Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thực Hành Bảy Điều Quán Nguyện

05 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 30532)
Thực Hành Bảy Điều Quán Nguyện

THỰC HÀNH BẢY ĐIỀU QUÁN NGUYỆN

Nguyên tác: Preliminaries for Meditation or Study: The Seven-Limb Practice
Tác giả: Alexander Berzin, Berlin, Germany, January 9, 2001
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – 3/10/2010

Mục lục
Lời người dịch
 1.- Dọn dẹp phòng ốc và xếp đặt những sự cúng dường
 2.- Tập trung trên hơi thở
 3.- Thẩm tra động cơ hay khuynh hướng
 4.- Đảnh lễ với quy yphát bồ đề tâm
 5.- Cúng dường
 6.- Thừa nhận khuyết điểm
 7.- Vui mừng
 8.- Thỉnh cầu giáo huấn
 9.- Thỉnh cầu đạo sự đừng nhập diệt
10.- Hồi hướng
11.- Bảy điều quán chiếu của Tôn Giả Tịch Thiên
12.- Điều chỉnh cuối cùng cho sự tập trung

 

Lời Người Dịch

blankPhật tử Bắc Tông Việt Nam hầu hết đều thuộc bài Sám Phổ Hiền:

Đệ tử chúng đẳng
Tùy thuận tu tập
Phổ Hiền Bồ Tát
Thập chủng đại nguyện


Nhất giả lễ kính chư Phật
Nhị giả xưng tán Như Lai
Tam giả quảng tu cúng dường
Tứ giả sám hồi nghiệp chướng
Ngũ giả tùy hỉ công đức
Lục giả thỉnh chuyển pháp luân
Thất giả thỉnh Phật trụ thế
Bát giả thường tùy Phật học
Cửu giả hàm thuận chúng sinh
Thập giả phổ giai hồi hướng

Có nhiều bản dịch, nhưng có một bản dịch rất xưa bằng thể lục bát, với những câu đầu tuy mộc mạc nhưng nghe rất tha thiết trầm hùng:

Một là lạy Phật thần thông,
Chứng minh đệ tử thành công lâu dài…[1]

Đây là bài sám nói lên mười nguyện lớn của ngài Đại Hạnh Phổ Hiền một vị đại bồ tát, có cả một phẩm kinh Hoa Nghiêm nói về những điều này, phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, và trong lễ sám Hồng danh phần phía sau cũng nói về mười điều này, thế nên chúng ta dù thuộc lòng nhưng có lẽ nghĩ rằng đây là thệ nguyện của một vị đại bồ tát thì chúng ta chỉ tụng niệm và ngưỡng mộ mà thôi chứ làm thế nào đem vào thực hành trong đời sống tu tập hằng ngày.

Trong truyền thống của Phật Giáo Tây Tạng, cũng có một tài liệu tương tự với mười hạnh Phổ Hiền, nhưng chỉ có bảy điều, vì điều thứ nhất bao gồm cả ba phần, là nhất giả, nhị giả, và cả bồ đề tâm và trong bảy điều này không nói đến bát giả thường tùy Phật học, và cửu giả hàm thuận chúng sinh. Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiển hằng ngày. Bảy điều này có thể như một sự thực tập mở đầu cho những việc thực hành khác, hay như là một sự thực hành chính yếu của mỗi người Phật tử.

Chúng tathể tham khảo để rút kinh nghiệm với ‘mười nguyện lớn của ngài Đại Hạnh Phổ Hiền’ trong việc quán chiếu thực hành tu tập hằng ngày của chúng ta.

Nam Mô A Di Đà Phật

Ngày 26/11/2010

Tuệ Uyển

 

NHỮNG THỰC HÀNH SƠ BỘ CHO THIỀN QUÁN HAY HỌC PHẬT:

BẢY ĐIỀU QUÁN NGUYỆN

Tối nay, tôi muốn giải thích trong một cung cách thực tiển hơn về những sự chuẩn bị mà chúng ta thực hiện vào lúc bắt đầu cho mỗi chúng ta về những lớp học những lời dạy của Tôn Giả Tịch Thiên, ‘Dấn Thân trong Thái Độ’ của Bồ Tát (Bodhisattvacharya-avatara). Trong ấy bao gồm bảy điều thực tập, xuất phát từ tác phẩm này. Thực hiện những chuẩn bị này trước khi lắng nghe để học hỏi Phật Pháp sẽ giúp chúng ta thiết lập một thể trạng tâm thức hứng thú đúng đắnChúng ta cũng sẽ sử dụng cùng sự thực tập trước những buổi thiền tập hay học tập Phật Pháp mỗi ngày tại nhà.

1.- DỌN DẸP PHÒNG ỐC VÀ XẾP ĐẶT NHỮNG SỰ CÚNG DƯỜNG

Nếu chúng ta thực tập những điều này như một sự chuẩn bị cho việc thiền quán tại nhà, chúng ta cần quét dọn và trật tự phòng ốc trước tiên, như chúng ta làm ở lớp tu học. Nếu giấy tờ hay áo quần rơi vải khắp nơi trong phòng, thí dụ, chúng ta phải dọn dẹp. Trong khi làm điều này, chúng ta tâm niệm, “Nguyện cho tâm con trở nên trong sáng, sạch sẽ, và trật tự, giống như con đang thu dọn phòng ốc.”

Điều rất quan trọng để thiền quán và học tập trong một môi trường, nơi mà moi thứ ngăn nắp, sạch sẽ, và trong trật tự. Điều này cũng đúng với nơi chúng ta làm việc. Những gì chúng ta thấy, ngay cả bên ngoài, tác động vô cùng đến thể trạng tâm thức của chúng ta. Nếu mọi thứ chung quanh chúng ta rối loạn, tâm thức chúng ta cũng có xu hướng mất trật tự. Hơn thế nữa, thật sự hữu ích để có một nơi học tập hay thiền quán dễ thương thẩm mỹ. Thấy chung quanh xinh xắn thường làm cho tâm thức vui vẻ, và một thể trạng vui tươi của tâm thức thì dễ tiếp thu để làm một điều gì đấy xây dựng. Nếu thấy chung quanh xấu xí, chúng ta có khuynh hướng khước từ nó, mà điều ấy ảnh hưởng một cách tiêu cực đến những thể trạng của tâm thức. Do vậy, chúng ta thường bố trí một bàn thờ thật bắt mắt trong phòng - một loại kệ hay bàn, với một tấm phủ xinh xắn, trên ấy chúng ta đặt tối thiểu một tượng hay hình Phật tượng trưng cho những gì chúng ta đang thực tập, một phương hướng an toàn trong cuộc sống (quy y).

Mỗi buổi sáng, sau rửa mặt súc miệng và làm sạch phòng ốc, chúng ta cúng dường một chung nước. Điều này không cần thiết phải với bảy chung nước thông thường nếu điều đó không thuận tiện. Cúng dường đơn giản với một chung nước sạch là đầy đủ. Chúng ta không cố gắng để gây ấn tượng với bất cứ người nào cả. Nếu muốn, chúng ta cũng có thể cúng dường đèn nến, bông hoa, nhang, và v.v…; nhưng đấy là sự lựa chọn. Không chỉ là chúng ta đang tạo nên một không gian xinh đẹp cho sự cung thỉnh chư Phật các bậc đại đạo sư trong sự quán tưởng của chúng ta, như được giải thích một cách truyền thống; chúng ta cũng đang xếp đặt phòng ốc trong một phương cách mà nó làm cho chúng ta cảm thấy hoan hỉ và dễ chịu ở đấy. Trong việc làm điều này, nó đặt chúng ta trong một thể trạng tâm linh cung hiến lợi ích cho thiền quán, học tập, hay lắng nghe những lời giáo huấn.

2.- TẬP TRUNG TRÊN HƠI THỞ

Phong cách thông thường là lễ phủ phục ba lần trước biểu tượng của Đức Phật trên bàn thờ trước khi ngồi xuống. Để tránh có những sự lễ lạy máy móc, không có cảm nhận bên trong, trước tiên chúng ta cần đem tâm thức mình đến một thể trạng thích đáng. Để làm điều này, chúng ta tập trung trên hơi thở và tái xác định động cơ của chúng ta. Mặc dù chúng ta thường làm hai điều này sau khi ngồi xuống, tốt hơnthực hiện trước, trong khi đang đứng.

Đầu tiên, chúng ta cần bình lặng và làm nên một không gian giữa những gì chúng ta đang làm và những gì chúng ta sắp làm. Chúng ta cần đem tâm thức chúng đến một thể trạng tĩnh lặng, trung hòa trước khi phát sinh một thái độ tích cực. Chúng ta làm điều này bằng việc tập trung trên hơi thở, với đôi tập trung thoãi mái trên sàn nhà phía trước chúng ta. Nếu băn khoăn hay căng thẳng, chúng ta có thể thích nhắm mắt trong khi lắng xuống, nhưng để cho chúng mở ra nhẹ nhàng là phương pháp thích hợp hơn.

Chúng ta thở một cách bình thường qua lỗ mũi, không quá nhanh, không quá chậm, không quá sâu, và không quá cạn. Chúng ta không giữ hơi thở, nhưng tạm dừng lại sau khi thở ra trước khi thở vào lần nữa. Phương pháp thông thường là thầm đếm một cho một chu kỳ thở ra, tạm dừng, và thở vào. Thông thường, chúng ta đếm như thế đến mười một, và rồi lập lại chu kỳ mười một hơi thở trong hai hay ba lần.

Chúng ta sử dụng tiến trình của việc đếm hơi thở chi khi tâm thức chúng ta đặc biệt rối rắm, vướng mắc trong những tư tưởng không liên quan đến việc thực tập hiện tại. Nếu tâm tư chúng ta không quá xao lãng, thì không cần phải đếm hơi thở; chỉ tập trung trên cảm nhận hơi thở vào và ra trên lỗ mũi là đủ. Thay vì thế, chúng ta có thể đếm những chu kỳ hơi thở trong vài vòng sau đó tiếp tục mà không phải đếm. Bất cứ cách nào mà chúng ta tập trung trên hơi thở, chúng ta tiếp tục cho đến khi chúng ta đạt đến tối thiểu một cấp độ nào đấy của sự bình lặng và yên tỉnh của nội tâm. Nếu tâm thức chúng ta vướng bận với những tư tưởng vẫn vơ, chúng ta không bao giờ có thể thiền tập tốt đẹp hay lắng nghe một cách chú tâm đến những lời giảng dạy.

3.- THẨM TRA ĐỘNG CƠ HAY KHUYNH HƯỚNG

Một khi tâm thức chúng ta tương đối yên tĩnh, chúng ta thẩm tra tại sao chúng ta thiền quán hay tu học, hay tại sao chúng ta đã đến một lớp Phật Pháp. Nói cách khác, chúng ta thẩm tra động cơ của chúng ta, là điều mà trong Đạo Phật có nghĩa là khuynh hướng hay mục tiêu trong việc làm một việc gì đấy. Có phải chúng ta đã đến đây tối này chỉ do một thói quen máy móc mà không có một xu hướng nào đấy trong tâm, hay vì một sự hội họp cộng đồng thông thường để gặp gỡ bạn bè và để ở trong một không khí hoan hỉ? Có phải chúng ta muốn học hỏi điều gì đấy chỉ là sự hứng thú tinh thần hay có phải chúng ta mong ước học hỏi một điều gì đấy thực tiển mà chúng ta có thể áp dụng trong đời sống chúng ta? Nếu đấy là điều gì mà chúng ta muốn đề áp dụng trong đời sống của chúng ta, tại sao chúng ta muốn làm như thế? Mục tiêu là gì? Nó có làm cho đời sống dễ dãi hơn một ít? Để chiến thắng một số khó khăn mà chúng ta có? Hay, thêm nữa, có phải nó có thể làm cho ít rắc rối hơn cho những người khác; có phải nó có thể giúp cho người khác nhiều hơn? Có thể nó là một sự phối hợp của một vài thứ này.

Chúng ta có muốn tiến xa hơn nữa và học hỏi những lời dạy của Tôn Giả Tịch Thiên nhằm để thiết lập những thói quen sẽ đưa chúng ta một sự tái sinh may mắn hơn với nhiều cơ hội để tiếp tục học hỏithực tập Giáo Pháp? Thêm vào điều ấy, có phải chúng ta đang làm điều này để có thể đạt đến giải thoát khỏi tất cả những loại tái sinh luân hồi không thể kiểm soát được hay không? Hay, ngay cả vượt xa điều ấy, chúng ta có muốn học hỏi luận điển này về thái độ Bồ Tát để cho chúng ta có thể giúp đỡ người khác tránh khỏi sinh tử hay được giải thoát khỏi luân hồi không thể kiểm soát hay không? Ngay cả nếu không phải là ba động cơ sau cùng, tối thiểu chúng ta có nguyện vọng cố gắng để phát triển và thâm nhập vào phương hướng ấy trong đời sống của chúng ta hay không?

Chúng ta đi theo cùng tiến trình tâm linh sâu sắc trước khi bắt đầu thiền tậphọc hỏi luận điển của Tôn Giả Tịch Thiên tại nhà. Nếu chúng ta khám phá rằng động cơ hay mục tiêu của chúng ta không thật cao quý, như sự thiền tập do thói quen hay do cảm thấy tội lỗi nếu chúng ta lãng quên, thì chúng ta điều chỉnh động cơ của chúng ta cho hoàn thiện hơn. Nếu chúng ta đã có những động cơ xây dựng, chúng ta hãy tái khẳng định chúng. Đi theo tiến trình này là rất quan trọng, vì dễ dàng đi đến việc giáo huấn hay thiền tập một cách máy móc, và rồi thì chúng ta chỉ đón nhận rất ít kết quả từ đấy.

4.- ĐẢNH LỄ, VỚI QUY YPHÁT BỒ ĐỀ TÂM (TÂM ĐẠI BI)

(Nhất giả Lễ KínhNhị giả xưng tán chư Phật)

Tiếp theo, chúng ta “quy y và phát triển Bồ Đề Tâm.” Điều này có nghĩa là chúng ta tái khẳng định nguyện vọng của chúng ta và nguyện ước đi trong một phương hướng an toàn, tích cực trong đời sống, đây là ý nghĩachúng tôi diễn dịch các chữ “tiếp nhận quy y.” Chúng ta cố gắng để suy nghĩcảm thấy rằng tôi muốn đi trong một phương hướng an toàn nhằm để tránh những rắc rối và khó khăn; tôi không muốn có chúng. Tôi sợ phải tiếp tục trong tình cảnh khó khăn của tôi. Điều gì cống hiến phương hướng tích cực để tránh khỏi những rắc rối? Một thể trạng của tâm thức hoàn toàn tự tại với mê muội và đầy đủ tất cả những phẩm chất tích cực tốt đẹp. Một thể trạng tịnh hóa và tăng trưởngGiáo Pháp. Những ai đã đạt đến một thể trạng toàn vẹn như vậy và những ai biểu lộ cung cách ấy là những vị Phật. Những ai đạt đến một thể trạng như vậy trong một giới hạn nào đấy cũng biểu lộ cung cách ấy. Họ là Tăng Già. Đấy là phương hướng mà tôi sẽ hoạch định trong đời sống của tôi. Tiếp nhận quy y có nghĩa là tái khẳng định phương hướng hay cung cách này trong cuộc đời.

Hơn thế nữa, tôi đang tiếp nhận phương hướng an toàntích cực này nhằm để có thể hỗ trợ người khác một cách trọn vẹn như có thể, không chỉ để lợi ích cho cá nhân của chính tôi mà thôi. Để đạt được mục tiêu này, tôi cần du hành theo phương hướng này suốt cả lộ trình, để giác ngộ, và không bỏ dở, không được hài lòng với việc chỉ hoàn thành một phần của con đường. Đây là những gì chúng ta hành động khi chúng ta tái khẳng định quy y [Tam Bảo] và [phát] Bồ Đề Tâm.

Khi chúng ta cảm thấy thái độ này hay thể trạng của tâm thức đi trên một phương hướng an toàn để có thể hổ trợ người khác và tiến bước trọn vẹn trên con đường ấy để giúp đở người khác tối đa như chúng ta có thể làm, rồi thì hãy đỉnh lễ. Nếu chúng ta đã ngồi xuống rồi và quyết định không đứng lên để đỉnh lễ bằng thân thể, chúng ta có thể quán tưởng mình đỉnh lễ. Trong một ý nghĩa nào đấy, đỉnh lễ giống như đem hết sức mình hay đặt mình trọn vẹn trong phương hướng này; và thực hiện như thế với sự tôn trọngtôn kính những ai đã hoàn thành trong nẽo đường này và tôn vinh chính mình và khả năng của mình để làm giống như thế. Vì thế, thực hành việc đỉnh lễ không phải là một hành vi tự phỉ báng mình; không phải là hạ thấp mình, nhưng mà là vực chúng ta dậy.

Đây là điều thứ nhất trong bảy điều thực tập: đỉnh lễ với quy y [Tam Bảo] và Bồ Đề Tâm [tâm đại bi]. 

5.- CÚNG DƯỜNG

(Tam giả quảng tu cúng dường)

Tiếp theocúng dường. Thể trạng chính của tâm thức để phát triển khi thực hiện cúng dường trong phạm vi này là: tôi đang đi trong phương hướng này. Tôi không chỉ đem hết sức mình trọn vẹn trong ấy, tôi đang nhiệt tình chân thành, trong lối sống của tôi, với thời gian của tôi, bằng năng lượng của tôi để đạt đến mục tiêu này. Tôi đang khao khát để dâng hiến trọn vẹn tâm tư của tôi để đi trong con đường này để hổ trợ người khác hơn nữa. Trong thể trạng này của tâm thức, chúng ta thực hiện sự cúng dường.

Mặc dù chúng ta thường làm điều này với quán tưởng, nhưng chúng ta có thể cúng dường trong một động thái vật lý, nếu chúng ta đang thực hành tỏng phòng thiền tập của chúng ta. Sau khi đỉnh lễ và trước khi ngồi xuống, chúng ta bước tới bàn thờ, đặt bốn ngón tay trái vào trong chén nước và vẩy một vài giọt nước từ đấy ba lần, biểu tượng của sự cúng dường. Trong một ý nghĩa, chúng ta đang cúng dường đến chư Phật, nhưng không phải với một thái độ dâng cúng một phẩm vật vì thế chư Phật sẽ gia hộ chúng ta và nếu chúng ta không cúng dường bất cứ vật gì, các Ngài sẽ quên lãng chúng ta. Đúng hơn, chúng ta đang cúng dường mọi thứ đến con đườngchúng ta đang theo đuổi trong đời sống. Chúng ta cố gắng để làm điều này trong một thể trạng hoan hỉ của tâm thức, vui mừngchúng ta có thể tự mình cúng dường .

Nếu mong muốn, chúng ta có thể làm cho sự cúng dường chi tiết hơn như trong tác phẩm của Tịch Thiên trình bày. Tuy thế, nó không cần thiết để liệt kê một hàng dài những phẩm vật chúng ta cúng dường, mặc dù chúng ta có thể quán tưởng tất cả mọi loại xinh đẹp. Điều quan trọng là cảm thấy rằng chúng ta đang dâng tự mình cúng dường. Đấy là điều thứ nhì của sự thực hành chuẩn bị, cúng dường. Nếu chúng ta hoàn thành bước này trước bàn thờ, chúng ta bây giờ ngồi xuống vị trí của chúng ta.

6.- THỪA NHẬN KHUYẾT ĐIỂM

 (Tứ giả Sám Hối nghiệp chướng)

Điều thứ ba là chân thành thừa nhận sự yếu kém, khó khăn, và những vấn đề của chúng ta. Chúng ta ân hậnchúng ta có những khiếm khuyết ấy, vì chúng ngăn chặn chúng ta thể hiện sự hổ trợ tốt nhất đến người khác. Chúng ta nguyện ước được tự do khỏi những khiếm khuyết và quyết định cố gắng không lập lại những lỗi lầm của chúng ta. Chúng ta tái khẳng định phương hướng an toàntích cựcchúng ta cố gắng để đem vào đời sống của chúng ta, để có thể hỗ trợ người khác trọn vẹn hơn; và cuối cùng, chúng ta nhắc nhở chính mình rằng học hỏi tác phẩm của Tịch Thiênthiền quán trên điều ấy là những việc làm tích cựcchúng ta đang tiếp nhận để chống lại những lỗi lầm của chúng ta, chúng ta tái khẳng định lý domục tiêu trong sự thể hiện ở đây. Chúng ta muốn học hỏi và sau đó thực tập những phương pháp để vượt thắng chúng.

7.- VUI MỪNG

(Ngũ giả tùy hỷ công đức)

Điều thứ tư là vui mừng tự hào, là điều sẽ giúp chúng ta đáp ứng đến bất cứ cảm giác nào của tự ty thấp kém mà có thể chúng đến từ nhận thức những rắc rối, lỗi lầm, và khó khăn của chúng ta. Chúng ta cần cân bằng sự tỉnh giác về khiếm khuyết của chúng ta với sự tái khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của chúng ta. Tất cả chúng ta có một số phẩm chất tốt đẹp và một số điều tích cực nào đấy mà chúng ta đã làm. Thí dụ, chúng ta có thể khám phá rằng tôi đã từng cố gắng để hữu dụng; tôi đã từng cố gắng để kiên nhẫn; tôi đã từng cố gắng để thông hiểu; hay bất cứ điều gì có thể là. Chúng ta nhớ lại và mừng vui. Chúng ta cũng tùy hỷ trong Phật Tính của chúng ta: chúng ta có những tiềm lực và khả năng để trưởng thànhChúng tacăn bản hành động; đấy là niềm hy vọng. Chúng ta cũng nhìn vào những tấm gương của những phẩm chất tốt đẹp và những hành vi tích cực của những người khác và cũng tùy hỷ với họ, không cảm thấy ghen tỵ. Thật diệu kỳ rằng có những người khác rất tích cực và hữu ích, đặc biệt là những đại đạo sư. Điều này liên hệ không chỉ là những đạo sư tâm linh tại thế, nhưng cũng là chư Phật và Tôn Giả Tịch Thiên. Chúng ta nghĩ thật diệu kỳ thế nào mà Tịch Thiên đã viết tác phẩm này. Tôi tùy hỷ trong điều này. Xin cảm tạ Tôn Giả Tịch Thiên. Đây là một thể trạng quan trọng của tâm thức.

8.- THỈNH CẦU GIÁO HUẤN

(Lục giả thỉnh chuyển pháp luân)

Sau khi tùy hỷ trong những phẩm chất của những đại đạo sưcảm tạ Tịch Thiên vì đã viết tác phẩm này, chúng ta sẵn sàng cho điều thứ năm, thỉnh cầu sự giảng dạy. Chúng ta nghĩ, Tịch Thiên, thật phi thường rằng ngài đã viết tác phẩm này. Dạy tôi một số điều trong ấy; tôi muốn học. Lời thỉnh cầu này với điều mà chúng ta đã đọc hay nghe về những thứ từ tác phẩm và chỉ nghĩ về những điều ngoại lệ, chẳng hạn như làm thế nào sự giáo huấn về nhẫn nhục có thể hoạt động trong trường hợp tàn sát của Hitler? Mặc dù thật quan trọng để thẩm tra giáo huấn để thấy có thích đáng hay không, nhưng trước tiên chúng ta cần suy nghĩ trong những dạng thức về việc những giáo huấn ấy sẽ được áp dụng trong trong đời sống hằng ngày của chúng ta như thế nào. Một khi chúng ta thấu hiểu và đánh giá đúng giáo huấn hành hoạt như thế nào, sau đó chúng ta có thể xem xét đến việc có bất cứ sự ngoại lệ nào hay không. Rồi thì chúng ta có thể phân tích những thí dụ nghiêm trọng như trường hợp của Hitler là những trường hợp mà trong ấy giáo huấn về nhẫn nhụchoàn toàn không thể áp dụng hay là những trường hợp mà trong ấy giáo huấn chỉ có thể áp dụng trên một trình độ cao cấp. Khi nghe một giáo huấn mới, sự đáp ứng lập tức “nhưng” là một chướng ngại ẩn tàng đến thái độ cởi mở mong ước học hỏi điều gì đấy. Do vậy, sự tiếp cận kinh luận với thái độ “hãy dạy tôi điều gì đấy” là cần yếu. Với một thái độ như vậy, trước tiên chúng ta cố gắng để thấy chúng ta có thể áp dụng những gì chúng ta đọc hay nghe như thế nào. Chúng ta thấy mọi thứ trong tác phẩm của Tịch Thiên là một giáo huấn thực tiển, có thể áp dụng đến chúng ta một cách cá nhân – trong nhà chúng ta, trong văn phòng chúng ta, với những người thân và bè bạn chúng ta.

Nếu chúng ta đang thực hành bảy điều quán chiếu sơ bộ trước một buổi thiền tập, chúng ta cũng thỉnh cầu các vị giáo thọkinh luận hướng dẫn chúng ta thêm, trong ý nghĩa rằng chúng ta muốn tiến bộ hơn qua sự thiền quán của của mình. Chúng ta thỉnh cầu thúc đẩy chúng ta đạt thêm tuệ giác, thấu hiểu hơn, thực chứng hơn từ những gì các ngài đã dạy.

9.- THỈNH CẦU ĐẠO SƯ ĐỪNG NHẬP DIỆT

(Thất giả thỉnh Phật trụ thế)

Sau đó, chúng ta sẳn sàng cho điều thứ sáu, mà đấy là thỉnh cầu đạo sư đừng nhập diệt. Chúng ta suy tưởng, xin đừng bao giờ ngừng dạy bảo; hãy tiếp tục mãi mãi! Chúng con không phải thỉnh cầu cách này bởi vì sự ái luyến đến những vị đạo sư của chúng con. Đúng hơn, chúng con tái khẳng định rằng chúng con nghiêm chỉnhchân thành trong sự thực tập của chúng con. “Con muốn đi suốt tận cùng con đường đến giác ngộ để có thể hỗ trợ tất cả mọi người. Vì thế, xin đừng nhập diệt! Con phải học hỏi.” Chúng ta cũng tự bày tỏ đến chính những giáo huấn (pháp bảo), hãy tiếp tục hướng dẫn con – Tôn Giả Tịch Thiêntác phẩm của ngài. Hãy dạy bảo con hơn nữa và hơn nữa. Hãy để cho con tăng trưởng sự hiểu biết, và làm tăng trưởng hơn tiến trình với tác phẩm này. Xin đừng bao giờ dừng lại cho đến khi con đạt được giác ngộ - cho đến khi mọi người cùng đạt đến giác ngộ. (trong bảy điều này không nói đến bát giả thường tùy Phật học, và cửu giả hàm thuận chúng sinh)

10.- HỒI HƯỚNG (Thập giả phổ giai hồi hướng)

Điều thứ bảy và là điều cuối cùnghồi hướng. Chúng ta suy tưởng rằng bất cứ điều gì con học hỏi, bất cứ điều gì con thông hiểu, nguyện cho nó hành hoạt như một nguyên nhân vì sự đạt đến giác ngộ và vì thế có thể làm lợi ích cho những người khác tối đa như con có thể làm. Nguyện cho sự thấu hiểu của con sâu sắc hơn và thâm diệu hơn. Nguyện cho sự thông hiểu ấy thâm nhập vào trong con và tạo nên một ấn tượng sâu sắc trong con vì thế con có thể áp dụng một cách từ từ trên con đường đến giác ngộ. Một cách đặc biệt, nguyện cho con có thể áp dụng những gì con đã học trong đời sống hằng ngày của con vì thế nó bắt đầu tạo nên một sự khác biệt trong những đáp ứng với người khác và do vậy con có thể đem hạnh phúc đến cho họ một cách từ từ.

11.- BẢY ĐIỀU QUÁN CHIẾU CỦA TÔN GIẢ TỊCH THIÊN

Nếu chúng ta mong ước, sau đó chúng ta có thể đọc tụng những dòng kệ của Tịch Thiên bao hàm bảy điều này, cùng với những câu mở đầu sẳn sàng cho việc thiết lập động cơ và những dòng cúng dường mạn đà la sau này:

Con xin quy y, cho đến khi đạt đến thể trạng thanh tịnh của con
Với chư Phật, chư Pháp, và đoàn thể Cao Thượng (của Tăng già).
Bằng nổ lực tích cực trong sự hiến dâng của con và v.v…,
Nguyện cho con biến thành hiện thực Phật quả để hổ trợ những ai còn lang thang.

Nguyện cho mặt đất trong mọi phương hướng
Được thanh tịnh, không có ngay cả một hòn sỏi,
Bằng thẳng như bàn tay của trẻ thơ,
Bóng láng một cách tự nhiên như ngọc lục bảo.

Nguyện cho những phẩm vật cúng dường của thiên thầncon người
Được xếp đặt tề chỉnh một cách thật sự và cũng như của những ai quán tưởng
Như những đám mây cúng dường không gì có thể so sánh của Phổ Hiền,
Đầy khắp các cõi hư không

Con đỉnh lể tất cả chư Phật đã ban ân huệ trong cả ba thời
Đến chư Pháp và đoàn thể Tăng già cao thượng,
Con cúi lạy xuống với những thân thể nhiều như vi trần của thế giới

Giống như Văn Thù Sư Lợi và những vị khác
Đã từng cúng dường đến Đấng Chiến Thắng,
Vì thế con cũng cúng dường đến Đấng Thế Tôn
Và đến những bậc Thủ Hộ của chúng con, Dòng dõi tâm linh của các ngài.

(3) Từ vô thủy luân hồi, trong kiếp này và những đời sống khác,
Con đã không biết nên phạm những hành vi tiêu cực,
Hay khiến cho người khác hành động như vậy,
Bị bối rối bởi si mê khờ dại.
Thậm chí con đã từng vui mừng với tất cả những điều này.
Thấy những lỗi lầm này, con xin tuyên xưng giải bày chúng
Đến các ngài, bậc Thủ Hộ của chúng con, từ trong chiều sâu trái tim của con.

(4) Với hạnh phúc con hoan hỉ với đại dương đạo đức
 của việc phát triển Bồ Đề Tâm,
nguyện ước đem niềm vui đến vô lượng chúng sinh
Và hành động vì lợi ích của mọi người.

(5) Với đôi tay chắp lại,
Con thỉnh cầu chư Phật trong khắp muôn phương
Thắp lên ngọn đèn Pháp Bảo cho những ai đang mò mẫm
Trong bóng tối của khổ đau.

(6) Những đấng Chiến Thắng, nguyện vượt qua sầu khổ,
Con thỉnh cầu các Ngài với bàn tay chắp lại:
Những chúng sinh này quẩn quanh một cách mù quáng mà không ai hướng dẫn họ;
Xin hãy sống hàng vô lượng kiếp vượt ngoài tính đếm.

(7) Bằng nỗ lực tích cực tích tập
Từ tất cả những điều con đã làm trong cách này,
Nguyện cho tất cả khổ đau
Của mỗi chúng sinh hạn chế biến mất đi.

Bằng việc trực tiếp cúng dường đến những cõi Phật
Căn bản này, rưới nước hương thơm, rãi bông hoa,
Trang hoàng với núi Tu Di, bốn châu thiên hạ[2], mặt trời, và mặt trăng,
Nguyện cho tất cả những chúng sinh lang thang được đưa đến cõi Cực Lạc.
Om idam guru ratna mandala-kam nir-yatayami.
Con dâng mạn đà la này đến các ngài những đạo sư tôn quý.

12.- ĐIỀU CHỈNH CUỐI CÙNG CHO VIỆC TẬP TRUNG

Với thể trạng cởi mở của tâm thứcchúng ta đã xây dựng, chúng ta gần như đã sẵn sàng để bắt đầu lớp học hay những buổi thiền tập. Tuy thế, đầu tiên, thật hữu ích để làm cho ý thức quyết định để lắng nghe, học hỏi, hay thiền tập với định tâm. Chúng ta quyết định, nếu sự chú ý của chúng ta vẩn vơ, tôi sẽ mang nó định tâm lại và nếu tôi bắt đầu buồn ngủ, tôi sẽ đánh thức tôi dậy. Khi chúng ta làm những quyết định này một cách ý thức, chúng ta sẽ có cơ hội tốt hơn để tập trung.

Cuối cùng, chúng ta thiết lập một sự điều chỉnh tốt đẹp cho sự tập trung và năng lượng của chúng ta. Trong trường hợp chúng ta đang cảm thấy hơi buồn ngủ hay hôn trầm, chúng ta cần nâng cao năng lượng của chúng ta và tự đánh thức chúng ta dậy. Để làm điều này, như giáo huấn Thời Luân Kim Cương (Kalachakra) hướng dẫn, chúng ta tập trung tại điểm giữa chân mày chúng ta, với đôi mắt chúng ta nhìn lên, và đầu chúng ta giữ cân bằng. Rồi thì, trong trường hợp chúng ta cảm thấy khích động hay căng thẳngtâm thức chúng ta dong ruỗi, chúng ta cần đặt năng lượng chúng ta xuống vì thế chúng sẽ bình lặng. Vì điều ấy, tiếp theo chúng ta tiếp theo tập trung trên một điểm bên dưới rốn (đan điền) trong trung tâm của thân thể chúng ta, với đôi mắt nhìn xuống, và đầu chúng ta cân bằng. Khi chúng ta thở một cách bình thường, chúng ta giữ hơi thở cho đến khi chúng ta cần thở ra.

Đây là đầy đủ toàn bộ quy trình chuẩn bị sơ bộ cho lớp học, thiền tập, hay học hỏi Phật Pháp riêng tư. Chính ngài Tịch Thiên đã nhấn mạnh những lợi íchcần thiết của việc thực hành bảy điều quán chiếu và mỗi vị đạoTây Tạng mà tôi đã từng gặp gỡ cũng nhấn mạnh đến như căn bản cho việc thực hành hằng ngày. Thậm chí chỉ với bảy điều ấy, nó cũng hình thành một sự thực hành trọn vẹn. Chúng ta có thể thực hiện những sự thực hành sơ bộ này bằng việc trì tụng những kệ văn, như có trong tác phẩm của Tịch Thiên, hay chúng ta có thể thực hành không phải thuộc lòng những bài kệ, mà chỉ đơn thuần trong những ngôn từ của chúng ta, hay chỉ với cảm nhận. Điều chính yếu là có một cảm nhận nào đấy cho mỗi điều trong bảy điều quán chiếu. Cảm nhận điều gì đấy là những gì đem tâm thức chúng ta đến một thể trạng dẫn đến thiền quán hay học tập.

Cho những buổi thiền quán thực sự của chúng ta sau thực hành sơ bộ này, chúng ta có thể tập trung trên hơi thở, trên chủ đề từ những tầng bậc của con đường tiệm tiến lamrim, hay trên những câu kệ nào đấy của Tịch Thiên. Những thực hành sơ bộ này đưa chúng ta đến một thể trạng hấp dẫn thích đáng của tâm thức bất kể chúng ta chọn đề mục gì cho buổi tu tập thực sự. Chúng ta có thể ngay cả chọn lựa chỉ thực hành những điều sơ bộ, mà chính chúng (bảy điều quán chiếu) là một sự thực hành tuyệt vời. Thời lượngchúng ta dành cho những sự thực hành sơ bộ có thể đa dạng và tùy thuộc vào mỗi chúng ta. Tuy nhiên, cho dù chúng ta thực hành nhanh chóng hay chậm rãi, chúng ta cần tránh thực hiện chúng như một nghi lễ trống rỗng (chỉ có hình thức). Chúng ta cần giữ những ý nghĩa của những thực tập trong tâm thứccố gắng để cảm nhận mỗi bước một cách chân thành.

Thành thật cảm ơn.

 [1] Sám Đại Từ : phần thứ nhất là sám thập phương nghĩa, phần thứ hai là sám Phổ Hiền nghĩa. http://www.tangthuphathoc.com/samphap/samdaitu.htm

[2] Bốn Châu: Đông Thắng Thần Châu, Nam Thiện Bộ Châu, Tây Ngưu Hóa Châu và Bắc Cưu Lô Châu

Tuệ Uyển, ngày 16/10/2010

http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/sutra/level1_getting_started/approaching_study_meditation/preliminaries_meditation_study_7-limb.html

Source: thuvienhoasen


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31870)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10597)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11305)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12835)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10892)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16817)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10886)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 23088)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12151)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11567)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10751)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12402)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11267)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10085)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10393)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 12021)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10777)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12433)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9887)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11338)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13898)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9635)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12707)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9779)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10528)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10650)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10376)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9972)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11111)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12057)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10199)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10835)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9596)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9971)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8849)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9553)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14600)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8829)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12630)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10510)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9160)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10630)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9390)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8855)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10581)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9274)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8414)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12110)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9760)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10254)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10279)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19255)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9471)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 9041)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9633)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9055)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14848)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10144)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8415)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 9001)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 9034)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8809)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9418)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14708)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9092)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8841)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9097)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10606)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8698)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 10059)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24392)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10242)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11100)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9074)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9545)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8083)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9335)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15459)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10417)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9632)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17530)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21577)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12219)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10284)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19367)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26190)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 8018)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14901)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10697)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11411)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9576)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18789)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12458)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11980)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10832)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13427)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10087)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9327)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9444)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15979)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant