Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Con Đường Tịnh Độ

19 Tháng Giêng 201511:21(Xem: 8058)
Con Đường Tịnh Độ

CON ĐƯỜNG TỊNH ĐỘ
(Nhật ký vãng sanh)

Chấp tay nhất niệm Di Đà
Trái tim Tịnh Độ nở hoa Đại Từ

Nhã Lan Thư

Con Đường Tịnh ĐộThành kính dâng lên lời cầu nguyện “Nam Mô A Di Đà Phật”, xin hồi hướng công đức tụng kinh niệm Phật đến những Bồ Tát đã vãng sanh và tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới.

Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi, sau nghi thức tụng kinh và cúng cơm cho bác, mọi người đều đứng dậy tản mác ra sân để sau đó vào dùng cơm trưa. Tôi thơ thẩn đi tới góc phòng nơi có bàn kinh sách để cho phật tử thỉnh kinh, tôi chợt thấy ở một góc bàn có cuốn sách nhỏ tựa đề “Lắng nghe tiếng hát sông Hằng” của Pháp sư Đạo Chứng được dịch thuật bởi Thích Minh Quang. Tò mò cầm lên xem tôi thật sự cãm động bởi tấm lòng từ bi chân thành của một vị bác sĩ chuyên trị ung thư, cô đã chứng kiến nổi đau khổ của nhân sinh trong cuộc hành trình vô thường của kiếp người. Sự cảm thông sâu sắc của một vị chuyên khoa đứng trước ngưỡng cửa sinh tử cũng phải cúi đầu với căn bệnh của thế kỷ mà con người chẳng may gánh chịu. Khi mà những kiến thứckinh nghiệm y khoa không thể nào xoa dịu được cơn đau đớn của thân xác và nổi niềm tuyệt vọng của bệnh nhân, cũng trong khi đó có một số hoàn cảnhthân nhângia đình người bệnh qúa mỏi mệt chán nản và sẳn sàng buông bỏ chấp nhận cầu mong giờ phút ra đi của người bệnh. Pháp sư với tấm lòng của một bồ tát đã tha thiết hướng tâm mình đến Đức A Di Đà Phật xin ngài từ bi tiếp dẩn họ về quê hương ngài, nơi cỏi tịnh độ đầy an lạc và nơi đó con người không còn thọ khổ, nơi đó con người không còn dính mắc với những nghiệp báo trói buộc con người trong thân xác vô thường tạm bợ nay còn mai mất. Nơi vùng đất an dưỡng đó con người không còn phải trôi lăn trong mạng lưới chằn chịt của luân hồi nghiệp lực khó có ngày ra khỏi. Con người đã nhờ tha lực của Đức Phật A Di Đàmười phương chư phật để có thể vãng sanh vào những đóa sen ngát hương lành mà Phật Pháp là suối nguồn hạnh phúc.

Cuốn sách nhỏ của pháp sư Đạo Chứng làm tôi xúc động mảnh liệt vì đó không phải là những câu chuyện hư cấu, mà mỗi câu chuyện là một bài học nhân sinh thật chứng từ cuộc đời mà những con người đã sống với thân bệnh và kinh nghiệm đầy đau đớn được viết ra để cho chúng ta hôm nay những người còn đang khoẻ mạnh, còn nhìn thấy trời xanh mây trắng, còn ngửi được hương thơm của hoa hồng, còn ăn những thức ăn ngon, phải bắt đầu giật mình tỉnh thức. Đó là hồi chuông vang lừng kêu gọi chúng ta hẫy quay về với chính mình, hẫy sống thật trong từng giây phút, hẫy chấp nhận cuộc đời bằng con mắt biết ơnchúng ta vẫn còn đang sống trong vòng tay thân ái của gia đìnhquyến thuộc.

Xin mỗi ngày thức dậy bằng nụ cười, tập buông bỏ những gì bất như ý vì mai nầy khi chúng ta ra đi sẻ không mang theo được gì ngoại trừ một tâm thức như như hằng sống và những nghiệp lực của chính chúng ta.

Tôi nhớ tới một bài thơ của thầy Thích Tâm Thiện:

Người từ vô tận tái sinh
Đi qua trần thế mang tình nhân gian
Rồi từ cuộc mộng vừa tan
Quê hương một độ bàng hoàng ra đi
Ngày về bạc tóc hài nhi
Nắng chiều nhẹ đỗ thầm thì trên vai
Giã từ giấc mộng thiên thai
Vô biên ngày ấy Như Lai gọi về.

Bài thơ của thầy muốn nói gì? Phải chăng chúng ta những con người ở cỏi ta bà nầy dù tóc có bạc vẩn luôn ẩn hiện hình ảnh của một hài nhi hiện diện chuẩn bị cho một cuộc tái sinh vô tận, để rồi lại tiếp nối cuộc sống trên những vùng đất nước khác, và sẽ có mộtngày cũng phải từ giã cỏi đời dù là một giấc mộng thiên thai. Ngày đó chúng ta lại quay về đâu?

Câu hỏi đó cứ lập đi lập lại cho đến một ngày tôi tiếp cận với Tịnh Độhộ niệm cho người sắp mất là một pháp môn thù thắngbản thân tôi vô cùng trân trọng cho phước duyên được đứng trước giờ sanh ly tử biệt của các vị đạo hửu và gia đình. Từ giờ phút nầy tôi xin được gọi các vị ấy là Bồ Tát, đây lại là một nhân duyên khác trong trùng trùng duyên khởi mà tôi đã nhận và học từ hai vị ni sưni sư Như Nhưni sư Từ Bình.

Trước hết tôi xin hai vị ni sư thứ lổi cho tôi khi viết về người, vì do các ni sư không muốn được nhắc tới. Do một cơ duyên tôi được biết ni sư Như Như qua điện thoại và được biết ni sư hiện tu theo Tịnh Độ. Lúc bấy giờ tôi hoàn toàn không một mẩy mây kiến thức gì về các pháp môn trong Phật giáo. Là một phật tử Việt Nam với truyền thống gia đình thờ Phật, trọng tăng, cúng bái tổ tiên và chăm sóc bố mẹ là bổn phận con cái. Tôi cũng ít khi đi chùa, lập bàn thờ tại gia, và từ nhỏ theo mẹ tụng Linh Cãm Chân Ngôn của Bồ Tát Quán Thế Âm. Khi bé khoảng sáu hay bẩy tuổi, trong nhà có cuốn kinh tụng sám bìa nâu và trang giấy củ kỷ vàng sậm vì khói hương làm tôi đặc biệt yêu thích và thích nhất là bài sám Di Đà:

Muốn đi có một đàng nầy

Nhứt tâm niệm Phật khó gì thoát ra

Vậy khuyên phải niệm Di Đà

Hồng danh sáu chữ thật là rất cao

……..

Tôi học thuộc lòng bài sám khá dài ấy và những khi thích chí thường lấy ra ca hát om xòm, có một lần chợt nhiên tôi tự hỏi “ tại sao muốn đi có một đàng nầy? Và tại sao niệm Phật lại khó thoát ra?”

Tôi cứ mang nỗi niềm thắc mắc ấy mà không biết hỏi ai, cho tới hơn bốn mươi năm sau, khi được hầu chuyện cùng ni sư Như Như qua điện thoại, ni sư rất từ bi luôn luôn khuyên nhủ chúng tôi hẩy dốc một lòng niệm Vạn Đức Hồng Danh của A Di Đà Phật và vượt thoát ra khỏi biển sanh tử luân hồi. Lúc ấy tôi nhớ lại bài sám ngày xưa và như đốm lửa nhỏ bừng sáng lớn dần và rực rở trong tâm thức tôi. Ni sư là vị thầy gởi cho tôi rất nhiều kinh sách Tịnh Độ, qua đó tôi học được rất nhiều, và nhờ thế tôi tìm thấy hình ảnh một vị tổ sư mà tôi đã mong tìm.

Một thời gian sau đạo hửu Lisa gọi cho biết có một ni sư tới từ Đài Loan và hiện bà đang giảng pháp tại nhà sư tỷ Alice, bà đã từng tu Thiền hơn hai mươi năm, nhưng sau nầy bà tu theo Tịnh Độ và bà chuyên hộ niệm giúp người vãng sanh. Đây là một đề tài rất khó nói vì ai nghe tới đều không thích biết, thường thì trong cuộc sống ai cũng muốn vui, ít ai muốn buồn, hơn nữa lại là một đề tài rất buồn cho những người chưa hiểu gì về Tịnh Độ, nói thẳng ra là nói về sự chết, và bà đang cần một người thông dịch cho các phật tử Việt Nam có cơ hội được nghe được hiểu, vì vậy đạo hửu Ngọc đảm nhiệm phần Việt dịch. Ban đầu tôi cũng ngại đi nghe, nhưng sau khi đạo hửu Ngọc thuật lại kinh nghiệm sâu sắc sống thực của ni sư, tôi quyết định dành buổi chiều thứ sáu đến tham dự, đó là lần giảng thứ hai của ni sư cho các nhóm phật tử khác nhau. Khi tôi tới niệm Phật đường của các đạo hửu người Đài Loan thì thấy mọi người đã nghiêm chỉnh xếp hàng để chào đón vị Pháp sư. Niệm Phật đường nằm trong một khu vực toàn là văn phòng của các bác sĩ, luật sư ngoại quốc, nếu đứng ngoài nhìn vào không ai có thể ngờ có một niệm Phật đường u nhã tại đây.

Ni sư đã dùng phim “Ghost” (Linh Hồn) như là phần dẩn nhập bắt đầu của bài giảng và từ điểm đó Ni sư cho thấy con người dù ở bất cứ một tôn giáo nào một sắc dân nào khi chết đều đứng trước cảnh giới của một linh hồn đang bơ vơ bối rối vì vừa thoát ra khỏi thân xác. Nếu con người lúc còn sống đã sớm thức tỉnh để tu học, để biết rằng sự sống rất là quý báu, thân người rất hiếm được và dùng thì giờ để học hỏi quán chiếu giai đoạn cuối cùng mà kiếp nhân sinh phải đối diện thì lúc đó con người không còn sợ sệt đau khổ để vui vẻ tiến tới vùng ánh sáng Chân Thiện Mỹ, Đạo Phật Tịnh Độ đã hướng dẩn con người sống tích cực tại hiện đời trong việc hoà đồng hướng thiện buông bỏ tham ái sân hận cho kiếp sống hiện tạisẳn sàng an nhiên tự tại lúc ra đi. Trong khi đó vẩn rất từ ái không quên dẩn dắt hộ niệm những chúng sanh còn non nớt trên hành trình cuối đời. Người theo đạo Phật cũng nên biết thêm khi Đức Thích Ca Mâu Ni còn tại thế đã tuyên xưng thế giới cực lạc của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà Phậtthù thắng hơn hết cho chúng sanh ở cỏi Ta Bà. Cũng nhờ thế Hoàng Hậu Vi Đề Hi trong bối cảnh của một thảm kịck gia đình có người con nghịch tử đã xin Phật chỉ dậy và an tâm ra đi để cuối cùng đắc qủa và Tịnh Độ là một con đường nhanh nhất có thể giúp con người chuyển phàm thành Thánh.

Những bài học sau của Ni Sư trong tuần lể bà còn ở lại tiểu bang của chúng tôi là những bài học quý giá vô cùng, bà dùng những đoạn phim của những lần hộ niệm do chính bà đảm nhiệm để dậy cho chúng tôi phải thành kính cám ơn những Bồ Tát vãng sanh, đã cho phép đem hình ảnh và giờ phút lâm chung của họ ra làm bài học sâu sắc cho chúng tôi. Mỗi lần nhắc đến họ Ni Sư luôn luôn thành kính đảnh lể. Có những Bồ Tát mang trên ngưởi những căn bệnh khổ không thế nào tà xiết được. Như một vị Bồ Tát với căn bệnh ung thư để lại những lổ hổng sâu ăn đến độ có thể nhìn thấy trong người, những lổ hổng nầy luôn luôn nhóp nhép như miệng người không ngừng nghỉ. Trong những giờ phút đau khổ. Bồ Tát ấy do một Phúc duyên được nghe đến Ni Sư và mời bà đến hộ niệm để rồi ra đi trong bình tỉnh đó là những hình ảnh cảm động đã khiến đại chúng rơi lệ.

Ni Sư đã dậy chúng tôi đức kham nhẩn vì người bệnh Ni Sư đã cúi mình thấp nhất để qua được những sự chống đối từ gia đình, từ những người con khác tôn giáo tín ngưỡng đã hết sức gây khó khăn, ngay cả vận động những đứa trẻ nhỏ ngây thơ trong việc chống báng bà. Nhưng vì lòng từ bi thương xót người bệnh yếu ớt đang trông chờ được tiếp dẩn về quê hương an lạc mà họ hằng mong ước, bà đã cúi đầu cúi đầu và dùng tấm lòng trong sáng bất vụ lợi cùng tình thương như đại hải để rồi cuối cùng họ phải cảm phục và đều đồng ý để bà hộ niệm theo lời yêu cầu của cha mẹ (đến đây tôi xin nhắc tới vì lòng tự tôn, tự ái mà có những người con hay thân nhân đã gây đau khổ vô cùng với người bệnh mà không biết rằng họ đã gieo ác nghiệp tại hiện đời).

Cẩn trọng trong từng hành động một cách trân trọng, ni sư dậy chúng tôi phài rất hết sức nhẹ nhàng, phài luôn luôn trong chánh niệm để hiểu rằng trong khoảng hai mươi bốn tiếng đồng hồ sau khi mất người vảng sanh rất cần sự thanh tịnh, dù một tiếng động nhỏ, một lời nói chuyện lao xao, bước chân khẻ chạm vào thành giường, tiếng nước mở ở buồng bên cạnh v..v.. cũng làm người ra đi đau đớn vô cùng. Thế nên phải vô cùng chú ý để tránh tạo ra bất cứ khuấy động không cần thiết nào, ngoại trừ tiếng tụng kinh hộ niệm và lời khai thị giúp cho người vãng sanh sáng suốt, buông bỏ bi ai luyến ái mà cùng hòa với tấm lòng chân thành cùa những liên hửu hộ niệm để nhất tâm hướng về vô lượng quang minh cùa Đức Phật A Di Đà.

MỘT ĐẠO HỪU MAY MẮM

Có một đạo hửu đã hơn chin mươi tuổi trong những ngày đầu ni sư đến giảng dậy, cụ cố gắng nhờ con dẩn tới, cụ mang theo một bình dưỡng khí, xe đẩy, đi trong hơi thở khó khăn, nhưng cụ rất hoan hỷ được đến tu học. Chỉ vài ngày sau người con gái gọi tới yêu cầu xin ni sư đến hộ niệm vì cụ sắp ra đi. Do nhân duyên ấy ni sư phải hủy bỏ bài giảng hôm đó để đi với một số phật tử đã xin phép ni sư cho họ cùng đi hộ niệm. Vì là lần đầu đi hộ niệm nhóm Phật tử có nhiều lúng túng nhưng với tấm lòng chân thành mọi người nhất tâm hộ niệm và cụ ra đi trong cát tường viên mãn. Lần hộ niệm ấy làm ni sư rất cãm động thấy chân tình tha thiết vì người của các phật tử Việt Nam Ni Sư đã dành trọn hai tối giảng thêm về đề tài vãng sanh cho một số phật tử muốn tu học về vãng sanh Tịnh Độ, và tôi cũng có cơ duyên tham học. Mặc dầu cả ngày đã giảng pháp, Ni Sư vẩn từ hòa giảng dậy qúa nửa đêm vì thì giờ của bà ở đây không còn nhiều.

Tuần tới Ni Sư phải chuẩn bị lên đường đi Texas, nguyên nhân toàn chuyến đi nầy của ni sư bắt nguồn từ việc lo liệu của một phật tử người Đài Loan. Do vì mấy năm trước mẹ của ông ta đau nặng làm ông ấy phải thu xếp công việc về xứ chăm sóc cho mẹ. Nhờ có người giới thiệu ông tìm lên am nhỏ của Ni Sư trên núi và tha thiết mời người xuống để giúp hộ niệm cho mẹ để bà có thể ra đi trong an lành. Nhận thấy tấm lòng chí hiếu của ông, Ni Sư và người đệ tử duy nhất đã phải tới nhà của ông cùng giúp hộ niệm cho mẹ ông trong hai tháng sau đó bà cụ đã vãng sanh trong thoại tướng. Ông xin cúng dường một số tịnh tài nhưng ni sư cương quyết từ chối, bà cho biết cuộc sinh hoạt đơn giản hằng ngày của bà đã đầy đù và bà không nhận thêm bất cứ sự cúng dường nào từ việc hộ niệm.

Sau khi về lại Mỹ, ông cứ khắc khoải yêu cầu Ni Sư chấp nhận lời mời để ông có cơ hội đón Ni Sư hoằng pháp giúp cho người hửu duyên được học hỏi pháp môn vãng sanh của Tịnh Độ. Sau mấy năm cãm tấm lòng tha thiết của ông, Ni Sư phải nhín thời giờ trong lịch trình dầy đặc người nhờ hộ niệm mà qua Mỹ và trên đường hoằng pháp Ni Sư đã dừng lại tiểu bang nầy và cùng chúng tôi kết một phúc duyên vô cùng hy hửu.

Một trong những bài giảng mà chúng tôi phải phát nguyện tuân theo là “Đạo Đức của người hộ niệm”, Ni Sư chí thành khuyên bảo:

“Chúng ta khi đi làm Phật sự hộ niệm phải luôn luôn ghi khắc trong lòng rằng chúng ta là những người được ban nhận phúc duyên để đưa người ra đi, chứ chúng ta không phải là những người làm ơn cho các Bồ Tát ấy và gia đình của họ. Chúng ta phải một lòng chân thành hướng tâm thanh tịnh bình đằng nguyện cầu Đức Phật A Di Đà, chư Phật mười phươngthánh chúng tới tiếp dẩn qúy Bồ Tát ấy về thế giới Tây Phương Cực Lạc. Chúng ta phải nhớ không được nhận bất cứ một khoảng tiền nào, cho dù là thức ăn, nước uống, và ngay cả lời cám ơn từ gia đình của các Bồ Tát vãng sanh. Nếu được như vậy tức là qúy đạo hửu đã đi trên con đường Tịnh Độ và qúy vị đang trả ơn Đức Phật người đã thị hiện trên thế gian nầy để đem đến cho chúng ta một pháp môn vi diệu hầu chúng ta được liểu sanh thoát tử.”

Tuy thời gian được gặp người không nhiều, nhưng ngưởi đã để lại một hình ảnh thanh cao từ tốn và an bình. Người đã trên sáu mươi, nhưng trông rất trẻ, da dẻ mịn màng sáng ánh trông như người dưới bốn mươi, giọng nói rất êm ái từ tốn và nụ cười phảng phất nét từ bi vô tận. Từ Ni sư tôi cãm nhận được một nguồn sống an lạc của một trạng thái hỷ xả viên mãn. Bà luôn nhắc nhở chúng tôi dùng lời từ ái, nói nhỏ nhẹ, hình như bà cũng đọc được trong số phật tử đến nghe bà giảng có những vấn đề trong cuộc sống gia đình gây nhiều đau khổ. Bà tránh nói thẳng chỉ hướng về mọi người và nhắc nhở trong gia đình nên tránh nói to, nên dùng ái ngữtâm từ với nhau. Chỉ vậy thôi mà bà đã đem đến sự chuyển hóa cho một số người

TRƯỚC KHI GẶP NI SƯ TỚI GIẢNG DẬY:

Trong số những người quen biết, chúng tôi có quen một vị khoa bảng thời trước của miền Nam ông lớn tuổi hơn chúng tôi rất nhiều nhưng ông coi chúng tôi như những người em nhỏ vì thế ông trở thành người anh đáng kính. Có đôi khi ông ghé nhà chơi và trong câu chuyện ông thường chỉ nhắc nhở tới mẹ và gia đình mình khi xưa ờ Việt Nam, ông cãm thấy xa lạ với con cái và cô đơn với xả hội mình đang sống. Ngày ông về hưu, ông nói ông sẻ trồng hoa xung quanh nhà để thấy hoa nở mỗi tuần khác nhau. Mùa xuân năm đó ông tới chơi nhìn hoa đào nở đỏ rực quanh vườn chúng tôi, ông rất hoan hỷ nhận mấy cành đào đem về cắm chơi. Chỉ tháng sau chúng tôi nhận được điện thoại báo ông vừa từ nhà thương về và cho biết là ung thư thời kỳ cuối, mặc dù trước đó ông rất cẩn thận năm nào cũng đi khám toàn khoa và lúc nào cũng là bảng báo kết qủa hoàn hảo. Bệnh tình của ông phát triển nhanh đến chóng mặt, ông gọi chúng tôi nói chuyện mỗi ngày, trong câu chuyện đôi khi ông rất thất vọng và luôn hỏi tại sao một người đã cẩn thận như ông và những người bạn bác sỷ đang còn làm việc tại bệnh viện lại không thể khám phá ra, để cho đến nổi ngày hôm nay khi ông tỉnh dậy mỗi sáng đều không thể tưởng tượng rằng mình mắc chứng bệnh quái ác đó và đang cận kề cửa tử. Không biết an ủi ông cách nào, tôi đứng trước tủ sách của mình để tìm một cuốn sách hay đem tới cho ông đọc, tôi chợt nhìn thấy cuốn “Niệm Phật chuyển hóa tế bào ung thư” của pháp sư Đạo Chứng. Ngay ngày hôm ấy chúng tôi đem lại cho ông. Mấy hôm sau ông gọi lại và yêu cầu tôi đọc hồng danh của đức A DI Đà Phật vào băng cho ông, vì ông muốn nghe tiếng đọc chậm rải không âm nhạc để ông có thể nhiếp tâm theo. Dỉ nhiên là tối hôm đó tôi lên đèn thấp hương và niệm 108 hồng danh của A Di Đà Phật, khi tôi đem tới vợ ông tròn xoe mắt ngạc nhiên hỏi:

Anh ấy yêu cầu thật à?

Và bà cho biết là ông không bao giờ tin tưởng vào tôn giáo, ông thường hay nói, sau nầy nếu ông có ra đi thì cấm không được mời tăng đến tụng, chỉ mở âm nhạc không cầu siêu cúng kiến gì cả. Nhưng từ sau khi ông đọc xong cuốn sách của pháp sư Đạo Chứng thì ông thay đổi mổi lần chúng tôi đến thăm ông vẩn hay tụng hồng danh Đức A Di Đà.

Ngày cuối ông ra đi trong tiếng tụng niệm của gia đình và những người bạn thân bao gồm những người bạn khác tôn giáo, mọi người đều vô cùng từ bi đã vì ông mà tụng hồng danh Đức Phật A Di Đà. Trong ngày làm lể tang cho ông bà đã mời tăng đến tụng kinh cầu siêu và đầy đủ nghi thức Phật giáo trang nghiêm thành kính.

Sau lần đó hình như tôi đã thấy được câu trả lời cho những suy tư trước kia của tôi, nhưng tôi thật sự thấu hiểu nhiều là nhờ những bài giảng của ni sư Từ Bình, từ đó tôi nhận biết lòng từ ái vô biên và niềm cảm thông sâu sắc mà người hộ niệm có thể đem tới cho gia đình, cũng như lời khai thị đã bắc nhịp cầu giao cãm giữa người hộ niệm và vị Bồ Tát đang vãng sanh. Nhờ thế lời nhắc nhở và khuyến tấn giúp người vãng sanh vững tin trong giai đoạn của thân trung ấm.

Ban hộ niệm nếu có thể nên ở cạnh vị Bồ Tát vãng sanh từ tám tiếng trở lên đến 24 tiếng là một phúc duyên lớn, sự hộ trì ấy là làn sóng từ bi đã bao bọc cũng như lời khai thị sẻ nhắc nhở rằng từ giờ phút nầy hẫy buông bỏ hẩy tháo gở những gì gút mắc, những gì giận hờn ghét bỏ. Hẩy để lại gánh nặng của kiếp người nhiều oan trái. Hẩy trút bỏ tấm thân củ kỷ bệnh tật tàn phế đó, cũng như tiền tài vật chất phù du mà nhẹ nhàng nhập vào luồng điển quang của Đức Phật A Di ĐÀ.

Một điều quan trọng trong việc khai thị rất đặc biệt vô cùng đáng kính đáng tin là lời khai thị xin oan gia trái chủ của nhiều đời trước cũng như hiện tiền hẩy cùng với vị Bồ Tát đang hấp hối hay vừa ra đi kia cùng kết thiện duyên cùng buông bỏtha thứ cho nhau. Tôi xúc động vô cùng vì trong đạo Phật đặc biệt Tịnh Độ ngay trong giờ phút cận tử nầy đã không quên vì người mà chân thành tha thiết cầu xin cho những hận thù được hóa giải. Thật sự mà nói ai đã không từng gieo thù kết óan, nếu chỉ nói trong kiếp nầy, ai đã không vì tham, sân, si, ngã, mạn, tà, kiến, chấp, thủ v.v.và v.v. đã từng cố tình hay vô tình tạo nên những đau khổ cho người và ngay cho những sinh vật sống chung quanh ta. Có những oán thù không thể giải hay khó có thể giải vẩn luôn luôn hiện diện trong tâm thức người gieo trồng hay người bị gieo trồng. Có thể vì sợ hải, vì tự ái, vì mặc cãm mà người tạo ra óan duyên chưa từng thổ lộ, và vì phước mỏng họ cũng chưa từng biết đến pháp môn sám hối. Sự che dấu đó sẻ đeo đuổi họ hết đời và nếu không giải tỏa có lẻ sẻ đeo theo họ hết kiếp nầy đến kiếp khác.

Nói đến đây tôi lại nhớ tới một câu chuyện mà một bác sỷ tâm lý và cũng là một chuyên gia nghiên cứu về tiền kiếplinh hồn đã giúp cho một bệnh nhân của ông ấy như sau:

Có một bệnh nhân bị bệnh trầm cãm ngay từ nhỏ và đến khi khôn lớn trưởng thành làm việc thành công và có gia đình như mọi người. Nhưng rất nhiều lần trong đời bà ấy đã cố gắng quyên sinh, nhưng không bao giờ thành công. Đến năm bà ta hơn năm mươi tuổi bà thật sự đau khổ vô cùng tận và không hiểu nguyên do gì gây ra nổi đau khổ đó, bà chỉ mong mình chết được để thoát khỏi những cơn sợ hải dằn vật và bóng đen của một tiềm thức kỳ bí. Một người bạn nói đến danh tiếng của vị bác sỷ tâm lý, chuyên gia nghiên cứu tiềm thức và dùng thôi miên để soi ra căn nguyên gây bệnh. Bà được giới thiệu tới gặp vị bác sỷ nầy, khi nhà tâm lý đưa bà vào sâu trong giấc ngủ và để rồi đánh thức tiềm thức của bà ta dậy, thì ngay ông cũng phải giật mình khi biết có một linh hồn khác đang trú ngụ trong đó. Linh hồn đó cho biết ông ta là một kỷ sư người Pháp rất nổi tiếng trong thế kỷ mười lăm, ông đã nhận thi công một cây cầu cho thành phố, nhưng khi cây cầu chưa xây xong thì bị xập đổ kéo theo nhiều người chết, vì thế ông bị kết án tử hình, bị người dân ném đá, nguyền rủa phỉ nhổ, và xác bị treo ngoài thành trong nhiều ngày. Sự thất bại của ông làm gia đình ông mất danh dự, bố mẹ anh em dòng họ đều bị vạ lây, thế nên người thân giận dử và nguyền rủa ông. Nhưng điều đáng nói ở đây, ông không phãi là người tính sai trong công việc, nhưng vì sự tham nhũng trong công đoạn xây cất, cắt giảm vật liệu và những xử lý vi phạm của những người có quyền trên ông đã tạo nên thảm trạng trên. Những người nầy cấu kếtlập thành một hội đồng xử án gồm mười người và để tránh tội họ đã dồn tất cả tội lên người vị kỷ sư đáng thương nọ. Anh đã chết trong hận thù tức tưởi, và trước khi nhắm mắt lìa đời anh nguyền sẻ theo đuổi những kẻ hại anh để cho họ sẻ bị đau khổ đến sống không được và chết cũng không xong. Trong những lần thôi miên sau anh cho biết anh đã trải qua chín kiếp theo đuổi từng người một trong tập đoàn xử án khi xưa, anh đã trả thù họ tàn khốc cho dù họ đã đầu thai qua những quốc gia khác và thành những dân tộc khác. Anh cho biết vị nữ thân chủ nầy là ông thẩm phán cuối cùng còn xót lại trong hội đồng của thế kỷ xưa, là một trong những người biết rỏ anh vô tội nhưng vẩn lạnh lùng tuyên án anh vì thế anh không thể nào tha thứ. Anh cho biết anh chính là người gây ra nổi bất an đau khổ cho nữ bệnh nhân ấy, đã làm cho bà ta không sống được mà cũng không chết được để trả thù mối hận tiền kiếp nọ. Sau khi nghe hết câu chuyện vị bác sỷ trầm ngâm hồi lâu và ông chân thành hỏi rằng:

Nếu anh đã trải qua nhiều thế kỷ lang thang qua nhiều tiền kiếp để đeo đuổi mối thù đó, vậy anh có mệt không? Anh có từng bao giờ chán nản không?

Linh hồn người kỷ sư trả lời:

Đúng vậy nhưng vì trong nhiều kiếp tôi đã theo đuổi duy nhất một mục đích đó, vậy bây giờ tôi buông bỏ hết tôi biết làm gì nữa và tôi sẻ ra sao? Tôi rất cô đơn và sợ hải.

Vị bác sỷ hỏi tiếp:

Nếu vậy như anh nói khi anh chết hầu như mọi người vây quanh anh đều đã khinh ghét, hận thù, chê trách anh, ngay cả thân nhân, vậy anh thử nghĩ có ai là người thương yêu anh còn xót lại không?

Linh hồn vị kỷ sư nói:

Còn có một người đó là mẹ tôi, bà đã khóc rất nhiều, bà che dấu gia đình và hằng cầu nguyện cho linh hồn tôi không bị đọa địa ngục, bà là người thật sự thương yêu tôi.

Vị bác sỷ hỏi tiếp:

Thế hiện giờ anh có biết bà ấy còn trong thế giới linh hồn hay không?

Anh ta trả lời:

Vẩn còn và bà vẩn thường theo dỏi tôi, nhưng vì tôi bận theo đuổi mục tiêu trả thù nên tôi chưa bao giờ thực sự gặp mẹ tôi trong cỏi linh hồn.

Vị bác sỷ tiếp tục hỏi:

Nếu vậy anh có muốn tôi và anh chúng ta cùng cầu nguyện để bà tới đây đưa anh đi đến chốn bình an khác không, ở đó anh có thể hưởng nguồn hạnh phúc yên lành mà anh đã không có từ lâu.

Vị kỷchấp thuận. Và sau khi nhà bác sỷ bàn với thân chủ, người nử bệnh nhân đồng ý cùng làm một lể cầu hồn do chính bà ấy cầu xin sự thứ lổi thì vị kỷ sư xuất hồn ra khỏi người nử bệnh nhân, nói cho biết anh đã thấy mẹ anh đến trong một vùng ánh sáng tươi đẹp, mẹ anh đã ôm lấy anh như khi anh còn bé. Anh cảm thấy vô cùng hạnh phúchận thù đã theo anh nhiều thế kỷ giờ đây đã tiêu tan hết. Khi đó người nữ bệnh nhân đã trở lại cuộc sống bình thường và bà cho biết chưa bao giờcảm thấy an lạcsung sướng như bây giờ.

Câu chuyện trên được viết thành sách nhân một lần tôi kiếm thấy trên kệ của thư viện một trường đại học ở mục tâm lý chuyên nghành y khoa. Tôi đã từng ngạc nhiên sau khi đọc xong cuốn sách vì bất ngờ ở một xả hội văn minh duy lý lại có những sự kiện như trên.

Sau nầy tôi được biết trong Tịnh Độ có phần khai thị cho oan gia trái chủ tôi thật sự rúng động đến tâm can, không ngờ đạo Phật đã đi một bước đi vĩ đại từ ngàn năm xưa mà ngày nay khoa tâm lý hiện đại của thế kỷ 20 mới bắt đầu tìm hiểu. Đạo Phật đã đưa ra một đáp án tuyệt vời từ bi để giải trừ những oan khiên mà trong thế giới của linh hồn kẻ mất rồi vẩn mãi mãi trầm luân trong biển khổ.

Viết đến đây tôi dưng dưng tràn đầy niềm xúc cảm dâng trào chấp tay trong cỏi lòng thành kính vô biên nguyện cầu hồng danh Đức Phật A Di Đà, và linh cảm như thấy hàng vạn đóa sen đủ mầu sắc lóng lánh từ từ nở ra và rải hương thơm tỏa ngát trong vô cùng vô tận , bao la như lòng từ ái của chư Phật mãi mãi thường trụ trong thế gian nầy và trong tam thiên đại thiên thế giới, đâu đây đang vang rền lời kinh linh diệu để thức tỉnh những chúng sinh vô tình cho đến hửu tình còn trầm luân trong nghiệp quả.

Ái hà thiên xích lãng
Khổ hải vạn trùng ba
Dục thoát luân hồi khổ
Tảo cấp niệm Di Đà
Sông ái dài muôn dặm
Biển khổ sóng chập chùng
Muốn thoát luân hồi khổ
Mau mau niệm Di Đà

VI DIỆU CỦA PHÁP HỘ NIỆM:

(còn tiếp)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14168)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39784)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15332)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13903)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13945)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37395)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40104)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14657)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14321)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12682)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14875)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19235)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13828)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42667)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13856)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37289)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12706)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11790)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22580)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12531)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12584)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13079)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13129)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17297)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33297)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14857)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11069)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12480)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11981)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11967)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13166)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51320)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12400)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6634)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30474)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13143)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13350)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30745)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19420)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12502)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11877)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14785)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13215)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13224)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30750)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12060)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11855)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12753)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31950)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29454)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11804)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11765)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10460)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11577)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9658)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9684)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 10013)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35463)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10172)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10119)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10066)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9689)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27846)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15554)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9877)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13697)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9868)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9725)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18373)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12060)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9597)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9716)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8734)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8938)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8441)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11500)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31784)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12359)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13344)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8853)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9468)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11962)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9254)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9101)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9701)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29399)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9101)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9125)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33306)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8452)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30670)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31283)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37172)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32322)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9947)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27147)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8472)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19269)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 13041)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
(Xem: 9799)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant