Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thực Hành Bảy Điều Quán Nguyện

05 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 30536)
Thực Hành Bảy Điều Quán Nguyện

THỰC HÀNH BẢY ĐIỀU QUÁN NGUYỆN

Nguyên tác: Preliminaries for Meditation or Study: The Seven-Limb Practice
Tác giả: Alexander Berzin, Berlin, Germany, January 9, 2001
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – 3/10/2010

Mục lục
Lời người dịch
 1.- Dọn dẹp phòng ốc và xếp đặt những sự cúng dường
 2.- Tập trung trên hơi thở
 3.- Thẩm tra động cơ hay khuynh hướng
 4.- Đảnh lễ với quy yphát bồ đề tâm
 5.- Cúng dường
 6.- Thừa nhận khuyết điểm
 7.- Vui mừng
 8.- Thỉnh cầu giáo huấn
 9.- Thỉnh cầu đạo sự đừng nhập diệt
10.- Hồi hướng
11.- Bảy điều quán chiếu của Tôn Giả Tịch Thiên
12.- Điều chỉnh cuối cùng cho sự tập trung

 

Lời Người Dịch

blankPhật tử Bắc Tông Việt Nam hầu hết đều thuộc bài Sám Phổ Hiền:

Đệ tử chúng đẳng
Tùy thuận tu tập
Phổ Hiền Bồ Tát
Thập chủng đại nguyện


Nhất giả lễ kính chư Phật
Nhị giả xưng tán Như Lai
Tam giả quảng tu cúng dường
Tứ giả sám hồi nghiệp chướng
Ngũ giả tùy hỉ công đức
Lục giả thỉnh chuyển pháp luân
Thất giả thỉnh Phật trụ thế
Bát giả thường tùy Phật học
Cửu giả hàm thuận chúng sinh
Thập giả phổ giai hồi hướng

Có nhiều bản dịch, nhưng có một bản dịch rất xưa bằng thể lục bát, với những câu đầu tuy mộc mạc nhưng nghe rất tha thiết trầm hùng:

Một là lạy Phật thần thông,
Chứng minh đệ tử thành công lâu dài…[1]

Đây là bài sám nói lên mười nguyện lớn của ngài Đại Hạnh Phổ Hiền một vị đại bồ tát, có cả một phẩm kinh Hoa Nghiêm nói về những điều này, phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, và trong lễ sám Hồng danh phần phía sau cũng nói về mười điều này, thế nên chúng ta dù thuộc lòng nhưng có lẽ nghĩ rằng đây là thệ nguyện của một vị đại bồ tát thì chúng ta chỉ tụng niệm và ngưỡng mộ mà thôi chứ làm thế nào đem vào thực hành trong đời sống tu tập hằng ngày.

Trong truyền thống của Phật Giáo Tây Tạng, cũng có một tài liệu tương tự với mười hạnh Phổ Hiền, nhưng chỉ có bảy điều, vì điều thứ nhất bao gồm cả ba phần, là nhất giả, nhị giả, và cả bồ đề tâm và trong bảy điều này không nói đến bát giả thường tùy Phật học, và cửu giả hàm thuận chúng sinh. Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiển hằng ngày. Bảy điều này có thể như một sự thực tập mở đầu cho những việc thực hành khác, hay như là một sự thực hành chính yếu của mỗi người Phật tử.

Chúng tathể tham khảo để rút kinh nghiệm với ‘mười nguyện lớn của ngài Đại Hạnh Phổ Hiền’ trong việc quán chiếu thực hành tu tập hằng ngày của chúng ta.

Nam Mô A Di Đà Phật

Ngày 26/11/2010

Tuệ Uyển

 

NHỮNG THỰC HÀNH SƠ BỘ CHO THIỀN QUÁN HAY HỌC PHẬT:

BẢY ĐIỀU QUÁN NGUYỆN

Tối nay, tôi muốn giải thích trong một cung cách thực tiển hơn về những sự chuẩn bị mà chúng ta thực hiện vào lúc bắt đầu cho mỗi chúng ta về những lớp học những lời dạy của Tôn Giả Tịch Thiên, ‘Dấn Thân trong Thái Độ’ của Bồ Tát (Bodhisattvacharya-avatara). Trong ấy bao gồm bảy điều thực tập, xuất phát từ tác phẩm này. Thực hiện những chuẩn bị này trước khi lắng nghe để học hỏi Phật Pháp sẽ giúp chúng ta thiết lập một thể trạng tâm thức hứng thú đúng đắnChúng ta cũng sẽ sử dụng cùng sự thực tập trước những buổi thiền tập hay học tập Phật Pháp mỗi ngày tại nhà.

1.- DỌN DẸP PHÒNG ỐC VÀ XẾP ĐẶT NHỮNG SỰ CÚNG DƯỜNG

Nếu chúng ta thực tập những điều này như một sự chuẩn bị cho việc thiền quán tại nhà, chúng ta cần quét dọn và trật tự phòng ốc trước tiên, như chúng ta làm ở lớp tu học. Nếu giấy tờ hay áo quần rơi vải khắp nơi trong phòng, thí dụ, chúng ta phải dọn dẹp. Trong khi làm điều này, chúng ta tâm niệm, “Nguyện cho tâm con trở nên trong sáng, sạch sẽ, và trật tự, giống như con đang thu dọn phòng ốc.”

Điều rất quan trọng để thiền quán và học tập trong một môi trường, nơi mà moi thứ ngăn nắp, sạch sẽ, và trong trật tự. Điều này cũng đúng với nơi chúng ta làm việc. Những gì chúng ta thấy, ngay cả bên ngoài, tác động vô cùng đến thể trạng tâm thức của chúng ta. Nếu mọi thứ chung quanh chúng ta rối loạn, tâm thức chúng ta cũng có xu hướng mất trật tự. Hơn thế nữa, thật sự hữu ích để có một nơi học tập hay thiền quán dễ thương thẩm mỹ. Thấy chung quanh xinh xắn thường làm cho tâm thức vui vẻ, và một thể trạng vui tươi của tâm thức thì dễ tiếp thu để làm một điều gì đấy xây dựng. Nếu thấy chung quanh xấu xí, chúng ta có khuynh hướng khước từ nó, mà điều ấy ảnh hưởng một cách tiêu cực đến những thể trạng của tâm thức. Do vậy, chúng ta thường bố trí một bàn thờ thật bắt mắt trong phòng - một loại kệ hay bàn, với một tấm phủ xinh xắn, trên ấy chúng ta đặt tối thiểu một tượng hay hình Phật tượng trưng cho những gì chúng ta đang thực tập, một phương hướng an toàn trong cuộc sống (quy y).

Mỗi buổi sáng, sau rửa mặt súc miệng và làm sạch phòng ốc, chúng ta cúng dường một chung nước. Điều này không cần thiết phải với bảy chung nước thông thường nếu điều đó không thuận tiện. Cúng dường đơn giản với một chung nước sạch là đầy đủ. Chúng ta không cố gắng để gây ấn tượng với bất cứ người nào cả. Nếu muốn, chúng ta cũng có thể cúng dường đèn nến, bông hoa, nhang, và v.v…; nhưng đấy là sự lựa chọn. Không chỉ là chúng ta đang tạo nên một không gian xinh đẹp cho sự cung thỉnh chư Phật các bậc đại đạo sư trong sự quán tưởng của chúng ta, như được giải thích một cách truyền thống; chúng ta cũng đang xếp đặt phòng ốc trong một phương cách mà nó làm cho chúng ta cảm thấy hoan hỉ và dễ chịu ở đấy. Trong việc làm điều này, nó đặt chúng ta trong một thể trạng tâm linh cung hiến lợi ích cho thiền quán, học tập, hay lắng nghe những lời giáo huấn.

2.- TẬP TRUNG TRÊN HƠI THỞ

Phong cách thông thường là lễ phủ phục ba lần trước biểu tượng của Đức Phật trên bàn thờ trước khi ngồi xuống. Để tránh có những sự lễ lạy máy móc, không có cảm nhận bên trong, trước tiên chúng ta cần đem tâm thức mình đến một thể trạng thích đáng. Để làm điều này, chúng ta tập trung trên hơi thở và tái xác định động cơ của chúng ta. Mặc dù chúng ta thường làm hai điều này sau khi ngồi xuống, tốt hơnthực hiện trước, trong khi đang đứng.

Đầu tiên, chúng ta cần bình lặng và làm nên một không gian giữa những gì chúng ta đang làm và những gì chúng ta sắp làm. Chúng ta cần đem tâm thức chúng đến một thể trạng tĩnh lặng, trung hòa trước khi phát sinh một thái độ tích cực. Chúng ta làm điều này bằng việc tập trung trên hơi thở, với đôi tập trung thoãi mái trên sàn nhà phía trước chúng ta. Nếu băn khoăn hay căng thẳng, chúng ta có thể thích nhắm mắt trong khi lắng xuống, nhưng để cho chúng mở ra nhẹ nhàng là phương pháp thích hợp hơn.

Chúng ta thở một cách bình thường qua lỗ mũi, không quá nhanh, không quá chậm, không quá sâu, và không quá cạn. Chúng ta không giữ hơi thở, nhưng tạm dừng lại sau khi thở ra trước khi thở vào lần nữa. Phương pháp thông thường là thầm đếm một cho một chu kỳ thở ra, tạm dừng, và thở vào. Thông thường, chúng ta đếm như thế đến mười một, và rồi lập lại chu kỳ mười một hơi thở trong hai hay ba lần.

Chúng ta sử dụng tiến trình của việc đếm hơi thở chi khi tâm thức chúng ta đặc biệt rối rắm, vướng mắc trong những tư tưởng không liên quan đến việc thực tập hiện tại. Nếu tâm tư chúng ta không quá xao lãng, thì không cần phải đếm hơi thở; chỉ tập trung trên cảm nhận hơi thở vào và ra trên lỗ mũi là đủ. Thay vì thế, chúng ta có thể đếm những chu kỳ hơi thở trong vài vòng sau đó tiếp tục mà không phải đếm. Bất cứ cách nào mà chúng ta tập trung trên hơi thở, chúng ta tiếp tục cho đến khi chúng ta đạt đến tối thiểu một cấp độ nào đấy của sự bình lặng và yên tỉnh của nội tâm. Nếu tâm thức chúng ta vướng bận với những tư tưởng vẫn vơ, chúng ta không bao giờ có thể thiền tập tốt đẹp hay lắng nghe một cách chú tâm đến những lời giảng dạy.

3.- THẨM TRA ĐỘNG CƠ HAY KHUYNH HƯỚNG

Một khi tâm thức chúng ta tương đối yên tĩnh, chúng ta thẩm tra tại sao chúng ta thiền quán hay tu học, hay tại sao chúng ta đã đến một lớp Phật Pháp. Nói cách khác, chúng ta thẩm tra động cơ của chúng ta, là điều mà trong Đạo Phật có nghĩa là khuynh hướng hay mục tiêu trong việc làm một việc gì đấy. Có phải chúng ta đã đến đây tối này chỉ do một thói quen máy móc mà không có một xu hướng nào đấy trong tâm, hay vì một sự hội họp cộng đồng thông thường để gặp gỡ bạn bè và để ở trong một không khí hoan hỉ? Có phải chúng ta muốn học hỏi điều gì đấy chỉ là sự hứng thú tinh thần hay có phải chúng ta mong ước học hỏi một điều gì đấy thực tiển mà chúng ta có thể áp dụng trong đời sống chúng ta? Nếu đấy là điều gì mà chúng ta muốn đề áp dụng trong đời sống của chúng ta, tại sao chúng ta muốn làm như thế? Mục tiêu là gì? Nó có làm cho đời sống dễ dãi hơn một ít? Để chiến thắng một số khó khăn mà chúng ta có? Hay, thêm nữa, có phải nó có thể làm cho ít rắc rối hơn cho những người khác; có phải nó có thể giúp cho người khác nhiều hơn? Có thể nó là một sự phối hợp của một vài thứ này.

Chúng ta có muốn tiến xa hơn nữa và học hỏi những lời dạy của Tôn Giả Tịch Thiên nhằm để thiết lập những thói quen sẽ đưa chúng ta một sự tái sinh may mắn hơn với nhiều cơ hội để tiếp tục học hỏithực tập Giáo Pháp? Thêm vào điều ấy, có phải chúng ta đang làm điều này để có thể đạt đến giải thoát khỏi tất cả những loại tái sinh luân hồi không thể kiểm soát được hay không? Hay, ngay cả vượt xa điều ấy, chúng ta có muốn học hỏi luận điển này về thái độ Bồ Tát để cho chúng ta có thể giúp đỡ người khác tránh khỏi sinh tử hay được giải thoát khỏi luân hồi không thể kiểm soát hay không? Ngay cả nếu không phải là ba động cơ sau cùng, tối thiểu chúng ta có nguyện vọng cố gắng để phát triển và thâm nhập vào phương hướng ấy trong đời sống của chúng ta hay không?

Chúng ta đi theo cùng tiến trình tâm linh sâu sắc trước khi bắt đầu thiền tậphọc hỏi luận điển của Tôn Giả Tịch Thiên tại nhà. Nếu chúng ta khám phá rằng động cơ hay mục tiêu của chúng ta không thật cao quý, như sự thiền tập do thói quen hay do cảm thấy tội lỗi nếu chúng ta lãng quên, thì chúng ta điều chỉnh động cơ của chúng ta cho hoàn thiện hơn. Nếu chúng ta đã có những động cơ xây dựng, chúng ta hãy tái khẳng định chúng. Đi theo tiến trình này là rất quan trọng, vì dễ dàng đi đến việc giáo huấn hay thiền tập một cách máy móc, và rồi thì chúng ta chỉ đón nhận rất ít kết quả từ đấy.

4.- ĐẢNH LỄ, VỚI QUY YPHÁT BỒ ĐỀ TÂM (TÂM ĐẠI BI)

(Nhất giả Lễ KínhNhị giả xưng tán chư Phật)

Tiếp theo, chúng ta “quy y và phát triển Bồ Đề Tâm.” Điều này có nghĩa là chúng ta tái khẳng định nguyện vọng của chúng ta và nguyện ước đi trong một phương hướng an toàn, tích cực trong đời sống, đây là ý nghĩachúng tôi diễn dịch các chữ “tiếp nhận quy y.” Chúng ta cố gắng để suy nghĩcảm thấy rằng tôi muốn đi trong một phương hướng an toàn nhằm để tránh những rắc rối và khó khăn; tôi không muốn có chúng. Tôi sợ phải tiếp tục trong tình cảnh khó khăn của tôi. Điều gì cống hiến phương hướng tích cực để tránh khỏi những rắc rối? Một thể trạng của tâm thức hoàn toàn tự tại với mê muội và đầy đủ tất cả những phẩm chất tích cực tốt đẹp. Một thể trạng tịnh hóa và tăng trưởngGiáo Pháp. Những ai đã đạt đến một thể trạng toàn vẹn như vậy và những ai biểu lộ cung cách ấy là những vị Phật. Những ai đạt đến một thể trạng như vậy trong một giới hạn nào đấy cũng biểu lộ cung cách ấy. Họ là Tăng Già. Đấy là phương hướng mà tôi sẽ hoạch định trong đời sống của tôi. Tiếp nhận quy y có nghĩa là tái khẳng định phương hướng hay cung cách này trong cuộc đời.

Hơn thế nữa, tôi đang tiếp nhận phương hướng an toàntích cực này nhằm để có thể hỗ trợ người khác một cách trọn vẹn như có thể, không chỉ để lợi ích cho cá nhân của chính tôi mà thôi. Để đạt được mục tiêu này, tôi cần du hành theo phương hướng này suốt cả lộ trình, để giác ngộ, và không bỏ dở, không được hài lòng với việc chỉ hoàn thành một phần của con đường. Đây là những gì chúng ta hành động khi chúng ta tái khẳng định quy y [Tam Bảo] và [phát] Bồ Đề Tâm.

Khi chúng ta cảm thấy thái độ này hay thể trạng của tâm thức đi trên một phương hướng an toàn để có thể hổ trợ người khác và tiến bước trọn vẹn trên con đường ấy để giúp đở người khác tối đa như chúng ta có thể làm, rồi thì hãy đỉnh lễ. Nếu chúng ta đã ngồi xuống rồi và quyết định không đứng lên để đỉnh lễ bằng thân thể, chúng ta có thể quán tưởng mình đỉnh lễ. Trong một ý nghĩa nào đấy, đỉnh lễ giống như đem hết sức mình hay đặt mình trọn vẹn trong phương hướng này; và thực hiện như thế với sự tôn trọngtôn kính những ai đã hoàn thành trong nẽo đường này và tôn vinh chính mình và khả năng của mình để làm giống như thế. Vì thế, thực hành việc đỉnh lễ không phải là một hành vi tự phỉ báng mình; không phải là hạ thấp mình, nhưng mà là vực chúng ta dậy.

Đây là điều thứ nhất trong bảy điều thực tập: đỉnh lễ với quy y [Tam Bảo] và Bồ Đề Tâm [tâm đại bi]. 

5.- CÚNG DƯỜNG

(Tam giả quảng tu cúng dường)

Tiếp theocúng dường. Thể trạng chính của tâm thức để phát triển khi thực hiện cúng dường trong phạm vi này là: tôi đang đi trong phương hướng này. Tôi không chỉ đem hết sức mình trọn vẹn trong ấy, tôi đang nhiệt tình chân thành, trong lối sống của tôi, với thời gian của tôi, bằng năng lượng của tôi để đạt đến mục tiêu này. Tôi đang khao khát để dâng hiến trọn vẹn tâm tư của tôi để đi trong con đường này để hổ trợ người khác hơn nữa. Trong thể trạng này của tâm thức, chúng ta thực hiện sự cúng dường.

Mặc dù chúng ta thường làm điều này với quán tưởng, nhưng chúng ta có thể cúng dường trong một động thái vật lý, nếu chúng ta đang thực hành tỏng phòng thiền tập của chúng ta. Sau khi đỉnh lễ và trước khi ngồi xuống, chúng ta bước tới bàn thờ, đặt bốn ngón tay trái vào trong chén nước và vẩy một vài giọt nước từ đấy ba lần, biểu tượng của sự cúng dường. Trong một ý nghĩa, chúng ta đang cúng dường đến chư Phật, nhưng không phải với một thái độ dâng cúng một phẩm vật vì thế chư Phật sẽ gia hộ chúng ta và nếu chúng ta không cúng dường bất cứ vật gì, các Ngài sẽ quên lãng chúng ta. Đúng hơn, chúng ta đang cúng dường mọi thứ đến con đườngchúng ta đang theo đuổi trong đời sống. Chúng ta cố gắng để làm điều này trong một thể trạng hoan hỉ của tâm thức, vui mừngchúng ta có thể tự mình cúng dường .

Nếu mong muốn, chúng ta có thể làm cho sự cúng dường chi tiết hơn như trong tác phẩm của Tịch Thiên trình bày. Tuy thế, nó không cần thiết để liệt kê một hàng dài những phẩm vật chúng ta cúng dường, mặc dù chúng ta có thể quán tưởng tất cả mọi loại xinh đẹp. Điều quan trọng là cảm thấy rằng chúng ta đang dâng tự mình cúng dường. Đấy là điều thứ nhì của sự thực hành chuẩn bị, cúng dường. Nếu chúng ta hoàn thành bước này trước bàn thờ, chúng ta bây giờ ngồi xuống vị trí của chúng ta.

6.- THỪA NHẬN KHUYẾT ĐIỂM

 (Tứ giả Sám Hối nghiệp chướng)

Điều thứ ba là chân thành thừa nhận sự yếu kém, khó khăn, và những vấn đề của chúng ta. Chúng ta ân hậnchúng ta có những khiếm khuyết ấy, vì chúng ngăn chặn chúng ta thể hiện sự hổ trợ tốt nhất đến người khác. Chúng ta nguyện ước được tự do khỏi những khiếm khuyết và quyết định cố gắng không lập lại những lỗi lầm của chúng ta. Chúng ta tái khẳng định phương hướng an toàntích cựcchúng ta cố gắng để đem vào đời sống của chúng ta, để có thể hỗ trợ người khác trọn vẹn hơn; và cuối cùng, chúng ta nhắc nhở chính mình rằng học hỏi tác phẩm của Tịch Thiênthiền quán trên điều ấy là những việc làm tích cựcchúng ta đang tiếp nhận để chống lại những lỗi lầm của chúng ta, chúng ta tái khẳng định lý domục tiêu trong sự thể hiện ở đây. Chúng ta muốn học hỏi và sau đó thực tập những phương pháp để vượt thắng chúng.

7.- VUI MỪNG

(Ngũ giả tùy hỷ công đức)

Điều thứ tư là vui mừng tự hào, là điều sẽ giúp chúng ta đáp ứng đến bất cứ cảm giác nào của tự ty thấp kém mà có thể chúng đến từ nhận thức những rắc rối, lỗi lầm, và khó khăn của chúng ta. Chúng ta cần cân bằng sự tỉnh giác về khiếm khuyết của chúng ta với sự tái khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của chúng ta. Tất cả chúng ta có một số phẩm chất tốt đẹp và một số điều tích cực nào đấy mà chúng ta đã làm. Thí dụ, chúng ta có thể khám phá rằng tôi đã từng cố gắng để hữu dụng; tôi đã từng cố gắng để kiên nhẫn; tôi đã từng cố gắng để thông hiểu; hay bất cứ điều gì có thể là. Chúng ta nhớ lại và mừng vui. Chúng ta cũng tùy hỷ trong Phật Tính của chúng ta: chúng ta có những tiềm lực và khả năng để trưởng thànhChúng tacăn bản hành động; đấy là niềm hy vọng. Chúng ta cũng nhìn vào những tấm gương của những phẩm chất tốt đẹp và những hành vi tích cực của những người khác và cũng tùy hỷ với họ, không cảm thấy ghen tỵ. Thật diệu kỳ rằng có những người khác rất tích cực và hữu ích, đặc biệt là những đại đạo sư. Điều này liên hệ không chỉ là những đạo sư tâm linh tại thế, nhưng cũng là chư Phật và Tôn Giả Tịch Thiên. Chúng ta nghĩ thật diệu kỳ thế nào mà Tịch Thiên đã viết tác phẩm này. Tôi tùy hỷ trong điều này. Xin cảm tạ Tôn Giả Tịch Thiên. Đây là một thể trạng quan trọng của tâm thức.

8.- THỈNH CẦU GIÁO HUẤN

(Lục giả thỉnh chuyển pháp luân)

Sau khi tùy hỷ trong những phẩm chất của những đại đạo sưcảm tạ Tịch Thiên vì đã viết tác phẩm này, chúng ta sẵn sàng cho điều thứ năm, thỉnh cầu sự giảng dạy. Chúng ta nghĩ, Tịch Thiên, thật phi thường rằng ngài đã viết tác phẩm này. Dạy tôi một số điều trong ấy; tôi muốn học. Lời thỉnh cầu này với điều mà chúng ta đã đọc hay nghe về những thứ từ tác phẩm và chỉ nghĩ về những điều ngoại lệ, chẳng hạn như làm thế nào sự giáo huấn về nhẫn nhục có thể hoạt động trong trường hợp tàn sát của Hitler? Mặc dù thật quan trọng để thẩm tra giáo huấn để thấy có thích đáng hay không, nhưng trước tiên chúng ta cần suy nghĩ trong những dạng thức về việc những giáo huấn ấy sẽ được áp dụng trong trong đời sống hằng ngày của chúng ta như thế nào. Một khi chúng ta thấu hiểu và đánh giá đúng giáo huấn hành hoạt như thế nào, sau đó chúng ta có thể xem xét đến việc có bất cứ sự ngoại lệ nào hay không. Rồi thì chúng ta có thể phân tích những thí dụ nghiêm trọng như trường hợp của Hitler là những trường hợp mà trong ấy giáo huấn về nhẫn nhụchoàn toàn không thể áp dụng hay là những trường hợp mà trong ấy giáo huấn chỉ có thể áp dụng trên một trình độ cao cấp. Khi nghe một giáo huấn mới, sự đáp ứng lập tức “nhưng” là một chướng ngại ẩn tàng đến thái độ cởi mở mong ước học hỏi điều gì đấy. Do vậy, sự tiếp cận kinh luận với thái độ “hãy dạy tôi điều gì đấy” là cần yếu. Với một thái độ như vậy, trước tiên chúng ta cố gắng để thấy chúng ta có thể áp dụng những gì chúng ta đọc hay nghe như thế nào. Chúng ta thấy mọi thứ trong tác phẩm của Tịch Thiên là một giáo huấn thực tiển, có thể áp dụng đến chúng ta một cách cá nhân – trong nhà chúng ta, trong văn phòng chúng ta, với những người thân và bè bạn chúng ta.

Nếu chúng ta đang thực hành bảy điều quán chiếu sơ bộ trước một buổi thiền tập, chúng ta cũng thỉnh cầu các vị giáo thọkinh luận hướng dẫn chúng ta thêm, trong ý nghĩa rằng chúng ta muốn tiến bộ hơn qua sự thiền quán của của mình. Chúng ta thỉnh cầu thúc đẩy chúng ta đạt thêm tuệ giác, thấu hiểu hơn, thực chứng hơn từ những gì các ngài đã dạy.

9.- THỈNH CẦU ĐẠO SƯ ĐỪNG NHẬP DIỆT

(Thất giả thỉnh Phật trụ thế)

Sau đó, chúng ta sẳn sàng cho điều thứ sáu, mà đấy là thỉnh cầu đạo sư đừng nhập diệt. Chúng ta suy tưởng, xin đừng bao giờ ngừng dạy bảo; hãy tiếp tục mãi mãi! Chúng con không phải thỉnh cầu cách này bởi vì sự ái luyến đến những vị đạo sư của chúng con. Đúng hơn, chúng con tái khẳng định rằng chúng con nghiêm chỉnhchân thành trong sự thực tập của chúng con. “Con muốn đi suốt tận cùng con đường đến giác ngộ để có thể hỗ trợ tất cả mọi người. Vì thế, xin đừng nhập diệt! Con phải học hỏi.” Chúng ta cũng tự bày tỏ đến chính những giáo huấn (pháp bảo), hãy tiếp tục hướng dẫn con – Tôn Giả Tịch Thiêntác phẩm của ngài. Hãy dạy bảo con hơn nữa và hơn nữa. Hãy để cho con tăng trưởng sự hiểu biết, và làm tăng trưởng hơn tiến trình với tác phẩm này. Xin đừng bao giờ dừng lại cho đến khi con đạt được giác ngộ - cho đến khi mọi người cùng đạt đến giác ngộ. (trong bảy điều này không nói đến bát giả thường tùy Phật học, và cửu giả hàm thuận chúng sinh)

10.- HỒI HƯỚNG (Thập giả phổ giai hồi hướng)

Điều thứ bảy và là điều cuối cùnghồi hướng. Chúng ta suy tưởng rằng bất cứ điều gì con học hỏi, bất cứ điều gì con thông hiểu, nguyện cho nó hành hoạt như một nguyên nhân vì sự đạt đến giác ngộ và vì thế có thể làm lợi ích cho những người khác tối đa như con có thể làm. Nguyện cho sự thấu hiểu của con sâu sắc hơn và thâm diệu hơn. Nguyện cho sự thông hiểu ấy thâm nhập vào trong con và tạo nên một ấn tượng sâu sắc trong con vì thế con có thể áp dụng một cách từ từ trên con đường đến giác ngộ. Một cách đặc biệt, nguyện cho con có thể áp dụng những gì con đã học trong đời sống hằng ngày của con vì thế nó bắt đầu tạo nên một sự khác biệt trong những đáp ứng với người khác và do vậy con có thể đem hạnh phúc đến cho họ một cách từ từ.

11.- BẢY ĐIỀU QUÁN CHIẾU CỦA TÔN GIẢ TỊCH THIÊN

Nếu chúng ta mong ước, sau đó chúng ta có thể đọc tụng những dòng kệ của Tịch Thiên bao hàm bảy điều này, cùng với những câu mở đầu sẳn sàng cho việc thiết lập động cơ và những dòng cúng dường mạn đà la sau này:

Con xin quy y, cho đến khi đạt đến thể trạng thanh tịnh của con
Với chư Phật, chư Pháp, và đoàn thể Cao Thượng (của Tăng già).
Bằng nổ lực tích cực trong sự hiến dâng của con và v.v…,
Nguyện cho con biến thành hiện thực Phật quả để hổ trợ những ai còn lang thang.

Nguyện cho mặt đất trong mọi phương hướng
Được thanh tịnh, không có ngay cả một hòn sỏi,
Bằng thẳng như bàn tay của trẻ thơ,
Bóng láng một cách tự nhiên như ngọc lục bảo.

Nguyện cho những phẩm vật cúng dường của thiên thầncon người
Được xếp đặt tề chỉnh một cách thật sự và cũng như của những ai quán tưởng
Như những đám mây cúng dường không gì có thể so sánh của Phổ Hiền,
Đầy khắp các cõi hư không

Con đỉnh lể tất cả chư Phật đã ban ân huệ trong cả ba thời
Đến chư Pháp và đoàn thể Tăng già cao thượng,
Con cúi lạy xuống với những thân thể nhiều như vi trần của thế giới

Giống như Văn Thù Sư Lợi và những vị khác
Đã từng cúng dường đến Đấng Chiến Thắng,
Vì thế con cũng cúng dường đến Đấng Thế Tôn
Và đến những bậc Thủ Hộ của chúng con, Dòng dõi tâm linh của các ngài.

(3) Từ vô thủy luân hồi, trong kiếp này và những đời sống khác,
Con đã không biết nên phạm những hành vi tiêu cực,
Hay khiến cho người khác hành động như vậy,
Bị bối rối bởi si mê khờ dại.
Thậm chí con đã từng vui mừng với tất cả những điều này.
Thấy những lỗi lầm này, con xin tuyên xưng giải bày chúng
Đến các ngài, bậc Thủ Hộ của chúng con, từ trong chiều sâu trái tim của con.

(4) Với hạnh phúc con hoan hỉ với đại dương đạo đức
 của việc phát triển Bồ Đề Tâm,
nguyện ước đem niềm vui đến vô lượng chúng sinh
Và hành động vì lợi ích của mọi người.

(5) Với đôi tay chắp lại,
Con thỉnh cầu chư Phật trong khắp muôn phương
Thắp lên ngọn đèn Pháp Bảo cho những ai đang mò mẫm
Trong bóng tối của khổ đau.

(6) Những đấng Chiến Thắng, nguyện vượt qua sầu khổ,
Con thỉnh cầu các Ngài với bàn tay chắp lại:
Những chúng sinh này quẩn quanh một cách mù quáng mà không ai hướng dẫn họ;
Xin hãy sống hàng vô lượng kiếp vượt ngoài tính đếm.

(7) Bằng nỗ lực tích cực tích tập
Từ tất cả những điều con đã làm trong cách này,
Nguyện cho tất cả khổ đau
Của mỗi chúng sinh hạn chế biến mất đi.

Bằng việc trực tiếp cúng dường đến những cõi Phật
Căn bản này, rưới nước hương thơm, rãi bông hoa,
Trang hoàng với núi Tu Di, bốn châu thiên hạ[2], mặt trời, và mặt trăng,
Nguyện cho tất cả những chúng sinh lang thang được đưa đến cõi Cực Lạc.
Om idam guru ratna mandala-kam nir-yatayami.
Con dâng mạn đà la này đến các ngài những đạo sư tôn quý.

12.- ĐIỀU CHỈNH CUỐI CÙNG CHO VIỆC TẬP TRUNG

Với thể trạng cởi mở của tâm thứcchúng ta đã xây dựng, chúng ta gần như đã sẵn sàng để bắt đầu lớp học hay những buổi thiền tập. Tuy thế, đầu tiên, thật hữu ích để làm cho ý thức quyết định để lắng nghe, học hỏi, hay thiền tập với định tâm. Chúng ta quyết định, nếu sự chú ý của chúng ta vẩn vơ, tôi sẽ mang nó định tâm lại và nếu tôi bắt đầu buồn ngủ, tôi sẽ đánh thức tôi dậy. Khi chúng ta làm những quyết định này một cách ý thức, chúng ta sẽ có cơ hội tốt hơn để tập trung.

Cuối cùng, chúng ta thiết lập một sự điều chỉnh tốt đẹp cho sự tập trung và năng lượng của chúng ta. Trong trường hợp chúng ta đang cảm thấy hơi buồn ngủ hay hôn trầm, chúng ta cần nâng cao năng lượng của chúng ta và tự đánh thức chúng ta dậy. Để làm điều này, như giáo huấn Thời Luân Kim Cương (Kalachakra) hướng dẫn, chúng ta tập trung tại điểm giữa chân mày chúng ta, với đôi mắt chúng ta nhìn lên, và đầu chúng ta giữ cân bằng. Rồi thì, trong trường hợp chúng ta cảm thấy khích động hay căng thẳngtâm thức chúng ta dong ruỗi, chúng ta cần đặt năng lượng chúng ta xuống vì thế chúng sẽ bình lặng. Vì điều ấy, tiếp theo chúng ta tiếp theo tập trung trên một điểm bên dưới rốn (đan điền) trong trung tâm của thân thể chúng ta, với đôi mắt nhìn xuống, và đầu chúng ta cân bằng. Khi chúng ta thở một cách bình thường, chúng ta giữ hơi thở cho đến khi chúng ta cần thở ra.

Đây là đầy đủ toàn bộ quy trình chuẩn bị sơ bộ cho lớp học, thiền tập, hay học hỏi Phật Pháp riêng tư. Chính ngài Tịch Thiên đã nhấn mạnh những lợi íchcần thiết của việc thực hành bảy điều quán chiếu và mỗi vị đạoTây Tạng mà tôi đã từng gặp gỡ cũng nhấn mạnh đến như căn bản cho việc thực hành hằng ngày. Thậm chí chỉ với bảy điều ấy, nó cũng hình thành một sự thực hành trọn vẹn. Chúng ta có thể thực hiện những sự thực hành sơ bộ này bằng việc trì tụng những kệ văn, như có trong tác phẩm của Tịch Thiên, hay chúng ta có thể thực hành không phải thuộc lòng những bài kệ, mà chỉ đơn thuần trong những ngôn từ của chúng ta, hay chỉ với cảm nhận. Điều chính yếu là có một cảm nhận nào đấy cho mỗi điều trong bảy điều quán chiếu. Cảm nhận điều gì đấy là những gì đem tâm thức chúng ta đến một thể trạng dẫn đến thiền quán hay học tập.

Cho những buổi thiền quán thực sự của chúng ta sau thực hành sơ bộ này, chúng ta có thể tập trung trên hơi thở, trên chủ đề từ những tầng bậc của con đường tiệm tiến lamrim, hay trên những câu kệ nào đấy của Tịch Thiên. Những thực hành sơ bộ này đưa chúng ta đến một thể trạng hấp dẫn thích đáng của tâm thức bất kể chúng ta chọn đề mục gì cho buổi tu tập thực sự. Chúng ta có thể ngay cả chọn lựa chỉ thực hành những điều sơ bộ, mà chính chúng (bảy điều quán chiếu) là một sự thực hành tuyệt vời. Thời lượngchúng ta dành cho những sự thực hành sơ bộ có thể đa dạng và tùy thuộc vào mỗi chúng ta. Tuy nhiên, cho dù chúng ta thực hành nhanh chóng hay chậm rãi, chúng ta cần tránh thực hiện chúng như một nghi lễ trống rỗng (chỉ có hình thức). Chúng ta cần giữ những ý nghĩa của những thực tập trong tâm thứccố gắng để cảm nhận mỗi bước một cách chân thành.

Thành thật cảm ơn.

 [1] Sám Đại Từ : phần thứ nhất là sám thập phương nghĩa, phần thứ hai là sám Phổ Hiền nghĩa. http://www.tangthuphathoc.com/samphap/samdaitu.htm

[2] Bốn Châu: Đông Thắng Thần Châu, Nam Thiện Bộ Châu, Tây Ngưu Hóa Châu và Bắc Cưu Lô Châu

Tuệ Uyển, ngày 16/10/2010

http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/sutra/level1_getting_started/approaching_study_meditation/preliminaries_meditation_study_7-limb.html

Source: thuvienhoasen


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11396)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
(Xem: 11563)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13562)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14132)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10315)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10792)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11342)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11287)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11444)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10180)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9970)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10720)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11323)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42241)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10494)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11867)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10033)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10469)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10641)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45798)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32136)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11345)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10709)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11342)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10641)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13468)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12385)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11051)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10630)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12337)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11179)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11853)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29293)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9228)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10559)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10247)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10609)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10920)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10821)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32168)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27414)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17816)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11886)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12293)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10449)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11709)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10440)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10797)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28108)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10164)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10295)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10660)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10776)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11237)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10409)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10698)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11482)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18274)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10532)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12860)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11757)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29215)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28620)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28313)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13337)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22796)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13449)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11585)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13832)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25742)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26103)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22330)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14493)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12077)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11817)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11694)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11498)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33211)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31863)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12047)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39652)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22515)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11980)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14250)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13355)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14312)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12077)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10416)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11240)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13335)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34548)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12641)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12239)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13538)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12631)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12992)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16317)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11765)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27406)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28451)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant