Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Dòng Truyền Thừa Mahamudra Drikung Kagyu

19 Tháng Sáu 201421:48(Xem: 11037)
Dòng Truyền Thừa Mahamudra Drikung Kagyu

DÒNG TRUYỀN THỪA MAHAMUDRA (ĐẠI ẤN)
DRIKUNG KAGYU


Ba Dòng Suối Truyền thừa tụ hội thành Dòng Drikung Kagyu
Thanh Liên dịch

drikung_kagyu_2drikung_kagyu_1

Thanka Chi tiết về Dòng Truyền thừa Thanka Vắn tắt về Dòng Truyền thừa

Sự Truyền thừa

(Ba Dòng Truyền thừa nhập thành Một)

A. Dòng Thực hành Sâu xa

Đức Phật Di Lặc truyền cho Asanga (Vô Trước), tiếp tục truyền cho Vasubandhu (Thế Thân), tới Arya Namdrole, Namdrol De, Chokgi De, Dulwai De, Khenpo Yangdak Namnangze, tới Sengha Badra, Rinchen Zangpo, Rata Pranapala, Gunamaitra, Atisha, tới Gampopa, Phagmo Drupa, tới Đức Jigten Sumgon (vị sáng lập dòng Drikung Kagyu) cho tới các vị hộ trì dòng truyền thừa hiện tại Chokyi Jugne (Chuntsang Rinpoche Hiện tại) và Thinley Lhundrub (Chetsang Rinpoche Hiện tại).

B. Dòng Quan kiến Sâu xa

Arya Nagarjuna (Thánh Long Thọ) truyền cho Chandrakirti (Nguyệt Xứng), tiếp tục truyền cho Rigpe Khuchuk, tới Kusali Lớn, tới Kusali Nhỏ, Atisha, Gampopa, Phagmo Drupa, Đức Jigten Sumgon (vị sáng lập dòng Drikung Kagyu) cho tới các vị hộ trì dòng truyền thừa hiện tại Chokyi Jugne (Chuntsang Rinpoche Hiện tại) và Thinley Lhundrub (Chetsang Rinpoche Hiện tại).

C. Dòng Kinh nghiệm Thiền định Gia hộ Sâu xa

Đức Phật Kim Cương Trì truyền cho Thành tựu giả Tilopa, tiếp tục truyền cho Thành tựu giả Naropa, tới Dịch giả Marpa, tới Đức Jetsun Milarepa, Lharje Gampopa (Dhagpo), Phagmo Drupa, Đức Jigten Sumgon (vị sáng lập dòng Drikung Kagyu) cho tới các vị hộ trì dòng truyền thừa hiện tại Chokyi Jugne (Chuntsang Rinpoche Hiện tại) và Thinley Lhundrub (Chetsang Rinpoche Hiện tại). Xem bảng ở bên trái….

drikung_kagyu_3


Gi
ới thiệu Ngắn gọn Dòng Drikung Kagyu

Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước. Dòng này được truyền trực tiếp từ Đức Phật Thích Ca Mâu NiĐức Phật nguyên thủy Kim Cương Trì (Vajradhara). Tất cả những Giáo pháp cao quý từ ba dòng truyền thừa đi đến Gampopa qua những Đạo sư hoàn toàn giác ngộ. Dòng thứ nhất được gọi là Dòng Chứng ngộ Gia trì Cao quý. Từ Đức Kim Cương Trì, nó được truyền cho Tilopa, từ Tilopa truyền tới Naropa, từ Naropa tới Marpa, từ Marpa tới Milarepa, và sau đó từ Milarepa tới Gampopa. Dòng truyền thứ hai được gọi là dòng Quan kiến Sâu xa. Dòng này đến từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và được truyền cho Nagarjuna (Long Thọ), rồi tới Chandrakirti v.v… tiếp tục tới Atisha, và sau đó từ Atisha tới Gampopa. Dòng truyền thứ ba được gọi là dòng Thực hành Tuyệt hảo. Nó đến từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và được truyền cho Manjushri (Văn Thù), từ Manjushri tới Maitreya (Di Lặc), từ Maitreya tới Asanga (Vô Trước) v.v… tiếp tục tới Atisha, và sau đó từ Atisha tới Gampopa. Gampopa nhận lãnh những giáo lý sâu xa, những khẩu truyền bí mật, các gia hộ v.v… của cả ba dòng truyền này. Sau đó tất cả những giáo lý này được Gampopa trao cho Phagmo Drupa. Mặc dù dòng Kagyu đến từ cùng một cội gốc, nhưng vào lúc đó dòng truyền thừa Kagyu được phân chia thành các nhánh khác nhau, mỗi nhánh bao gồm những giáo lý viên mãn và những gia trì giác ngộ. Như cây như ý có một cội gốc nhưng được phân chia thành những nhánh khác nhau, mỗi nhánh mang lại nhiều hoa trái kỳ diệu. Mặc dù Phagmo Drupa có hàng trăm ngàn đệ tử, Đức Jigten Sumgon là một trong những đệ tử thân thiếtchính yếu của ngài. Phagmo Drupa đã tiên tri rằng giáo lý và những gia hộ sẽ được tiếp nối bởi một Bồ Tát (Jigten Sumgon), người đã đạt được Thập Địa. Từ Phagmo Drupa, Jigten Sumgon đã nhận lãnh toàn bộ giáo lý, khẩu truyền bí mật, những giảng dạy và nhập môn, và những gia trì chứng ngộ v.v… Jigten Sumgon đã ban toàn bộ giáo lý, kể cả Sáu Yoga của Naropa, cho Gurawa Tsultrim Dorje, đệ tử chính yếu của ngài. Tất cả những năng lực, gia trìgiáo lý giác ngộ này được truyền xuống qua những Đạo sư tâm linh vĩ đại tới các vị hộ trì dòng truyền thừa thứ 37 và 36 hiện tại là Đức Drikung Kyabgon Chetsang Rinpoche và Đức Drikung Kyabgon Chungtsang. Hai vị này nằm trong số những Đạo sư tâm linh tôn quý nhất trong dòng truyền thừa Kagyu và vị hộ trì dòng truyền trực tiếp của Jigten Sumgon. Trong số các đệ tử của ngài, Đức Jigten Sumgon đã tiên tri nhiều lần: “Trong tương lai, giáo lý của ta sẽ phát triển nhờ hai Bồ Tát như mặt trờimặt trăng bởi lòng bi mẫntrí tuệ của họ.” Đức Chetsang Rinpoche như mặt trời, ngài là hiện thân của Bổn Tôn bi mẫn Quán Thế Âm. Đức Chungtsang Rinpoche như mặt trăng, là hiện thân của Bổn Tôn trí tuệ Văn Thù.

Dòng Drikung nổi danh nhờ Thực hành Phowa (Chuyển di Tâm thức) Vĩ đại và bởi các đại thiền giả. Có nhiều câu chuyện về những bậc đã đạt được giác ngộ trong một đời. Trong thập niên 1980, các hành giả vĩ đại dòng Drikung giảng dạy ở Tây TạngẤn Độ là Pachung Rinpoche và Khyunga Rinpoche, và những bậc Thầy vĩ đại khác. Khyunga Rinpoche đã đạt được chứng ngộ Bổn Tôn. Ngài đã diện kiến Chakrasamvara trong một đời người. Ngài giảng dạy nhiều khóa nhập thất ba năm, kể cả Sáu Yoga của Naropa. Trong thời gian đó có nhiều cảm hứng phi thường do các Đạo sư nhập thất vĩ đại này ban tặng. Ngay cả ngày nay cũng có những Thiền Sư vĩ đại của dòng Drikung như Garchen Rinpoche, Tenzin Nyima Rinpoche, và Druwang Rinpoche. Druwang Rinpoche đã chứng ngộ Đại Ấn cao cấp và nổi danh về sự nhiệt tâm và việc hát những bài ca tâm linh như Đức Milarepa. Đôi khi ngài dâng một bài chứng đạo ca thâm sâu lên Đức Đạt Lai Lạt Ma, hai vị Kyabgon Hộ trì dòng Drikung và những Đạo sư cao cấp khác. Có nhiều vị Thầy vĩ đại nhập thấtTây TạngẤn Độ đã đạt được mục đích của mình. Đức Kyabgon Chetsang Rinpoche đã thiết lập Viện Drikung Kagyu, Jang Chubling, ở Dehra Dun, miền Bắc Ấn Độ. Ở đó có nhiều tu sĩ tham dự việc học tập và nhiều vị dấn mình vào khóa nhập thất ba năm. Đức Kyabgon Chetsang Rinpoche du hành tới nhiều tu viện Drikung ở Ladakh, Ấn Độ, và Nepal, ban những giáo lý vĩ đại cho các tăng, ni và cư sĩ đến từ Tây phươngĐông phương.

Con Đường Đại Ấn Sâu xa Năm Nhánh của Dòng Drikung Kagyu Vinh quang

Trong truyền thống Kagyu của Phật giáo Tây Tạng, Mahamudra hay “Đại Ấn” được coi là tinh túy của Phật giáo. Đôi khi nó cũng được nhắc đến như giáo lý tối thượngsâu xa nhất của chư Phật. Đôi khi pháp Đại Ấn này được so sánh với Dzogchen (Đại Viên mãn) – tinh túy của Phật giáo theo dòng Nyingma. Thật không ngạc nhiên khi trong lịch sử Phật giáo Tây Tạng đã có nhiều nhân vật giảng dạy sự tổng hợp hay hợp nhất của Đại Ấn và Đại Viên mãn. Những vị Thầy khác đã thông suốt cả hai pháp này nhưng giảng dạy chúng một cách riêng biệt cho những đệ tử khác nhau khi các ngài thấy thích hợp. Nhưng đa số các vị Thầy đã tập trung vào việc thông suốt pháp Đại Viên mãn hay Đại Ấn.

Ta có thể truy nguyên dòng truyền thừa Đại Ấn theo “dòng-xa” cũng như “dòng-gần.” “Dòng xa” được truy nguyên từ các vị hộ trì hiện tại của dòng truyền thừa sâu xa này trở ngược tới Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lịch sử. Trái lại “dòng gần” được truy nguyên từ các vị hộ trì hiện tại trở ngược tới các Đại Thành tựu giả Ấn Độ như Saraha, Maitripa, Tilopa và Naropa, là những vị đã trực tiếp thọ nhận Đại Ấn từ Đức Phật Kim Cương Trì. Tuy nhiên, cũng nên nói rõ là mặc dù những Đại Thành tựu giả Ấn Độ này trực tiếp thọ nhận giáo lý Đại Ấn từ Đức Phật Kim Cương Trì (và vì thế là một phần của “dòng-gần”), các ngài cũng là những vị hộ trì của “dòng-xa” bởi các ngài cũng nhận giáo lý Đại Ấn từ những bậc Thầy trong loài người là những vị hộ trì của “dòng-xa” này. Vì thế, các dòng Đại Ấn đang được hộ trì bởi những dòng truyền thừa Kagyu khác nhau là những dòng truyền thừa “xa” cũng như dòng truyền thừa “gần”. Cần nói rõ là các dòng Đại Ấn cũng được thành lập trong truyền thống Gelug bởi trong quá khứ vài Đạo sư của truyền thống này cũng thọ nhận các giáo huấn Đại Ấn từ các vị hộ trì Đại Ấn trong truyền thống Kagyu. Dòng truyền thừa Đại Ấn này được gọi là dòng “Đại Ấn Kagyu-Gelug” – đôi khi được dịch là dòng “Đại Ấn Gelug Thì thầm” hay dòng “Đại Ấn Gelug Khẩu truyền.”

Hầu hết các dòng truyền thừa Đại Ấn Kagyu xuất phát từ giáo lý Đại Ấn do Gampopa (1079-1153) ban cho các đệ tử của ngài. Bản thân Gampopa thọ nhận Đại Ấn từ Đạo sư gốc Milarepa (1052-1135), Milarepa nhận nó từ Bổn sư Marpa (1012-1096). Marpa là người Tây Tạng đã du hành tới Ấn Độ và Nepal và nhận nhiều giáo lý từ các Đại Thành tựu giả Ấn Độ - những vị Thầy quan trọng nhất là Naropa và Maitripa đã truyền cho Marpa toàn bộ giáo lý về nền tảng, con đường và quả của Đại Ấn. Chính Gampopa đã kết hợp những giáo lý sâu xa của Đại Ấn với phương pháp thực hành tuần tự như truyền thống Kadampa giảng dạy. Học giả Atisha người Ấn Độ đã sáng lập truyền thống Kadam ở Tây Tạng. Gampopa là một tu sĩ trong truyền thống Kadam trước khi trở thành đệ tử của Milarepa. Mặc dù có nhiều cuộc thảo luận uyên thâm trong lịch sử Phật giáo Tây Tạng về cấp độ và các thể loại của Đại Ấn, dường như Gampopa chủ yếu tán thành hai cách tiếp cận Đại Ấn có thể chấp nhận được. Theo Gampopa, Đại Ấn có thể được tiếp cận qua con đường Kinh điển cũng như con đường tantra (Mật điển). Vì thế, ta có Đại Ấn-Kinh điển và Đại Ấn-Mật điển. Đôi khi Gampopa được cho là đã giảng dạy phương pháp thứ ba để đến với Đại Ấn, là cách tiếp cận không dựa trên Kinh điển mà cũng không dựa trên Mật điển.

Các Đạo sư Dòng Truyền thừa Kagyu – Tilopa, Naropa và Marpa

Từ Gampopa trở đi, nhiều dòng truyền Đại Ấn bắt đầu hình thành phù hợp với những loại Đại Ấn khác nhau do Gampopa và các vị kế thừa tâm linh giảng dạy. Một vài truyền thống Đại Ấn có thể được truy nguyên từ Gampopa hay các hậu duệ của ngài là truyền thống “Tạo tác và Hợp nhất Đồng thời,” “Sáu Vị Như nhau,” “Bốn Chữ” và “Con Đường Sâu xa Năm Nhánh.” Những truyền thống này vẫn được hộ trì bởi bốn dòng truyền thừa Kagyu còn tồn tại, đó là Karma, Taglung, Drukpa và Drigung Kagyu.

Trong dòng Drigung Kagyu, hệ thống Đại Ấn chính yếu là hệ thống được gọi là “Con Đường Đại Ấn Sâu xa Năm Nhánh” hay cũng được gọi là “Năm Sở hữu.” Mặc dù bản thân Gampopa cũng đã giảng dạy phương pháp Đại Ấn đặc biệt này, tên gọi của nó do vị kế thừa của ngài là Phagmo Drupa (1110-1170), bổn sư của Kyobpa Jigten Sumgon, vị sáng lập dòng Drigung Kagyu, ban cho. Mặc dù hệ thống Con Đường Sâu xa Năm Nhánh này chủ yếu do những hành giả dòng Drigung Kagyu nắm giữ, bản thân Phagmo Drupa cũng biên soạn một bản văn về hệ thống này tên là “Những vần Kệ về Con Đường Năm Nhánh.” Các Đạo sư của Trophu Kagyu (dòng Kagyu đặc biệt này không còn tồn tại như một dòng độc lập) và dòng Taglung Kagyu cũng đã viết về hệ thống đặc biệt này. Gyalwa Yang Gonpa, một vị Thầy của dòng Drukpa Kagyu đã viết “Giọt Cam lồ: Con Đường Năm Nhánh.” Đức Toàn trí Pema Garpo của dòng Drukpa Kagyu cũng viết về hệ thống này trong tác phẩm “Cốt tủy của Tâm.” Situ Chokyi Jungne cũng viết những luận giảng rộng lớn về Con Đường Sâu xa Năm Nhánh. Trong “Lời Giới thiệu” cho quyển sách “Vòng Hoa các Thực hành Đại Ấn,” (bản dịch “Minh giải Chuỗi Ngọc của Con Đường Sâu xa Năm Nhánh” của Gylwang Kunga Rinchen [1475-1527], Đức Drigung Kyabgon Chetsang Rinpoche đã nói rõ là ngày nay những người nương tựa vào hệ thống này hầu như đi theo những luận giảng của Drigung Dharmakirti. Trong quá khứ, nhiều vị Thầy Drigung Kagyu khác cũng biên soạn những luận giảng lớn về hệ thống Đại Ấn này. Tất nhiên là bản thân Kyobpa Rinpoche cũng biên soạn vài bản văn và nhiều bài ca về chủ đề này.

Pháp Vương Gampopa

Như thế theo hệ thống này, năm “nhánh” của con đường Đại Ấn sâu xa này là:

1) Bồ đề tâmý hướng vị tha giải thoát tất cả chúng sinh khỏi sinh tử,
2) Bổn Tôn – thực hành quán tưởng bản thân hành giả như một bậc giác ngộ siêu việt

3) Đạo sư du giàcố gắng hợp nhất với tâm trí tuệ của Đạo sư,

4) Đại Ấn – việc dấn mình thực sự vào pháp Đại Ấn và cuối cùng,
5) Hồi hướng – sự hồi hướng trọn vẹn những đức hạnh của hành giả.

Trước khi có thể bắt đầu dấn mình vào các thực hành được trình bày trong hệ thống này, trước hết ta cần tập trung vào những thực hành căn bản. Thực hành “nhánh” đầu tiên đảm nhận việc ưu tiên hoàn thành điều được gọi là “các thực hành căn bản” (TT: ngondro). Những thực hành căn bản này được phân chia thành các thực hành ngoại và nội. Những thực hành ngoại căn bản ám chỉ “Bốn Tư tưởng Chuyển Tâm” do Gampopa giảng dạy. Các tư tưởng này củng cố trong dòng tâm thức của ta bốn sự thấu hiểu về:

1) sự may mắn được sinh ra làm người quý báu,

2) tính chất phổ quát của lẽ vô thường,

3) vận hành không sai lạc của nhân và quả, và

4) không mãn nguyệnbản tánh của sinh tử.

Sau khi đã củng cố nền tảng vững chắc về bốn tư tưởng này trong dòng tâm thức của ta, ta có thể bắt đầu dấn mình vào những thực hành nội căn bản. Đó là:

1) quy y, xác nhậncủng cố hứa nguyện của ta đối với Tam Bảo,
2) tịnh hóa Kim Cương Tát Đỏa để tiệt trừ ác nghiệp và những dấu vết nghiệp của ta,

3) cúng dường mạn đà la để tích tập sâu xa công đức cần thiết cho việc thành tựu Phật quả viên mãn

4) Đạo sư-du già để nhận sự cảm hứng-gia trì của các Đạo sư gốc và Đạo sư dòng truyền thừa.

Chỉ sau khi hoàn tất những thực hành này (bốn thực hành, mỗi thực hành 100.000 lần), ta mới chính thức bắt đầu nhánh thứ nhất của Con Đường Sâu xa-Năm nhánh, đó là Bồ đề tâm.

Trong một bài ca-kim cương (trong rất nhiều bài) của ngài, Kyobpa Rinpoche đã hát về Bồ đề tâm:

“Nếu con ngựa của lòng từ và bi

Không chạy vì lợi ích của chúng sinh,
Nó sẽ không được tập hội trời và người tôn kính.
Vì thế hãy chú tâm vào các thực hành chuẩn bị.”

Drigung Kyobpa Rinpoche

Bồ đề tâm được định nghĩa ngắn gọn là “ý hướng vị tha giải thoát tất cả chúng sinh khỏi sinh tử.” Bồ đề tâm rất thường bị lầm lẫn với lòng bi mẫn. Mặc dù lòng bi mẫn là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong việc phát triển Bồ đề tâm nhưng tự nó không phải là Bồ đề tâm. Sự khơi dậy Bồ đề tâm bắt đầu bằng cách trước hết chú tâm vào việc phát triển lòng từ ái đối với tất cả chúng sinh. Người ta nói rằng từ áicảm xúc ta có khi nhìn một đứa trẻ mới sinh. Khi ta nhìn một em bé, ta thường tự động có những tư tưởng tốt lànhthân thiết đối với đứa trẻ. Thật tự nhiên, ta ước muốn được đứa bé được bình an, hạnh phúc và không bị mọi họa hại. Không có gì dễ chịu hơn khi được nhìn thấy một đứa trẻ đang ngủ ngon lành. Chính sự ấm áp và tình thươngđiều kiện đó mà ta đang cố gắng phát triển cho tất cả chúng sinh. Chúng ta cố gắng coi tất cả chúng sinh như con cái của chính mình, là những người mà ta yêu thươngđiều kiện. Ta cầu nguyện họ được che chở, được hạnh phúc và yên bình và vì họ ta sẵn lòng từ bỏ cuộc đời của mình. Khi ta có thể cảm nhận theo cách này đối với tất cả chúng sinh, ta sẽ có thể phát triển lòng bi mẫn một cách tự nhiên. Lòng bi mẫncảm xúc mong muốn giải thoát chúng sinh khỏi đau khổ và những nguyên nhân của đau khổ. Đó là cảm xúc ta có khi ta gặp người nào đó đang đau khổ bởi một chứng bệnh khủng khiếp hay đang phải trải qua nỗi khổ dữ dội về mặt thể xác và cảm xúc. Ta muốn có thể giúp đỡ và làm an dịu nỗi khổ đó, khổ đau đó. Như thế khi đã phát triển và nuôi dưỡng lòng từ và bi, ta có thể đi tới chỗ sẵn sàng thực sự phát triển Bồ đề tâm.

Như được định nghĩa trước đây, Bồ đề tâm là “ý hướng vị tha giải thoát tất cả chúng sinh khỏi sinh tử.” Khi nhận ra rằng chúng sinh hoàn toàn bị khổ đau sai sử trong sinh tử, ta có được một nhận thức sâu xa rằng chỉ bằng cách đạt được trạng thái Phật quả viên mãn thì ta mới có thể chiến thắng được khổ đau trong sinh tử một lầnmãi mãi. Mặc dù có nhiều cách để làm an dịu nỗi khổ của chúng sinh, nhưng tất cả những phương pháp đó đều tạm thời và không rốt ráo. Chỉ bằng cách nhổ tận gốc nguyên nhân của đau khổ thì ta mới hoàn toàn thoát khỏi đau khổ. Và đây là trạng thái giải thoát tối hậu; Phật quả viên mãn. Sự thấu suốt này – sự thấu hiểu những khiếm khuyết, nguyên nhân, sự chấm dứtcon đường để chấm dứt sinh tử, chính là trí tuệ. Vì thế, ở một mặt, Bồ đề tâmquyết tâm phát khởi từ lòng từ và bi và mặt khác nó phát khởi từ trí tuệ. Khi cả hai phương diện này tụ hội thì Bồ đề tâm được phát triển.

Tiết mục thứ hai của Con Đường Sâu xa Năm-nhánh là thực hành Bổn Tôn. Thực hành Bổn Tôn ám chỉ các thực hành phát triển và thành tựu của Mật điển du già tối thượng và trong trường hợp đặc biệt này trong hệ thống Mật điển du già tối thượng của giáo khóa Chakrasamvara. Mặc dù Bổn Tôn chính yếu của Marpa là Hevajra, Đạo sư Naropa của ngài đã tiên đoán rằng cuối cùng dòng truyền của Marpa sẽ nương tựa vào Chakrasamvara như Bổn Tôn chính yếu. Vì thế, Chakrasamvara là thực hành chính yếu mà Marpa đã truyền cho đệ tử chính của ngài là Milarepa.

Chakrasamvara


Có nhiều thân tướng khác nhau của Chakrasamvara xuất hiện với số gương mặt, bàn tay khác nhau, và số vị trong đoàn tùy tùng bao quanh. Trong dòng Drigung Kagyu, thực hành Bổn Tôn Chakrasamvara phổ biến và thông thường nhất là thân tướng của Chakrasamvara Năm-Bổn Tôn. Chakrasamvara Năm-Bổn Tôn bao gồm Bổn Tôn Chakrasamvara nam chính yếu có hai tay, một mặt trong sự hợp nhất với Bổn Tôn nữ Vajravarahi (hai vị này hợp nhất như một Bổn Tôn duy nhất) và bốn dakini bao quanh ở bốn hướng. Thực hành Yidam (Bổn Tôn) là một thực hành Mật thừa vô cùng đặc biệt trong đó ta chuyển hóa kinh nghiệm thông thường, sinh tử của ta về thực tại thành một kinh nghiệm phi thường về trạng thái đích thực của mọi hiện tượng. Trong khi giáo lý ở cấp độ Kinh thừa coi vô minh như nguyên nhân triệt để của hiện hữu sinh tử, giáo lý Mật thừa coi những hình tướng bình thường như nguyên nhân rốt ráo của sinh tử luân hồi. Thực hành Bổn Tôn là một phương pháp sâu xađặc biệt để nhanh chóng chuyển hóa những hình tướng bình thường thành những hình tướng giác ngộ. Chính xác hơn, thực hành này khám phá trạng thái thực sự của các hình tướngbiểu lộ chúng là cái gì luôn luôn thuần tịnh và trống không. Thực hành Bổn Tôn không biến các hình tướng thông thường thành cái chúng không là – thuần tịnh và không có sự hiện hữu bẩm sinh. Đúng hơn, nó khám phá sự thuần tịnh và trống không (tánh Không) đã luôn luôn ở đó nhưng bị ngăn che và không được nhận ra. Do bởi tính chất Mật thừa của những giáo lý này, điều tốt nhất là ta trực tiếp nhận lãnh các chi tiết của những giáo lý này từ một vị Thầy đích thực của dòng truyền thừa. Hy vọng rằng mô tả ngắn gọn về thực hành Bổn Tôn này là tiết mục thứ hai của Con Đường Sâu xa Năm Nhánh của Đại Ấn sẽ khuyến khích người đọc tìm được những giáo lý sâu xa này từ một vị Thầy chân chínhđáng tin cậy của dòng truyền thừa khi đã đến lúc và khi hội đủ các nhân duyên. Kyobpa Rinpoche đã hát:


“Nếu thân thể ta, Vua của các Bổn Tôn
không được củng cố trên Nền tảng Bất biến này,
Đoàn tùy tùng dakini sẽ không tụ hội.
Vì thế, hãy quyết chắc rằng thân bạn là Bổn Tôn.”


Tiết mục thứ ba của Con Đường Năm Nhánh là thực hành Guru-yoga hay thực hành đạt được sự hợp nhất với tâm trí tuệ của vị Thầy (Đạo sư). Có nhiều loại Thầy – cha mẹ ta là những vị Thầy đầu tiên của ta, những người Thầy trong trường tiểu học dạy ta đọc và viết, các Thầy dạy các môn nghệ thuật và khoa học thế tục, các vị Thầy tâm linh ban cho ta các giới nguyện Quy y, các vị Thầy ban cho ta giới nguyện cư sĩ hay tu sĩ, các vị Thầy dạy về Bồ Tát giới, các vị Thầy Kim cương (Kim Cương Sư) ban cho ta các quán đảnh Mật thừa và cuối cùng các vị Thầy giới thiệu cho ta bản tánh của tâm ta. Ở một ý nghĩa nào đó thì vị Thầy được ám chỉ ở đây trong thực hành Guru-yoga là tất cả những vị Thầy trên. Tuy nhiên, đó không phải là một thực hành quá chú trọng đến một cá nhân đặc biệt mà ta gọi là “Thầy” của ta, điều được chú trọng là tâm-trí tuệ căn bản ở trong tất cả những vị Thầy đã dạy dỗ ta. Bằng cách tin tưởng và nương tựa vào tâm-trí tuệ căn bản này mà ta định vị trong các vị Thầy của ta (và đặc biệt là trong vị Thầy đã giới thiệu cho ta bản tánh của tâm), chúng ta cố gắng nhận ra tâm-trí tuệ đó vốn sẵn có trong chúng ta. Đặc biệt là ta cần nương tựa một vị Thầy đích thực và nhiều kinh nghiệmbản thân ngài đã nhận ra bản tánh của tâm và có thể giúp ta cũng nhận ra bản tánh của tâm ta. Thực hành Guru-yoga được tán tụng trong truyền thống như phương pháp sâu xa và trực tiếp nhất để nhanh chóng nhận ra bản tánh của tâm. Nhiều vị Thầy dòng Kagyu đã giảng dạy rằng cách thức nhanh chóng và bảo đảm nhất để nhận ra bản tánh của tâm là một tâm thức tràn đầy lòng sùng mộ. Khi lòng sùng mộ hiện diện thì việc nhận ra bản tánh của tâm không còn xa. Kyobpa Rinpoche đã hát:

“Nếu thân thể ta, Vua của các Bổn Tôn
không được củng cố trên Nền tảng Bất biến này,
Đoàn tùy tùng dakini sẽ không tụ hội.
Vì thế, hãy quyết chắc rằng thân bạn là Bổn Tôn.”

Pháp Guru-yoga (Đạo sư Du già) được thực hành như tiết mục thứ ba của Con Đường Sâu xa Năm Nhánh thì hơi phức tạp và nhiều chi tiết hơn thực hành Guru-yoga được tìm thấy trong các thực hành nội căn bản (ngondro). Đặc biệt là “Guru-yoga Bốn kaya” được thực hành ở đây. Bốn kaya hay “thân’ này ám chỉ Thân Hóa hiện (Hóa Thân, Phạn ngữ: nirmanakaya, Tây Tạng: trul-ku), Thân Hỉ lạc (Báo Thân, Phạn: sambhogakaya, TT: long-ku), Thân Thực tại (Pháp Thân, Phạn: dharmakaya, TT: cho-ku) và Thân Tự Tánh (Phạn: svabhavikakaya, TT: ngowo nyi-ku), là sự bất khả phân của ba thân trước. Trong văn cảnh này, ba thân đầu được coi là chân lý tương đối và thân thứ tư là chân lý tuyệt đối. Trước tiên, một hành giả sẽ thực hành Guru-yoga Hóa Thân, trong đó vị Thầy được quán tưởng trong thân tướng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (bản thân hành giả trong thân tướng bình thường). Kế đó hành giả thiền định về vị Thầy ở cấp độ Thân Hỉ lạc (Báo Thân) như Đức Phật Vairochana (Tỳ Lô Giá Na) (và bản thân hành giả là Bổn Tôn) và thiền định về Thân Thực tại (Pháp Thân) trong thân tướng của Đức Phật Kim Cương Trì. Cuối cùng, khi hành giả đi tới cấp độ Thân Tự tánh của thực hành guru yoga, vị Thầy là đối tượng thiền định mà không có bất kỳ hình tướng, màu sắc, danh hiệu hay hình dạng nào.

Đức Drigung Kyabgon Chetsang Rinpoche hiện tại viết:

“Ở bên ngoài là ba thân của vị Thầy, chân lý tương đối

(Ở bình diện) chân lý tuyệt đối, sự chói lọi tự-sinh của vị Thầy

bản tánh của tâm ta.

Vị Thầy, tâm ta và Phật thì bất khả phân (không thể tách lìa)
Xuất hiện như sự hiển lộ của thân Bản Tánh.”

Khi tâm thức đã trở nên thuần thục nhờ thực hành Guru-yoga, cuối cùng ta đạt được cốt tủy của Con Đường Sâu xa Năm-Nhánh – thực hành thực sự của tự thân Đại Ấn.

Đối với Đại Ấn, một lần nữa, Đức Drigung Kyabgon Chetsang Rinpoche hiện tại viết:

“Hãy duy trì tâm bất sinh tươi trẻ không mê lầm.

Trong trạng thái tự nhiên, không giả tạo này

Hãy hoàn toàn tránh khỏi sự tạo tác của thiền định và thiền giả (người thiền định)

Tâm bình thường, không thiền định, không rối loạn An trụ không luyến bám và không xa lìa

Thoát khỏi hy vọngsợ hãi, bám chấp và buông thả

Chấp nhận (lấy) và vứt bỏ (bỏ), thiền định và sau-thiền định.”

Chúng ta sẽ không thảo luận xa hơn về chủ đề này bởi cách hay nhất là Đại Ấn nên được một vị Thầy bằng xương bằng thịt giảng dạy. Tuy nhiên, có một sự liên kết với một giáo lý đơn giản nhưng sâu xa về Đại Ấn được ban truyền một cách tự nhiên bởi một trong những Đạo sư quan trọng nhất còn sống của dòng Drikung Kagyu hiện nay – Đức Garchen Rinpoche, vị Rinpoche chính yếu của dòng Drikung Kagyu ở miền Đông Tây Tạng.

Cuối cùng, tiết mục Hồi hướng là mục thứ năm của Con Đường Năm Nhánh Sâu xa. Hồi hướng là một trong những đặc điểm của thực hành Phật giáo – một tu tập được thực hành vào lúc kết thúc mọi tu tập dù là Hinayana (Thanh Văn thừa) hay Mahayana (Đại thừa) (ở cả hai cấp độ Kinh điểnMật điển). Bằng cách hồi hướng công đức việc thực hành của ta cho sự giải thoát toàn triệt của chúng sinh khỏi mọi đau khổ và những nguyên nhân của đau khổ, ta bảo đảm rằng thực hành của ta giữ được nguyên vẹn sự thuần tịnh và lợi lạc. Như với hầu hết các thực hành, có những phương diện tương đốituyệt đối (và rất cần phải nhớ rằng ta không đặt nặng phương diện này hơn phương diện kia mà đúng hơn ta thực hành thật hoàn hảo cả hai cấp độ như chúng bất khả phân trong thực tế.) Ở phương diện tuyệt đối của sự Hồi hướngHồi hướng trong văn cảnh Đại Ấn – ta hồi hướng công đức với sự hiểu biết rằng bản thân ta, công đức được hồi hướng và tự thân sự hồi hướng đều là không; tánh Không ba phần.

Con Đường Năm-Nhánh Sâu xa Đại Ấn là một con đường viên mãn để đạt được sự toàn giác trong một đời người. Trong quá khứ, nhiều hành giả đã sử dụng Con Đường này và đã đến bến bờ an bình viên mãn (đáo bỉ ngạn). Hiện nay cũng có nhiều hành giả chân thành của Con Đường này đang thực hành dưới sự dẫn dắt lão luyện và tràn đầy bi mẫn của các vị Thầy dòng truyền thừa Drikung Kagyu. Cũng có nhiều hành giả chân thành của truyền thống Đại Ấn của Đức Gampopa đang đi theo những truyền thống Đại Ấn khác nhau phát triển từ hệ thống Đại Ấn nền tảng của Gampopa. Hơn nữa, ngoài các dòng Đại Ấn Kagyu thuần túy, cũng có dòng thực hành Đại Ấn trong dòng truyền thừa Gelug. Cũng nên nhắc đến sự “hợp nhất” của thực hành Đại Ấn và Đại Viên mãn xuất phát từ một vài Đạo sư của dòng Kagyu và Nyingma.

“Để tất cả chúng sinh từng là những bà mẹ của con
Có thể nhanh chóng thoát khỏi sinh tử
Và có thể đạt được sự toàn giác
Con xin hồi hướng mọi công đức tích tập được bởi
Bản thân con và tất cả chúng sinh và những bậc giác ngộ trong ba thời
Cũng như công đức của Phật-tánh thuần tịnh bẩm sinh.”

Biểu đồ Phát triển sự Trao truyền của Dòng Drikung Kagyu

drikung_kagyu_4

Tải Thanka Dòng Drikung:

http://www.dharma-media.org/media/general/dwnld/thankas_photos.html

HỒI HƯỚNG
Xin hồi hướng công đức này cho sự bất diệt viên mãn của dòng Kagyu vinh quang và xin hồi hướng cho các vị lãnh đạomôn đồ của dòng truyền thừa thành tựu hứa nguyện đưa tất cả chúng sinh đến trạng thái giác ngộ.

BỐN TƯ TƯỞNG VÔ HẠN

Nguyện tất cả các bà mẹ chúng sinh bao la như không gian được hạnh phúc và các nguyên nhân của hạnh phúc. Nguyện họ thoát khỏi đau khổ và những nguyên nhân của đau khổ.
Nguyện họ không bao giờ xa lìa hạnh phúc không buồn đau.
Nguyện họ an trụ trong sự xả bỏ, thoát khỏi tham muốnganh ghét.

Thanh Liên dịch từ nguyên tác “Mahamudra Lineage Drikung Kagyu”

http://www.dharma-media.org/wogmin/mahamudra.html

 



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11555)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13556)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14127)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10311)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10784)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11337)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11284)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11441)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10178)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9970)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10716)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11321)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42227)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10489)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11865)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10019)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10462)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10636)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45788)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32129)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11328)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10708)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11334)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10637)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13462)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12381)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11035)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10622)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12331)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11175)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11850)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29287)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9221)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10555)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10247)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10598)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10912)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10811)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32154)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27405)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17811)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11881)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12293)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10448)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11702)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10438)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10792)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28090)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10163)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10289)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10659)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10773)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11234)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10404)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10697)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11481)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18271)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10529)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12858)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11756)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29207)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28612)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28309)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13330)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22789)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13445)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11582)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13828)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25732)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26089)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22321)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14492)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12077)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11812)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11692)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11494)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33206)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31853)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12043)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39637)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22505)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11966)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14244)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13351)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14310)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12075)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10414)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11238)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13331)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34541)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12634)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12238)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13534)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12629)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12984)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16312)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11759)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27404)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28441)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 13430)
Phật là hoa sen, hoa sen là Phật. Khi Ngài sinh ra bước đi trên bảy đóa hoa senhình ảnh biểu đạt con đường đi đến thăng chứng qua bảy giai trình tu tập...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant