếp từ Đức Phật Thích Ca Mâu NiĐức Phật nguyên thủy Kim Cương Trì (Vajradhara). Tất cả những Giáo pháp cao quý từ ba dòng truyền thừa đi đến Gampopa qua những Đạo sư hoàn toàn giác ngộ. Dòng thứ nhất được gọi là Dòng Chứng ngộ Gia trì Cao quý. Từ Đức Kim Cương Trì, nó được truyền cho Tilopa, từ Tilopa truyền tới Naropa, từ Naropa tới Marpa, từ Marpa tới Milarepa, và sau đó từ Milarepa tới Gampopa. Dòng truyền thứ hai được gọi là dòng Quan kiến Sâu xa. Dòng này đến từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và được truyền cho Nagarjuna (Long Thọ), rồi tới Chandrakirti v.v… tiếp tục tới Atisha, và sau đó từ Atisha tới Gampopa. Dòng truyền thứ ba được gọi là dòng Thực hành Tuyệt hảo. Nó đến từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và được truyền cho Manjushri (Văn Thù), từ Manjushri tới Maitreya (Di Lặc), từ Maitreya tới Asanga (Vô Trước) v.v… tiếp tục tới Atisha, và sau đó từ Atisha tới Gampopa. Gampopa nhận lãnh những giáo lý sâu xa, những khẩu truyền bí mật, các gia hộ v.v… của cả ba dòng truyền này. Sau đó tất cả những giáo lý này được Gampopa trao cho Phagmo Drupa. Mặc dù dòng Kagyu đến từ cùng một cội gốc, nhưng vào lúc đó dòng truyền thừa Kagyu được phân chia thành các nhánh khác nhau, mỗi nhánh bao gồm những giáo lý viên mãn và những gia trì giác ngộ. Như cây như ý có một cội gốc nhưng được phân chia thành những nhánh khác nhau, mỗi nhánh mang lại nhiều hoa trái kỳ diệu. Mặc dù Phagmo Drupa có hàng trăm ngàn đệ tử, Đức Jigten Sumgon là một trong những đệ tử thân thiếtchính yếu của ngài. Phagmo Drupa đã tiên tri rằng giáo lý và những gia hộ sẽ được tiếp nối bởi một Bồ Tát (Jigten Sumgon), người đã đạt được Thập Địa. Từ Phagmo Drupa, Jigten Sumgon đã nhận lãnh toàn bộ giáo lý, khẩu truyền bí mật, những giảng dạy và nhập môn, và những gia trì chứng ngộ v.v… Jigten Sumgon đã ban toàn bộ giáo lý, kể cả Sáu Yoga của Naropa, cho Gurawa Tsultrim Dorje, đệ tử chính yếu của ngài. Tất cả những năng lực, gia trìgiáo lý giác ngộ này được truyền xuống qua những Đạo sư tâm linh vĩ đại tới các vị hộ trì dòng truyền thừa thứ 37 và 36 hiện tại là Đức Drikung Kyabgon Chetsang Rinpoche và Đức Drikung Kyabgon Chungtsang. Hai vị này nằm trong số những Đạo sư tâm linh tôn quý nhất trong dòng truyền thừa Kagyu và vị hộ trì dòng truyền trực tiếp của Jigten Sumgon. Trong số các đệ tử của ngài, Đức Jigten Sumgon đã tiên tri nhiều lần: “Trong tương lai, giáo lý của ta sẽ phát triển nhờ hai Bồ Tát như mặt trờimặt trăng bởi lòng bi mẫntrí tuệ của họ.” Đức Chetsang Rinpoche như mặt trời, ngài là hiện thân của Bổn Tôn bi mẫn Quán Thế Âm. Đức Chungtsang Rinpoche như mặt trăng, là hiện thân của Bổn Tôn trí tuệ Văn Thù.

Dòng Drikung nổi danh nhờ Thực hành Phowa (Chuyển di Tâm thức) Vĩ đại và bởi các đại thiền giả. Có nhiều câu chuyện về những bậc đã đạt được giác ngộ trong một đời. Trong thập niên 1980, các hành giả vĩ đại dòng Drikung giảng dạy ở Tây TạngẤn Độ là Pachung Rinpoche và Khyunga Rinpoche, và những bậc Thầy vĩ đại khác. Khyunga Rinpoche đã đạt được chứng ngộ Bổn Tôn. Ngài đã diện kiến Chakrasamvara trong một đời người. Ngài giảng dạy nhiều khóa nhập thất ba năm, kể cả Sáu Yoga của Naropa. Trong thời gian đó có nhiều cảm hứng phi thường do các Đạo sư nhập thất vĩ đại này ban tặng. Ngay cả ngày nay cũng có những Thiền Sư vĩ đại của dòng Drikung như Garchen Rinpoche, Tenzin Nyima Rinpoche, và Druwang Rinpoche. Druwang Rinpoche đã chứng ngộ Đại Ấn cao cấp và nổi danh về sự nhiệt tâm và việc hát những bài ca tâm linh như Đức Milarepa. Đôi khi ngài dâng một bài chứng đạo ca thâm sâu lên Đức Đạt Lai Lạt Ma, hai vị Kyabgon Hộ trì dòng Drikung và những Đạo sư cao cấp khác. Có nhiều vị Thầy vĩ đại nhập thấtTây TạngẤn Độ đã đạt được mục đích của mình. Đức Kyabgon Chetsang Rinpoche đã thiết lập Viện Drikung Kagyu, Jang Chubling, ở Dehra Dun, miền Bắc Ấn Độ. Ở đó có nhiều tu sĩ tham dự việc học tập và nhiều vị dấn mình vào khóa nhập thất ba năm. Đức Kyabgon Chetsang Rinpoche du hành tới nhiều tu viện Drikung ở Ladakh, Ấn Độ, và Nepal, ban những giáo lý vĩ đại cho các tăng, ni và cư sĩ đến từ Tây phươngĐông phương.

Con Đường Đại Ấn Sâu xa Năm Nhánh của Dòng Drikung Kagyu Vinh quang

Trong truyền thống Kagyu của Phật giáo Tây Tạng, Mahamudra hay “Đại Ấn” được coi là tinh túy của Phật giáo. Đôi khi nó cũng được nhắc đến như giáo lý tối thượngsâu xa nhất của chư Phật. Đôi khi pháp Đại Ấn này được so sánh với Dzogchen (Đại Viên mãn) – tinh túy của Phật giáo theo dòng Nyingma. Thật không ngạc nhiên khi trong lịch sử Phật giáo Tây Tạng đã có nhiều nhân vật giảng dạy sự tổng hợp hay hợp nhất của Đại Ấn và Đại Viên mãn. Những vị Thầy khác đã thông suốt cả hai pháp này nhưng giảng dạy chúng một cách riêng biệt cho những đệ tử khác nhau khi các ngài thấy thích hợp. Nhưng đa số các vị Thầy đã tập trung vào việc thông suốt pháp Đại Viên mãn hay Đại Ấn.

Ta có thể truy nguyên dòng truyền thừa Đại Ấn theo “dòng-xa” cũng như “dòng-gần.” “Dòng xa” được truy nguyên từ các vị hộ trì hiện tại của dòng truyền thừa sâu xa này trở ngược tới Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lịch sử. Trái lại “dòng gần” được truy nguyên từ các vị hộ trì hiện tại trở ngược tới các Đại Thành tựu giả Ấn Độ như Saraha, Maitripa, Tilopa và Naropa, là những vị đã trực tiếp thọ nhận Đại Ấn từ Đức Phật Kim Cương Trì. Tuy nhiên, cũng nên nói rõ là mặc dù những Đại Thành tựu giả Ấn Độ này trực tiếp thọ nhận giáo lý Đại Ấn từ Đức Phật Kim Cương Trì (và vì thế là một phần của “dòng-gần”), các ngài cũng là những vị hộ trì của “dòng-xa” bởi các ngài cũng nhận giáo lý Đại Ấn từ những bậc Thầy trong loài người là những vị hộ trì của “dòng-xa” này. Vì thế, các dòng Đại Ấn đang được hộ trì bởi những dòng truyền thừa Kagyu khác nhau là những dòng truyền thừa “xa” cũng như dòng truyền thừa “gần”. Cần nói rõ là các dòng Đại Ấn cũng được thành lập trong truyền thống Gelug bởi trong quá khứ vài Đạo sư của truyền thống này cũng thọ nhận các giáo huấn Đại Ấn từ các vị hộ trì Đại Ấn trong truyền thống Kagyu. Dòng truyền thừa Đại Ấn này được gọi là dòng “Đại Ấn Kagyu-Gelug” – đôi khi được dịch là dòng “Đại Ấn Gelug Thì thầm” hay dòng “Đại Ấn Gelug Khẩu truyền.”

Hầu hết các dòng truyền thừa Đại Ấn Kagyu xuất phát từ giáo lý Đại Ấn do Gampopa (1079-1153) ban cho các đệ tử của ngài. Bản thân Gampopa thọ nhận Đại Ấn từ Đạo sư gốc Milarepa (1052-1135), Milarepa nhận nó từ Bổn sư Marpa (1012-1096). Marpa là người Tây Tạng đã du hành tới Ấn Độ và Nepal và nhận nhiều giáo lý từ các Đại Thành tựu giả Ấn Độ - những vị Thầy quan trọng nhất là Naropa và Maitripa đã truyền cho Marpa toàn bộ giáo lý về nền tảng, con đường và quả của Đại Ấn. Chính Gampopa đã kết hợp những giáo lý sâu xa của Đại Ấn với phương pháp thực hành tuần tự như truyền thống Kadampa giảng dạy. Học giả Atisha người Ấn Độ đã sáng lập truyền thống Kadam ở Tây Tạng. Gampopa là một tu sĩ trong truyền thống Kadam trước khi trở thành đệ tử của Milarepa. Mặc dù có nhiều cuộc thảo luận uyên thâm trong lịch sử Phật giáo Tây Tạng về cấp độ và các thể loại của Đại Ấn, dường như Gampopa chủ yếu tán thành hai cách tiếp cận Đại Ấn có thể chấp nhận được. Theo Gampopa, Đại Ấn có thể được tiếp cận qua con đường Kinh điển cũng như con đường tantra (Mật điển). Vì thế, ta có Đại Ấn-Kinh điển và Đại Ấn-Mật điển. Đôi khi Gampopa được cho là đã giảng dạy phương pháp thứ ba để đến với Đại Ấn, là cách tiếp cận không dựa trên Kinh điển mà cũng không dựa trên Mật điển.

Các Đạo sư Dòng Truyền thừa Kagyu – Tilopa, Naropa và Marpa

Từ Gampopa trở đi, nhiều dòng truyền Đại Ấn bắt đầu hình thành phù hợp với những loại Đại Ấn khác nhau do Gampopa và các vị kế thừa tâm linh giảng dạy. Một vài truyền thống Đại Ấn có thể được truy nguyên từ Gampopa hay các hậu duệ của ngài là truyền thống “Tạo tác và Hợp nhất Đồng thời,” “Sáu Vị Như nhau,” “Bốn Chữ” và “Con Đường Sâu xa Năm Nhánh.” Những truyền thống này vẫn được hộ trì bởi bốn dòng truyền thừa Kagyu còn tồn tại, đó là Karma, Taglung, Drukpa và Drigung Kagyu.

Trong dòng Drigung Kagyu, hệ thống Đại Ấn chính yếu là hệ thống được gọi là “Con Đường Đại Ấn Sâu xa Năm Nhánh” hay cũng được gọi là “Năm Sở hữu.” Mặc dù bản thân Gampopa cũng đã giảng dạy phương pháp Đại Ấn đặc biệt này, tên gọi của nó do vị kế thừa của ngài là Phagmo Drupa (1110-1170), bổn sư của Kyobpa Jigten Sumgon, vị sáng lập dòng Drigung Kagyu, ban cho. Mặc dù hệ thống Con Đường Sâu xa Năm Nhánh này chủ yếu do những hành giả dòng Drigung Kagyu nắm giữ, bản thân Phagmo Drupa cũng biên soạn một bản văn về hệ thống này tên là “Những vần Kệ về Con Đường Năm Nhánh.” Các Đạo sư của Trophu Kagyu (dòng Kagyu đặc biệt này không còn tồn tại như một dòng độc lập) và dòng Taglung Kagyu cũng đã viết về hệ thống đặc biệt này. Gyalwa Yang Gonpa, một vị Thầy của dòng Drukpa Kagyu đã viết “Giọt Cam lồ: Con Đường Năm Nhánh.” Đức Toàn trí Pema Garpo của dòng Drukpa Kagyu cũng viết về hệ thống này trong tác phẩm “Cốt tủy của Tâm.” Situ Chokyi Jungne cũng viết những luận giảng rộng lớn về Con Đường Sâu xa Năm Nhánh. Trong “Lời Giới thiệu” cho quyển sách “Vòng Hoa các Thực hành Đại Ấn,” (bản dịch “Minh giải Chuỗi Ngọc của Con Đường Sâu xa Năm Nhánh” của Gylwang Kunga Rinchen [1475-1527], Đức Drigung Kyabgon Chetsang Rinpoche đã nói rõ là ngày nay những người nương tựa vào hệ thống này hầu như đi theo những luận giảng của Drigung Dharmakirti. Trong quá khứ, nhiều vị Thầy Drigung Kagyu khác cũng biên soạn những luận giảng lớn về hệ thống Đại Ấn này. Tất nhiên là bản thân Kyobpa Rinpoche cũng biên soạn vài bản văn và nhiều bài ca về chủ đề này.

Pháp Vương Gampopa

Như thế theo hệ thống này, năm “nhánh” của con đường Đại Ấn sâu xa này là:

1) Bồ đề tâmý hướng vị tha giải thoát tất cả chúng sinh khỏi sinh tử,
2) Bổn Tôn – thực hành quán tưởng bản thân hành giả như một bậc giác ngộ siêu việt

3) Đạo sư du giàcố gắng hợp nhất với tâm trí tuệ của Đạo sư,

4) Đại Ấn – việc dấn mình thực sự vào pháp Đại Ấn và cuối cùng,
5) Hồi hướng – sự hồi hướng trọn vẹn những đức hạnh của hành giả.

Trước khi có thể bắt đầu dấn mình vào các thực hành được trình bày trong hệ thống này, trước hết ta cần tập trung vào những thực hành căn bản. Thực hành “nhánh” đầu tiên đảm nhận việc ưu tiên hoàn thành điều được gọi là “các thực hành căn bản” (TT: ngondro). Những thực hành căn bản này được phân chia thành các thực hành ngoại và nội. Những thực hành ngoại căn bản ám chỉ “Bốn Tư tưởng Chuyển Tâm” do Gampopa giảng dạy. Các tư tưởng này củng cố trong dòng tâm thức của ta bốn sự thấu hiểu về:

1) sự may mắn được sinh ra làm người quý báu,

2) tính chất phổ quát của lẽ vô thường,

3) vận hành không sai lạc của nhân và quả, và

4) không mãn nguyệnbản tánh của sinh tử.

Sau khi đã củng cố nền tảng vững chắc về bốn tư tưởng này trong dòng tâm thức của ta, ta có thể bắt đầu dấn mình vào những thực hành nội căn bản. Đó là:

1) quy y, xác nhậncủng cố hứa nguyện của ta đối với Tam Bảo,
2) tịnh hóa Kim Cương Tát Đỏa để tiệt trừ ác nghiệp và những dấu vết nghiệp của ta,

3) cúng dường mạn đà la để tích tập sâu xa công đức cần thiết cho việc thành tựu Phật quả viên mãn

4) Đạo sư-du già để nhận sự cảm hứng-gia trì của các Đạo sư gốc và Đạo sư dòng truyền thừa.

Chỉ sau khi hoàn tất những thực hành này (bốn thực hành, mỗi thực hành 100.000 lần), ta mới chính thức bắt đầu nhánh thứ nhất của Con Đường Sâu xa-Năm nhánh, đó là Bồ đề tâm.

Trong một bài ca-kim cương (trong rất nhiều bài) của ngài, Kyobpa Rinpoche đã hát về Bồ đề tâm:

“Nếu con ngựa của lòng từ và bi

Không chạy vì lợi ích của chúng sinh,
Nó sẽ không được tập hội trời và người tôn kính.
Vì thế hãy chú tâm vào các thực hành chuẩn bị.”

Drigung Kyobpa Rinpoche

Bồ đề tâm được định nghĩa ngắn gọn là “ý hướng vị tha giải thoát tất cả chúng sinh khỏi sinh tử.” Bồ đề tâm rất thường bị lầm lẫn với lòng bi mẫn. Mặc dù lòng bi mẫn là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong việc phát triển Bồ đề tâm nhưng tự nó không phải là Bồ đề tâm. Sự khơi dậy Bồ đề tâm bắt đầu bằng cách trước hết chú tâm vào việc phát triển lòng từ ái đối với tất cả chúng sinh. Người ta nói rằng từ áicảm xúc ta có khi nhìn một đứa trẻ mới sinh. Khi ta nhìn một em bé, ta thường tự động có những tư tưởng tốt lànhthân thiết đối với đứa trẻ. Thật tự nhiên, ta ước muốn được đứa bé được bình an, hạnh phúc và không bị mọi họa hại. Không có gì dễ chịu hơn khi được nhìn thấy một đứa trẻ đang ngủ ngon lành. Chính sự ấm áp và tình thươngđiều kiện đó mà ta đang cố gắng phát triển cho tất cả chúng sinh. Chúng ta cố gắng coi tất cả chúng sinh như con cái của chính mình, là những người mà ta yêu thươngđiều kiện. Ta cầu nguyện họ được che chở, được hạnh phúc và yên bình và vì họ ta sẵn lòng từ bỏ cuộc đời của mình. Khi ta có thể cảm nhận theo cách này đối với tất cả chúng sinh, ta sẽ có thể phát triển lòng bi mẫn một cách tự nhiên. Lòng bi mẫncảm xúc mong muốn giải thoát chúng sinh khỏi đau khổ và những nguyên nhân của đau khổ. Đó là cảm xúc ta có khi ta gặp người nào đó đang đau khổ bởi một chứng bệnh khủng khiếp hay đang phải trải qua nỗi khổ dữ dội về mặt thể xác và cảm xúc. Ta muốn có thể giúp đỡ và làm an dịu nỗi khổ đó, khổ đau đó. Như thế khi đã phát triển và nuôi dưỡng lòng từ và bi, ta có thể đi tới chỗ sẵn sàng thực sự phát triển Bồ đề tâm.

Như được định nghĩa trước đây, Bồ đề tâm là “ý hướng vị tha giải thoát tất cả chúng sinh khỏi sinh tử.” Khi nhận ra rằng chúng sinh hoàn toàn bị khổ đau sai sử trong sinh tử, ta có được một nhận thức sâu xa rằng chỉ bằng cách đạt được trạng thái Phật quả viên mãn thì ta mới có thể chiến thắng được khổ đau trong sinh tử một lầnmãi mãi. Mặc dù có nhiều cách để làm an dịu nỗi khổ của chúng sinh, nhưng tất cả những phương pháp đó đều tạm thời và không rốt ráo. Chỉ bằng cách nhổ tận gốc nguyên nhân của đau khổ thì ta mới hoàn toàn thoát khỏi đau khổ. Và đây là trạng thái giải thoát tối hậu; Phật quả viên mãn. Sự thấu suốt này – sự thấu hiểu những khiếm khuyết, nguyên nhân, sự chấm dứtcon đường để chấm dứt sinh tử, chính là trí tuệ. Vì thế, ở một mặt, Bồ đề tâmquyết tâm phát khởi từ lòng từ và bi và mặt khác nó phát khởi từ trí tuệ. Khi cả hai phương diện này tụ hội thì Bồ đề tâm được phát triển.

Tiết mục thứ hai của Con Đường Sâu xa Năm-nhánh là thực hành Bổn Tôn. Thực hành Bổn Tôn ám chỉ các thực hành phát triển và thành tựu của Mật điển du già tối thượng và trong trường hợp đặc biệt này trong hệ thống Mật điển du già tối thượng của giáo khóa Chakrasamvara. Mặc dù Bổn Tôn chính yếu của Marpa là Hevajra, Đạo sư Naropa của ngài đã tiên đoán rằng cuối cùng dòng truyền của Marpa sẽ nương tựa vào Chakrasamvara như Bổn Tôn chính yếu. Vì thế, Chakrasamvara là thực hành chính yếu mà Marpa đã truyền cho đệ tử chính của ngài là Milarepa.

Chakrasamvara


Có nhiều thân tướng khác nhau của Chakrasamvara xuất hiện với số gương mặt, bàn tay khác nhau, và số vị trong đoàn tùy tùng bao quanh. Trong dòng Drigung Kagyu, thực hành Bổn Tôn Chakrasamvara phổ biến và thông thường nhất là thân tướng của Chakrasamvara Năm-Bổn Tôn. Chakrasamvara Năm-Bổn Tôn bao gồm Bổn Tôn Chakrasamvara nam chính yếu có hai tay, một mặt trong sự hợp nhất với Bổn Tôn nữ Vajravarahi (hai vị này hợp nhất như một Bổn Tôn duy nhất) và bốn dakini bao quanh ở bốn hướng. Thực hành Yidam (Bổn Tôn) là một thực hành Mật thừa vô cùng đặc biệt trong đó ta chuyển hóa kinh nghiệm thông thường, sinh tử của ta về thực tại thành một kinh nghiệm phi thường về trạng thái đích thực của mọi hiện tượng. Trong khi giáo lý ở cấp độ Kinh thừa coi vô minh như nguyên nhân triệt để của hiện hữu sinh tử, giáo lý Mật thừa coi những hình tướng bình thường như nguyên nhân rốt ráo của sinh tử luân hồi. Thực hành Bổn Tôn là một phương pháp sâu xađặc biệt để nhanh chóng chuyển hóa những hình tướng bình thường thành những hình tướng giác ngộ. Chính xác hơn, thực hành này khám phá trạng thái thực sự của các hình tướngbiểu lộ chúng là cái gì luôn luôn thuần tịnh và trống không. Thực hành Bổn Tôn không biến các hình tướng thông thường thành cái chúng không là – thuần tịnh và không có sự hiện hữu bẩm sinh. Đúng hơn, nó khám phá sự thuần tịnh và trống không (tánh Không) đã luôn luôn ở đó nhưng bị ngăn che và không được nhận ra. Do bởi tính chất Mật thừa của những giáo lý này, điều tốt nhất là ta trực tiếp nhận lãnh các chi tiết của những giáo lý này từ một vị Thầy đích thực của dòng truyền thừa. Hy vọng rằng mô tả ngắn gọn về thực hành Bổn Tôn này là tiết mục thứ hai của Con Đường Sâu xa Năm Nhánh của Đại Ấn sẽ khuyến khích người đọc tìm được những giáo lý sâu xa này từ một vị Thầy chân chínhđáng tin cậy của dòng truyền thừa khi đã đến lúc và khi hội đủ các nhân duyên. Kyobpa Rinpoche đã hát:


“Nếu thân thể ta, Vua của các Bổn Tôn
không được củng cố trên Nền tảng Bất biến này,
Đoàn tùy tùng dakini sẽ không tụ hội.
Vì thế, hãy quyết chắc rằng thân bạn là Bổn Tôn.”


Tiết mục thứ ba của Con Đường Năm Nhánh là thực hành Guru-yoga hay thực hành đạt được sự hợp nhất với tâm trí tuệ của vị Thầy (Đạo sư). Có nhiều loại Thầy – cha mẹ ta là những vị Thầy đầu tiên của ta, những người Thầy trong trường tiểu học dạy ta đọc và viết, các Thầy dạy các môn nghệ thuật và khoa học thế tục, các vị Thầy tâm linh ban cho ta các giới nguyện Quy y, các vị Thầy ban cho ta giới nguyện cư sĩ hay tu sĩ, các vị Thầy dạy về Bồ Tát giới, các vị Thầy Kim cương (Kim Cương Sư) ban cho ta các quán đảnh Mật thừa và cuối cùng các vị Thầy giới thiệu cho ta bản tánh của tâm ta. Ở một ý nghĩa nào đó thì vị Thầy được ám chỉ ở đây trong thực hành Guru-yoga là tất cả những vị Thầy trên. Tuy nhiên, đó không phải là một thực hành quá chú trọng đến một cá nhân đặc biệt mà ta gọi là “Thầy” của ta, điều được chú trọng là tâm-trí tuệ căn bản ở trong tất cả những vị Thầy đã dạy dỗ ta. Bằng cách tin tưởng và nương tựa vào tâm-trí tuệ căn bản này mà ta định vị trong các vị Thầy của ta (và đặc biệt là trong vị Thầy đã giới thiệu cho ta bản tánh của tâm), chúng ta cố gắng nhận ra tâm-trí tuệ đó vốn sẵn có trong chúng ta. Đặc biệt là ta cần nương tựa một vị Thầy đích thực và nhiều kinh nghiệmbản thân ngài đã nhận ra bản tánh của tâm và có thể giúp ta cũng nhận ra bản tánh của tâm ta. Thực hành Guru-yoga được tán tụng trong truyền thống như phương pháp sâu xa và trực tiếp nhất để nhanh chóng nhận ra bản tánh của tâm. Nhiều vị Thầy dòng Kagyu đã giảng dạy rằng cách thức nhanh chóng và bảo đảm nhất để nhận ra bản tánh của tâm là một tâm thức tràn đầy lòng sùng mộ. Khi lòng sùng mộ hiện diện thì việc nhận ra bản tánh của tâm không còn xa. Kyobpa Rinpoche đã hát:

“Nếu thân thể ta, Vua của các Bổn Tôn
không được củng cố trên Nền tảng Bất biến này,
Đoàn tùy tùng dakini sẽ không tụ hội.
Vì thế, hãy quyết chắc rằng thân bạn là Bổn Tôn.”

Pháp Guru-yoga (Đạo sư Du già) được thực hành như tiết mục thứ ba của Con Đường Sâu xa Năm Nhánh thì hơi phức tạp và nhiều chi tiết hơn thực hành Guru-yoga được tìm thấy trong các thực hành nội căn bản (ngondro). Đặc biệt là “Guru-yoga Bốn kaya” được thực hành ở đây. Bốn kaya hay “thân’ này ám chỉ Thân Hóa hiện (Hóa Thân, Phạn ngữ: nirmanakaya, Tây Tạng: trul-ku), Thân Hỉ lạc (Báo Thân, Phạn: sambhogakaya, TT: long-ku), Thân Thực tại (Pháp Thân, Phạn: dharmakaya, TT: cho-ku) và Thân Tự Tánh (Phạn: svabhavikakaya, TT: ngowo nyi-ku), là sự bất khả phân của ba thân trước. Trong văn cảnh này, ba thân đầu được coi là chân lý tương đối và thân thứ tư là chân lý tuyệt đối. Trước tiên, một hành giả sẽ thực hành Guru-yoga Hóa Thân, trong đó vị Thầy được quán tưởng trong thân tướng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (bản thân hành giả trong thân tướng bình thường). Kế đó hành giả thiền định về vị Thầy ở cấp độ Thân Hỉ lạc (Báo Thân) như Đức Phật Vairochana (Tỳ Lô Giá Na) (và bản thân hành giả là Bổn Tôn) và thiền định về Thân Thực tại (Pháp Thân) trong thân tướng của Đức Phật Kim Cương Trì. Cuối cùng, khi hành giả đi tới cấp độ Thân Tự tánh của thực hành guru yoga, vị Thầy là đối tượng thiền định mà không có bất kỳ hình tướng, màu sắc, danh hiệu hay hình dạng nào.

Đức Drigung Kyabgon Chetsang Rinpoche hiện tại viết:

“Ở bên ngoài là ba thân của vị Thầy, chân lý tương đối

(Ở bình diện) chân lý tuyệt đối, sự chói lọi tự-sinh của vị Thầy

bản tánh của tâm ta.

Vị Thầy, tâm ta và Phật thì bất khả phân (không thể tách lìa)
Xuất hiện như sự hiển lộ của thân Bản Tánh.”

Khi tâm thức đã trở nên thuần thục nhờ thực hành Guru-yoga, cuối cùng ta đạt được cốt tủy của Con Đường Sâu xa Năm-Nhánh – thực hành thực sự của tự thân Đại Ấn.

Đối với Đại Ấn, một lần nữa, Đức Drigung Kyabgon Chetsang Rinpoche hiện tại viết:

“Hãy duy trì tâm bất sinh tươi trẻ không mê lầm.

Trong trạng thái tự nhiên, không giả tạo này

Hãy hoàn toàn tránh khỏi sự tạo tác của thiền định và thiền giả (người thiền định)

Tâm bình thường, không thiền định, không rối loạn An trụ không luyến bám và không xa lìa

Thoát khỏi hy vọngsợ hãi, bám chấp và buông thả

Chấp nhận (lấy) và vứt bỏ (bỏ), thiền định và sau-thiền định.”

Chúng ta sẽ không thảo luận xa hơn về chủ đề này bởi cách hay nhất là Đại Ấn nên được một vị Thầy bằng xương bằng thịt giảng dạy. Tuy nhiên, có một sự liên kết với một giáo lý đơn giản nhưng sâu xa về Đại Ấn được ban truyền một cách tự nhiên bởi một trong những Đạo sư quan trọng nhất còn sống của dòng Drikung Kagyu hiện nay – Đức Garchen Rinpoche, vị Rinpoche chính yếu của dòng Drikung Kagyu ở miền Đông Tây Tạng.

Cuối cùng, tiết mục Hồi hướng là mục thứ năm của Con Đường Năm Nhánh Sâu xa. Hồi hướng là một trong những đặc điểm của thực hành Phật giáo – một tu tập được thực hành vào lúc kết thúc mọi tu tập dù là Hinayana (Thanh Văn thừa) hay Mahayana (Đại thừa) (ở cả hai cấp độ Kinh điểnMật điển). Bằng cách hồi hướng công đức việc thực hành của ta cho sự giải thoát toàn triệt của chúng sinh khỏi mọi đau khổ và những nguyên nhân của đau khổ, ta bảo đảm rằng thực hành của ta giữ được nguyên vẹn sự thuần tịnh và lợi lạc. Như với hầu hết các thực hành, có những phương diện tương đốituyệt đối (và rất cần phải nhớ rằng ta không đặt nặng phương diện này hơn phương diện kia mà đúng hơn ta thực hành thật hoàn hảo cả hai cấp độ như chúng bất khả phân trong thực tế.) Ở phương diện tuyệt đối của sự Hồi hướngHồi hướng trong văn cảnh Đại Ấn – ta hồi hướng công đức với sự hiểu biết rằng bản thân ta, công đức được hồi hướng và tự thân sự hồi hướng đều là không; tánh Không ba phần.

Con Đường Năm-Nhánh Sâu xa Đại Ấn là một con đường viên mãn để đạt được sự toàn giác trong một đời người. Trong quá khứ, nhiều hành giả đã sử dụng Con Đường này và đã đến bến bờ an bình viên mãn (đáo bỉ ngạn). Hiện nay cũng có nhiều hành giả chân thành của Con Đường này đang thực hành dưới sự dẫn dắt lão luyện và tràn đầy bi mẫn của các vị Thầy dòng truyền thừa Drikung Kagyu. Cũng có nhiều hành giả chân thành của truyền thống Đại Ấn của Đức Gampopa đang đi theo những truyền thống Đại Ấn khác nhau phát triển từ hệ thống Đại Ấn nền tảng của Gampopa. Hơn nữa, ngoài các dòng Đại Ấn Kagyu thuần túy, cũng có dòng thực hành Đại Ấn trong dòng truyền thừa Gelug. Cũng nên nhắc đến sự “hợp nhất” của thực hành Đại Ấn và Đại Viên mãn xuất phát từ một vài Đạo sư của dòng Kagyu và Nyingma.

“Để tất cả chúng sinh từng là những bà mẹ của con
Có thể nhanh chóng thoát khỏi sinh tử
Và có thể đạt được sự toàn giác
Con xin hồi hướng mọi công đức tích tập được bởi
Bản thân con và tất cả chúng sinh và những bậc giác ngộ trong ba thời
Cũng như công đức của Phật-tánh thuần tịnh bẩm sinh.”

Biểu đồ Phát triển sự Trao truyền của Dòng Drikung Kagyu

drikung_kagyu_4

Tải Thanka Dòng Drikung:

http://www.dharma-media.org/media/general/dwnld/thankas_photos.html

HỒI HƯỚNG
Xin hồi hướng công đức này cho sự bất diệt viên mãn của dòng Kagyu vinh quang và xin hồi hướng cho các vị lãnh đạomôn đồ của dòng truyền thừa thành tựu hứa nguyện đưa tất cả chúng sinh đến trạng thái giác ngộ.

BỐN TƯ TƯỞNG VÔ HẠN

Nguyện tất cả các bà mẹ chúng sinh bao la như không gian được hạnh phúc và các nguyên nhân của hạnh phúc. Nguyện họ thoát khỏi đau khổ và những nguyên nhân của đau khổ.
Nguyện họ không bao giờ xa lìa hạnh phúc không buồn đau.
Nguyện họ an trụ trong sự xả bỏ, thoát khỏi tham muốnganh ghét.

Thanh Liên dịch từ nguyên tác “Mahamudra Lineage Drikung Kagyu”

http://www.dharma-media.org/wogmin/mahamudra.html

 



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10414)
Những chiếc lá vàng từ tán cây phượng bị gió lùa xuống ghế đá công viên, chỗ Thủy và chàng ngồi, làm cho Thủy chợt nhớ bài hát Mùa Thu Lá Bay...
(Xem: 9692)
Mặt trời ló dạng trải những ánh vàng óng ả trên mặt biển khơi, chiếu sáng rực rỡ một góc trời. Ngoài xa, từng cơn sóng nô đùa nối đuôi nhau cặp bờ.
(Xem: 23616)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 11854)
Khi còn bé, mỗi dịp Vu lan về, tôi thường hay theo mẹ lên chùa lễ Phật. Khi nghe quý thầy giảng về công ơn cha mẹ, ông bà, tôi thấy khóe mắt mẹ tôi nhòa lệ.
(Xem: 10735)
Mỗi năm cứ độ thu về, tiếng chuông buồn da diết, trên cành cây khô trụi lá, ve sầu rỉ rả giọng ai oán thê lương như đa mang, như chất chứa nỗi niềm trong cô tịch...
(Xem: 10080)
Tất cả nghiệp tội đều do chấp trước mà phát sinh. Trong sáu cõi lại xuất hiện ra cảnh giới của ba đường ác. Tuy là ảo vọng không thực, nhưng cảm nhận đau khổ là thật.
(Xem: 28696)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 21630)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 29423)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 11397)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 12372)
Đức Phật ra đời là để khơi mở tuệ giác cho hết thảy chúng sinh: - Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tất cả chúng sinh đều có trí tuệ...
(Xem: 26341)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 31040)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25347)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22819)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 13057)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21951)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 12232)
Tâm tĩnh lặng tự tại gọi là AN. Thân ở yên một chỗ gọi là CƯ. Tứ chúng là bốn hình tướng của người tu bao gồm xuất giatại gia (chư Tăng, Ni, và Cư sĩ nam, nữ).
(Xem: 14145)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 12461)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 11247)
Không phải ngẫu nhiên mà người ta cho rằng Đạo Phật là Đạo hiếu. Đức Phật có rất nhiều lời dạy về hiếu đạo...
(Xem: 10695)
Việc tri ânbáo hiếu luôn là một đạo lý quan trọng đối với mọi tín đồ Phật tử. Đạo lý ấy không chỉ là một khúc tấu của bản trường ca thông thường...
(Xem: 38072)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 13674)
Người Phật tử trên bước đường tu tập hãy kiên trì, tinh tấn, gột rửa thân tâm mình sao cho ngày càng trong sạch, tinh khiết như những đóa sen, vươn lên khỏi bùn nhơ...
(Xem: 13470)
Với đạo Phật, đời sống có chất liệu để cho hoa sen vươn lên bầu trời, có sức đẩy để cho chiếc bè tự do nổi được và vươn ra đại dương.
(Xem: 12354)
Một mùa Phật đản nữa sắp về, tôi lại được vẽ Phật đản sinh. Ngài đứng trên đài sen, tay phải chỉ trời, tay trái chỉ đất. Tôi không thể nhớ đã vẽ được bao nhiêu bức tranh Phật như thế này.
(Xem: 12591)
Trong bản tâm của mỗi chúng sinh vốn có đầy đủ đức tính trong sạchsáng suốt nhưng do bụi trần cấu uế che phủ, nên bản tính uyên nguyên sáng suốt ấy chưa có cơ hội hiển bày.
(Xem: 12060)
Theo truyền thống các nước Phật giáo Nguyên thủy, ngày lễ Đản sanh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được mọi người biết đến với cái tên thân thiết hơn, đó là ngày lễ Vesak.
(Xem: 10728)
Vậy mà má đi đã xa rồi. Giờ đây mỗi lần có dịp con chỉ biết mua vài lá trầu và bửa vài trái cau thắp hương cho má vậy. Con xin má tha lỗi cho con...
(Xem: 11218)
Trong cuộc đời, phận làm con có báo hiếu cả đời, có dời sao lấp biển cũng không báo hiếu hết được công lao sinh thành của mẹ. Vì tình nghĩa mẹ ví như nước trong nguồn.
(Xem: 23369)
Chủ đề chính của bài này là những hình ảnh đẹp được chụp ở một số nước châu Á trong dịp Lễ Phật Đản. Mời anh em cùng xem qua.
(Xem: 33210)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 12803)
Trong trí tuệ vô ngã, ta có thể chứng nghiệm “Ta ở ngoài tất cả”. Đó gọi là giải thoát tuyệt đối. Vì ở ngoài tất cả cho nên ta có khả năng thấy được tất cả.
(Xem: 7397)
Kinh mô tả, mùa an cư đầu tiên, đức Phật đã có mặt tại vườn Nai, còn gọi là vườn Lộc Uyển.
(Xem: 12191)
Hôm nay mùa Phật đản Nắng xuân rọi chói chang, Chim reo hót muôn ngàn Chốn đạo tràng thênh thang
(Xem: 12624)
Suốt thời gian thị hiện Ta-bà, Đức Thích Ca Mâu Ni đã không ngừng giảng dạy cho chúng sanh ở mọi giai cấp, mọi căn cơ từ thấp lên cao...
(Xem: 12051)
Tuyết lạnh cổng chùa đóng Trong chùa ấm hương thiền Phật tâm ai cũng có Phật Đản thấy chân tâm.
(Xem: 12873)
Chân thành đốt nén tâm hương Cúng dường Chư Phật mười phương rạng ngời Mừng ngày Đức Phật ra đời Muôn hoa đua nở nơi nơi rộn ràng
(Xem: 11946)
Lễ Phật Đản tưng bừng khắp chốn, Từ sơn lâm cho đến thị thành. Lòng Phật tử vui mừng khôn xiết...
(Xem: 10706)
Đức Phậtđấng Giác ngộ, sống đời sống giải thoát, an lạc hoàn toàn, nhưng vì thương chúng sinh, nên Ngài thị hiện giữa cuộc đời này...
(Xem: 11377)
Đóa Sen hồng hé nụ Rằm tháng Tư lại về Xôn xao đến làng quê. Đường trần dệt ánh sáng.
(Xem: 11672)
Tóc mây pha màu trắng Biển xanh lộng bóng trời Chim về đôi cánh sãi Vun vút gió ngàn khơi.
(Xem: 10874)
Sự xuất hiện của Ngài được gọi là vi diệu vì sự xuất hiện đó như ánh sáng mặt trời xua tan bóng đêm tăm tối, mang lại hạnh phúc đích thực, bình an vĩnh cửu cho vạn loại...
(Xem: 10809)
Là một con người trên tất cả con người, là một vĩ nhân trên tất cả vĩ nhân, cuộc đời của Đức Thích Ca Mâu Ni gắn liền với một huyền thoại tuyệt đẹp...
(Xem: 10377)
Là những người học Phật, chúng ta nên khéo áp dụng lời dạy của Ngài vào cuộc sống đời thường, chuyển hóa thân tâm, đem Phật Pháp xây dựng thế gian...
(Xem: 10493)
Bản hoài của chư Phật mười phương là muốn chỉ cho chúng sinh thấy, ai cũng có tri kiến Phật, tức Phật tánh, như nhau, bình đẳng không khác.
(Xem: 10714)
Mỗi khi ta chế tác được một chánh tư duy, một tư tưởngbiểu lộ được tuệ giác vô thường, vô ngã, từ bi, trí tuệtương tức thì ta là Bụt.
(Xem: 10635)
Bảy bước chân đức Phật luôn hướng đến những nơi khổ đau. Hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, những bước chân ấy vẫn miệt mài đưa biết bao nhiêu thế hệ đi vào từng trang sử đẹp.
(Xem: 11918)
Phước duyên thù thắng phước duyên xuân Từ thị long hoa hiện tánh thuần Hoa nở sắc hương hoa mãn giác Mười phương chung lạc phúc nhân quần
(Xem: 10700)
Bên đài hoa sen trắng Trông thấy ánh đạo vàng Bên niềm vui tĩnh lặng Thấy Phật tỏa hào quang
(Xem: 12740)
Hỡi Vesak thiêng liêng! Hãy cất cao ngọn lửa hùng thiêng cháy bỏng, tiêu hủy đi những tăm tối lầm mê, thắp sáng lên tình thươngtrí tuệ...
(Xem: 10810)
Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển III kể rằng: Khi đức Phật hiệu Tì-bà-thi Như Lai ra đời, Thánh chúng lúc ấy có ba hội, toàn là bậc A la hán.
(Xem: 11393)
Lạy Như Lai, Ngài có nghe con khấn nguyện Ảo ảnh, phù du theo hướng khói bay xa Hòa bình thật sự ngự trị cõi Ta-bà
(Xem: 11096)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sinh thoát khỏi ngục tù
(Xem: 11638)
Cách đây hai ngàn bảy trăm năm Vườn Lâm Tỳ Ni Hoa Ưu Ðàm rực sáng Hương đưa ngào ngạt...
(Xem: 10517)
Mỗi năm Phật Đản lại về với người con Phật. Khắp năm châu, muôn triệu con tim cùng hòa chung một nhịp đập, hân hoan kỷ niệm ngày đản sanh của đấng từ phụ.
(Xem: 11265)
Hãy sống như những người con Phật, mở lòng ra, nắm lấy những giờ phút đang có này, vứt bỏ mọi ức, hoài niệm, và nở nụ cười.
(Xem: 12308)
Giây phút ấy thế gian bừng chấn động, Ðóa Ưu Ðàm hé nụ mấy ngàn năm. Sen nở thắm bên hồ hương gió lộng...
(Xem: 11172)
Giờ này, đứng dưới mái chùa, ánh trăng đêm Phật Ðản như tắm gội cho mỗi cá nhân chúng tôi trôi và vơi đi bao lo lắngphiền muộn.
(Xem: 12491)
Đức Phật là nhà truyền giáo đầu tiên hoạt động tích cực nhất trong lịch sử nhân loại. Suốt 45 năm, Ngài đã đi từ nơi này sang nơi khác để hoằng dương chánh pháp cho giới bình dân lẫn trí thức.
(Xem: 11429)
Giáo pháp Phật nhắc ta làm chủ mình, điều tâm, lập hạnh bồi đức để hưởng hạnh phúc vĩnh hằng. Đức Phật không bao giờ dùng quyền uy đe dọa hay ép buộc ai phải theo mình.
(Xem: 11515)
Ngày Đức Thích Tôn từ Thiên cung phát tâm xuống phàm trần để hóa độ chúng sanh, cũng là ngày trần gian có thêm một ánh sáng, ánh sáng chân lý, từ khế kinh do Đức Phật nói...
(Xem: 11304)
Ðức Phật đản sanh là một sự kiện kỳ diệu hy hữu như lời Ngài đã dạy: ”Có một người sinh ra đời vì an lạc của quần sanh, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạchạnh phúc của chư thiênnhân loại.
(Xem: 11592)
Đã bao lâu rồi ta chưa về thăm cha-mẹ, hay bởi vì nghĩ rằng ta có điện thoại hỏi thăm và gởi hình về nên thôi không cần thiết phải về thăm?
(Xem: 12999)
Trong khuôn viên Lâm Tỳ Ni chiều nay, những lá cờ Phật giáo tung bay theo chiều gió, các lá phướn mầu rực rỡ của Phật tử Tây Tạng giăng trên các tàng cây.
(Xem: 14180)
Phật Đản lại về, cuối xuân đầu hạ, cây đủ lá xanh tràn trề sức sống, hoa sen rộ nở đóa đóa diệu hồng, trắng mát, tỏa hương khoe sắc, như đón bậc vĩ nhân...
(Xem: 11016)
Tâm hồn Tôi chao động mãnh liệt khi nhớ lại những ngày hội tấp nập người qua lại mừng ngày Ðản Sanh. Cờ xí Phật Giáo treo ngợp phố...
(Xem: 11876)
Với Ðức Phật, sự phát triển tâm linh cho mỗi cá nhân cũng như những vấn đề chung của cộng đồng xã hội là phải thực hành cho đúng chứ không phải lý thuyết hay quan điểm.
(Xem: 13176)
Hoa sen vừa nở trên đầm biếc Nắng đã lên rồi thức bình minh Chim non trên cành đang nói Pháp Phật đản đến rồi độ chúng sanh
(Xem: 11585)
Đức Từ-Bi vô lượng xuống trần gian Giờ phút thiêng liêng Huy hoàng cõi tục Ðịa cầu sáng ngời trong bạch ngọc Ðóa sen hồng nâng bước đấng cha lành
(Xem: 11437)
Ngày Ðản sinh của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là một sự kiện vĩ đại vào loại bậc nhất trong lịch sử xã hội loài người. Ðối với giới Phật tử, sự kiện lớn lao ấy còn mang đậm tinh chất kỳ vĩ...
(Xem: 10938)
Nếu chúng ta tìm hiểu các hoạt động, các nghi thứcPhật giáo ở các nước tổ chức Đại lễ Phật đản ở xứ họ thì chúng ta sẽ học hỏi được rất nhiều điều giá trị...
(Xem: 11292)
Đứng trên cao từ phía gác chuông đại hồng nhìn khắp sân Chùa, tôi thấy một đoàn quý Thầy tề chỉnh trang nghiêm trong bộ y vàng sáng rực...
(Xem: 10821)
Bài thơ mừng đón Đản sinh Âm ba đồng vọng ân tình nước non Quê hương đạo nghĩa vuông tròn Từng trang lịch sử vàng son thái hòa.
(Xem: 11064)
Kiếp nhân sinh chỉ như làn chớp nhoáng Duy có một ngày sinh Tồn tại giữa muôn nơi Phật đản ngày khai hóa nhịp thở cho đời
(Xem: 10897)
Đức Phật ra đời không phải là ngẫu nhiên mà do một đại sự nhân duyên: Ngài có nhiệm vụ mở bày (khai thị) cho chúng sinh thấy vào (ngộ nhập) Phật tri kiến...
(Xem: 10268)
Chúng ta đã học, đã tu, phải hành nữa mới đủ. Tu là sửa, hành là làm, sửa cong ra thẳng, sửa tà thành chánh, làm tất cả mọi việc lành với một tâm hồn trong sạch...
(Xem: 17115)
Hôm nay, trong bầu không khí trang nghiêm mừng Phật đản sanh, hình ảnh của Đấng Từ Tôn qua khói trầm xông tỏa, vẫn là nụ cười trầm tỉnh, uy hùng.
(Xem: 11014)
Sự kiện Thái tử Tất Đạt Đa có đủ 32 tướng đã báo hiệu Ngài không phải là một người thường. Điều đó trở thành hiện thực khi Ngài xuất gia tìm đạo và đã thành tựu được quả vị Phật Đà.
(Xem: 10869)
Những lời đức Phật dạy đã giúp cho nhân loại nhận thấy được qui luật vận độngbiến đổi của vũ trụnhân sinh, để rồi từ đó tạo dựng một cuộc sống phù hợp với những quy luật ấy...
(Xem: 10412)
Sự thị hiện đản sanh của đức Phật trong thân thế thái tử Tất-đạt-đa con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-da cho ta một tia hy vọngchúng ta cũng sẽ có thể thành Phật.
(Xem: 10763)
Khi Thái tử Siddhàrtha vượt thành Kapilavatthu trong đêm trường thanh vắng để vào núi Himalayas tìm đường tu tập, Ngài đã xác định hướng đi cho cuộc chuyển hóa nhân sinh toàn diện nhất trong lịch sử nhân loại.
(Xem: 11387)
Nhân mùa Phật Đản đang trở về trong lòng người con Phật, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tập thơ đặc biệt "Tuyển tập Thơ Phật Đản" của Mặc Giang như là món quà nhỏ gởi đến quí vị...
(Xem: 11087)
Năng nhân là có khả năng thực hiện sự yêu thương; Năng nhẫn là có khả năng kham nhẫn; Năng tịch có khả năng thực hiện đời sống an tịnh...
(Xem: 10580)
Buổi sáng sớm của ngày trọng đại, trong gió có mùi thơm chiên đàn, trầm thủy phả xuống từ các cõi trời. Bầu trời trong xanh và sâu thẳm hơn thường ngày.
(Xem: 11382)
Ngày qua đi chúng ta làm được nhiều điều bổ ích cho tự thân và mọi người, một ngày qua đi cảm thấy có gì đó tiếc nuối. Ngày đó đều là ngày Phật Đản.
(Xem: 10356)
Hàng năm khi mùa sen nở, người con Phật ở khắp nơi trên hành tinh này hân hoan, tưởng nhớ về những lời dạy vàng ngọc của đức Thế Tôn; tâm niệm mỗi người luôn hướng về ngày kỷ niệm đản sanh của bậc Đạo Sư.
(Xem: 10656)
Cũng như hoa sen mọc ra từ bùn, lớn lên từ bùn nhưng không bao giờ nhiễm bùn. Đức Phật cũng vậy, tuy Ngài sanh ra trong cõi đời ô trược nhưng không bị nhiễm ô bởi cõi đời ô trược.
(Xem: 12772)
Như chúng ta đã biết, thế giới của Phật là trạng thái tự tại với tất cả mọi chướng ngại đến tri thứcquấy rầy của cảm thọ. Đấy là trạng thái mà tâm hoàn toàn khai mở.
(Xem: 19280)
Cho dù gặp lúc phong ba, Tình thương của mẹ chan hòa xiết bao! Ngày của mẹ, đẹp làm sao! Cho con dâng chút ngọt ngào nhớ ơn.
(Xem: 19710)
Chập chờn thức giấc nửa khuya, Tưởng hình bóng Mạ như vừa thoáng qua. Áo dài nối vạt phất phơ!
(Xem: 21294)
Đêm qua nhớ Mẹ xiết bao! Trằn qua trở lại, nghẹn ngào lòng con. Mơ màng giấc mộng chưa tròn, Nửa đêm ray rứt héo hon vô cùng.
(Xem: 20340)
Con đã viết nhiều bài thơ về Mẹ Không lần nào kể hết nỗi lòng con. Ơn nghĩa sinh thành như biển như non
(Xem: 19771)
Con nghe rằng mẹ giấu điều lo lắng Mẹ hay buồn, hay lo nghĩ về con Mẹ hay bước ra ngoài con đường vắng...
(Xem: 19053)
Cơn bão tuyết châm chíchvùi dập Ánh trăng thanh lạnh lẽo chiếu trên trời Giờ tôi lại thấy rìa làng quen thuộc...
(Xem: 20496)
Bình minh đang gọi ra bình minh khác Trên cánh đồng lúa mạch bốc khói sương? Tôi nhớ về người tôi thương mến nhất...
(Xem: 21098)
Vĩ đại thay! Sau từng cánh cửa Dù đi xa hay ở rất gần Ta vẫn nghe tiếng con gọi mẹ...
(Xem: 17936)
Mẹ có nghĩa là ánh sáng Một ngọn đèn thắp bằng máu con tim Mẹ có nghĩa là mãi mãi Là cho đi không đòi lại bao giờ
(Xem: 21856)
Con sẽ không đợi một ngày kia Khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?
(Xem: 11392)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant