Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Công Án 30-44

14 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 8969)
Công Án 30-44

THIÊN KHI NHƯ HUYỄN bình
ĐỖ ĐÌNH ĐỒNG dịch
TIẾNG SÁO THÉP
(100 CÔNG ÁN THIỀN)

30. THÁI TÔNG NẰM MỘNG

 

Hoàng đế Thái Tông đời nhà Tống một đêm nằm mộng thấy một vị thần hiện ra khuyên vua phát tâm cầu giác ngộ vô thượng. Sáng hôm sau Hoàng đế hỏi vị Tăng lục, “Làm sao trẫm có thể phát khởi tâm cầu giác ngộ vô thượng?” Vị Tăng lục không lời để đáp.

 

Fugai: Hoàng đế vẫn còn trong mộng khi hỏi vị tăng lục. Bầy tôi nên chuẩn bị một cái thau rửa mặt bằng ngọc màu lục, một tấm vải trắng như tuyết và nước có chút đá lạnh để rửa mặt cho nhà vua. Phải bãi chức vị tăng lục vì đã không giúp được nhà vua lúc nào cũng tỉnh táo. Khi nhà vua hỏi, ông ta đã không nói được một tiếng, bê trễ bổn phận, và vô tích sự.

 

Như Huyễn: Hoàng đế phải phát tâm cầu đạt điều đã mộng thấy. Vị tăng lục biết có trả lời nhà vua cũng vô ích, chừng nào nhà vua còn chưa biết cái gì ở bên kia nhị nguyên, nhưng sự im lặng của ông ta không đủ sức sáng đi vào tâm người mộng.

 

Genro: Nếu tôi là vị tăng lục thì tôi sẽ đáp, “Tâu hoàng thượng, hoàng thượng nên hỏi vị thần trong mộng của hoàng thượng ấy.”

 

Fugai: Tôi không biết thầy tôi [Genro] có từng quen với vị thần mà hoàng đế nói hay không. Dù có quen thì lời khuyên của ông cũng đã muộn quá rồi.

 

Như Huyễn: Giác ngộ vô thượng là gì? Làm sao người ta biết rằng mình đang phát tâm cầu giác ngộ vô thượng? Khi Phật giác ngộ, ngài quan tâm đến tất cả chúng sanh với tâm bi sâu xa, ngài đã tìm phúc lợigiải thoát. Phật đã thành tấm gương chơn tánh của giác ngộ vô thượng. Bốn lời nguyện vĩ đại phát khởi tâm cầu và chứng thực sự giác ngộ ấy.

 

 

 

31. QUI SƠN GỌI HAI TĂNG CHỨC

 

Sư Qui Sơn cho người gọi ông tăng thủ kho, nhưng khi ông tăng thủ kho trình diện thì sư bảo, “Tôi gọi tăng thủ kho, không phải ông.” Ông tăng thủ kho không nói gì được. Kế đó sư cho người gọi ông tăng thủ tọa. Nhưng khi ông này đến, sư lại bảo, “Tôi cho gọi ông tăng thủ tọa, không phải ông.” Ông tăng thủ tọa không nói gì được.

 

Như HuyễnMột ngôi chùa phải có năm bảy tăng chức. Thủ kho lo việc ngân sách của chùa, và thủ tọa quản lý tất cả tăng chúng trong Thiền đường. Các tăng mới vào thì được giữ trong Thiền đường để thiền định, còn những người lâu năm hơn thì chịu trách nhiệm các địa vị khác nhau trong chùa. Mặc dù hai ông tăng trong câu chuyện không có sự kiêu hãnh về địa vị của họ, song họ vẫn muốn có sự hướng dẫn riêng nên đã trình diện trước thầy. Qui Sơn khám phá ra cái tâm nhị nguyên này và trách họ.

 

 

 

32. PHẦN DƯƠNG TRỪNG PHẠT HƯ KHÔNG

 

Một ông tăng hỏi Phần Dương, “Nếu hư không trong mười ngàn dặm không một chút mây, thì hòa thượng nói thế nào?” Phần Dương đáp, “Tôi sẽ trừng phạt hư không bằng cây gậy này.” Ông tăng khẩn khoản, “Tại sao hòa thượng trách phạt hư không?” Phần Dương đáp, “Bởi vì sẽ không có mưa khi chúng ta cần và không có thời tiết tốt khi chúng ta muốn.”

 

Như Huyễn: Một Thiền tăng sẽ trừng phạt mọi thứ bằng cây gậy bự của ông ta; ngay cả Phật và các Tổ cũng không thể tránh thoát cú đánh ấy của Thiền. Cây gậy ấy là cái cán cầm mà Thiền tăng có thể làm rung chuyển cả vũ trụ. Nếu như trong mạn lưới hoàn hảo của vũ trụ có sự quấy nhiễu nào, Phần Dương cũng sẵn sàng thu xếp mọi sự ổn thõa bằng cây gậy của sư. Ông tăng là kẻ nằm mộng chỉ mong sống trong sự an lạc không bị gián đoạn trong khi ông ta sùng bái một ông Phật ngốc nghếch được tắm rửa trắng tinh. Câu đáp đầu tiên của Phần Dường đã cảnh cáo ông tăng, nhưng khi thấy ông tăng không hiểu, sư đã biến câu trả lời của mình thành một câu đơn giản như để cho một đứa bé.

 

 

 

33. DƯỢC SƠN VẤN ĐỀ

 

Sau bài Pháp sáng cho tăng chúng, một ông tăng tiến tới nói với Dược Sơn, “Con có một vấn đề, hòa thượnggiải quyết giúp cho không?” Dược Sơn đáp, “Tôi sẽ giải quyết vào bài Pháp kế tiếp.” Chiều hôm đó, khi tất cả tăng chúng đã tụ tập trong pháp đường, Dược Sơn gọi lớn, “Ông tăng nào sáng nay bảo là có vấn đề, hãy lên ngay đây.” Ngay lúc ông tăng vừa bước tới đứng trước thính chúng, sư rời chỗ ngồi nắm đứng ông tăng, nói, “Chư tăng hãy nhìn đây, người này có vấn đề.” Rồi sư đẩy ông tăng sang một bên trở về phòng, không cho bài Pháp chiều.

 

Fugai: Này sư huynh thân mến, tại sao sư huynh lại có cả một kho tàng để thiền định như thế. Không có vấn đề gì, làm sao người ta thiền định kịch liệt? Chớ có yêu cầu thầy hay ai khác giúp đỡ. Thầy đã giải quyết vấn đề cho sư huynh sáng nay rồi, nhưng sư huynh không nhận ra đấy thôi. Chiều nay ông ta lại cho sư huynh một bài pháp bi tráng nữa, ông ta trút hết gan ruột ra rồi. 

 

Như Huyễn: Ôi là cái bị gạo! Thật là một bài pháp sáng ngời! Tôi ngờ rằng nhiều ông tăng trong thính chúng có hiểu được hay không?

 Một thời gian trước đây, một tu sĩ từ Nhật đến viếng tôi tại Thiền đường này. Ông ta hỏi, “Thiền là gì?” Tôi đặt một ngón tay của tôi lên môi và thì thầm, “Chúng tôi không nói trong thiền phòng.” Ông ta đi theo tôi đến thư viện và sắp lặp lại câu hỏi khi nãy. Vì thế tôi lại đặt ngón tay lên môi và nói, “Chúng tôi đọc sách trong im lặng.” Khi đến nhà bếp, tôi không cho ông ta cơ hội để nói mà tôi nói trước, “Chúng tôi nấu ở đây mà không nói một chữ, và ăn ở đây mà chẳng nói một lời.” Khi tôi mở cửa bắt tay tiễn ông ta, ông ta giẫy nẩy lên, “Thiền là gì ?” và bỏ đi.

 

 

 

34. TUYẾT PHONG THẤY PHẬT TÁNH

 

Một ông tăng hỏi Tuyết Phong, “Con hiểu rằng một người ở trong cảnh giới Thanh văn thấy Phật tánh của mình khi thấy mặt trăng ban đêm, và một người ở trong cảnh giới Bồ-tát thấy Phật tánh của mình khi thấy mặt trời ban ngày. Xin hòa thượng hãy nói làm sao hòa thượng thấy được Phật tánh của mình.” Để đáp câu hỏi, Tuyết Phong đánh cho ông tăng ba gậy. Ông tăng đến một sư khác là Nham Đầu và cũng hỏi câu ấy. Nham Đầu tát cho ông ta ba cái. 

 

Như Huyễn: Nếu một người học Phật giáo để chạy trốn đau khổ của thế gian, y sẽ thấy rằng tất cả đau khổ là do tham, sân và si của chính mình gây ra. Khi y tìm cách tránh ba loại độc này và muốn làm sạch tâm mình, y có thể thấy Phật tánh của mình vừa đẹp vừa xa xôi như mảnh trăng non. Nhưng phần lớn thời gian, y không thấy ngay cả điều này. Y ở trong cảnh giới Thanh văn.

 Một người khác học Phật giáo để độ tất cả chúng sinh. Người này nhận ra chân tánh con người, và thấy Phật tánh nơi mọi người, không có ngoại lệ. Người này thấy mây, mưa và tuyết với nỗi buồn, nhưng không trách mặt trời và ban đêm thì biết các phần khác của trái đất có ánh sáng ban ngày rực rỡ. Người này biết rằng loài người hủy diệt sự vật một cách ngu xuẩn mà cũng có thể tạo ra và xây dựng sự vật một cách khôn ngoan. Người này là một Bồ-tát. 

 Những câu nói đầu tiên của ông tăng chẳng có gì sai, nhưng nếu ông ta hiểu các câu nói đó thì tốt hơn ông ta chẳng nên hỏi Tuyết Phong về Phật tánh của sư. Tuyết Phong đã cố gắng đem ông tăng từ cõi mộng trở lại trần gian với mấy cú đánh bằng gậy. Nhưng ông tăng lại đem mộng của mình đến Nham Đầu và ông ta cũng nhận được cách đối xử tương tự. Tôi có thể tưởng tượng ra bộ mặt ngu xuẩn và ngái ngủ của ông ta!

 

 

 

35. LỢI TUNG BÀI THƠ

 

Lợi Tung sống ba chục năm trên núi Tử Hồ, viết một bài thơ:

 

Ba mươi năm núi Tử Hồ ta sống

 Ngày hai lần ăn đạm bạc nuôi thân

 Leo đồi núi trở về am, thân thể dục

 Người cùng thời chẳng nhận ra ta.

 

Như Huyễn: Như con chim bay tự do mà chẳng để lại dấu vết nơi hư không, cũng vậy Thiền tăng nên sống mà không tạo ấn tượng về sự từng trải của mình. Phật nói, “Và bởi sa môn bên trong an ổnthanh bình, người ta kính trọng sa môn. Do đó, sa môn nên tránh tất cả những vướng mắc phiền toái. Vì giống như cái cây trong sa mạc hoang liêu, là nơi tất cả chim và khỉ cùng nhau tụ tập, cũng như vậy sa môn là nơi nhiều bạn bè và người ngưỡng mộ vây quanh làm trở ngại.” Lão Tử nói, “Do đó, để tránh những đối nghịch, thánh nhân lo liệu việc của mình mà không làm gì cả, truyền dạy người mà không dùng lời nóiThánh nhân khiến cho sự việc xảy ra mà không hành động hay tuyên bố quyền sở hữu, hay mong được báo đền, do vậy năng lực của thánh nhân không bao giờ bị nguy hiểm.”*

 Vị sư trong câu chuyện của chúng ta muốn sống theo cách này. Bất cứ ai hoàn thành việc lớn cũng có nợ với những người đồng thời vô danh. Một ông tăng sống trên núi ba chục năm, ăn uống đạm bạc và leo đồi leo núi. Cuộc sống của ông ta không có lỗi lầm; ông ta hài lòng. Đời sống hằng ngày của ông ta thuyết Pháp không ngừng. Ông ta còn quan tâm đến những người đồng thời để làm gì? 

 

Genro: Khi hứng thú thì đi leo núi,

 Khi an nhàn làm bạn với mây,

 Trong cô liêu hưởng niềm vui vô tận.

 Thiền tăng nào được thú vui này?

 

 

 

36. SAU KHI CHẾT GẶP NHAU Ở ĐÂU

 

Đạo Ngô viếng sư đệ bị bịnh là Vân Nham. Người viếng hỏi, “Nếu sư đệ chết và chỉ để lại cái xác ở đây thì tôi có thể gặp sư đệ ở đâu?” Ông tăng bị bịnh đáp, “Tôi sẽ gặp sư huynh ở chỗ không có gì sinh và không có gì tử.” Đạo Ngô không hài lòng với câu đáp, nói, “Sư đệ nên nói rằng không có chỗ nào không có gì sinh và không có gì tử, và chúng ta chẳng cần thấy nhau chi hết.”

 

Như HuyễnCả Đạo Ngô lẫn Vân Nham đều đắc Pháp nơi Dược Sơn, về sau họ trở thành những bậc thầy nổi tiếngCâu chuyện dật sử này thuộc vào lúc họ còn thanh niên; ít nhất cũng là khi họ còn trẻ trong Thiền. Đạo Ngô không nên quấy rầy người sư đệ bị bịnh bằng một câu hỏi như thế. Tất cả chúng ta không lúc nào là không tiến gần đến cái chết trong thế giới vô thường (anikka) này. Người khỏe cũng như người bệnh mỗi ngày đều giáp mặt với cái chết trong thế giới đau khổ (dukkha) này. Người tu sĩ Phật giáo nhận ra chân lý vô ngã (anatta), thì y không bao giờ cảm thấy khổ và sống ở bên kia thế giới vô thường

 Phi lý! Tại sao không để cho người bệnh được yên? Vì chẳng có linh hồn nào “ra đi” vào lúc chết, nếu khách đến thăm không thỏa mãn với cái xác chết, y nên tìm bàn tay ấm áp nơi một ông tăng khác mà bắt tay để được hài lòng

 Câu đáp của ông tăng bị bệnh không tệ, nhưng vẫn còn dấu vết của định đề. Nếu tôi là ông tăng bị bịnh, tôi sẽ đáp, “Đừng lo, sư huynh. Đệ sẽ cùng huynh thiền định chừng nào huynh còn sống.” Sự sửa sai của Đạo Ngô cho câu đáp của ông tăng bị bịnh chỉ là hí luận. Vân Nham nên cười và chúc sư huynh ngủ ngon

Genro: Đạo Ngô mất hết trơn và Vân Nham được tất cả. Vân Nham nói, “Đệ sẽ gặp huynh,” còn Đạo Ngô thì nói, “Chúng ta chẳng cần thấy nhau chi hết.” Họ chẳng cần thấy nhau, do đó, họ gặp nhau. Họ gặp nhau bởi vì họ không cần thấy nhau.

 

 Tình bạn vượt thân sơ

 Gặp, không gặp chẳng khác.

 Mai già nở đầy hoa,

 Cành nam xuân trọn vẹn

 Cành bắc trọn vẹn xuân.

 

 

 

37. TUYẾT PHONG THÁNH TÍNH

 

Một ông tăng hỏi Tuyết Phong, “Có thể chạm thánh tính được chăng?” Tuyết Phong đáp, “Chỉ kẻ khờ chẳng thể chạm được.” Ông tăng lại hỏi, “Nếu y quên mình thì có thể chạm được chăng?” Tuyết Phong đáp, “Nếu y còn quan tâm thì chạm được.” Ông tăng hỏi tiếp, “Lúc ấy y thế nào?” Tuyết Phong đáp, “Con ong chẳng bao giờ trởlại cái tổ đã bỏ.”

 

Như Huyễn:  Có một công án minh họa câu chuyện này. Một học nhân hỏi thầy, “Thế nào là Thiền?” Sư đáp, “Thân.” “Thân” là chữ Hán có nghĩa là người thân như “cha, mẹ hay cái ta của một người,” khi dùng như một danh từ; khi được dùng như một tính từ nó có nghĩa là gần gũi nhất hay quen thuộc nhất; và khi dùng như một động từ, nó có nghĩa là thương yêu, luôn thấy nhau, biết rõ ràng, hay hiểu thấu suốt. Ông tăng trong câu chuyện này nhắm chạm thánh vật như một Sufi* nhìn người yêu dấu của mình. Ông tăng tiến gần chân lý một cách bình tĩnh với hai bàn tay trắng. Thái độ của ông tăng đủ ngây thơ, nhưng ông ta phải bước xuống khỏi cái tháp ngà của mình. Nhà tu khổ hạnh Sufi có thể cảm biết người yêu dấu, nhưng người Phật giáo chân chính tự biến mình thành thánh tính. Tuyết Phong đã chứng minh Thiền của sư bằng cách nói, “Con ong chẳng bao giờ trở lại cái tổ đã bỏ.” Giống như thái dương hệ xuyên qua bầu trời, tâm của một Thiền tăng cũng đi từ vĩnh cửu này sang vĩnh cửu khác mà không bám vào vật gì. Tâm lý học quan sát các hiện tượng tâm trí, và nhận thức luận bàn về lý thuyết nhận thức. Nhưng đây là chỉ là hình bóng của tâm, không phải chính cái tâm. Khi một người thấy chính cái tâm thì sự tìm kiếm của y liền chấm dứtLúc ấy y có thể “chạm thánh tính” mà không bị ràng buộc gì, quên tất cả ngôn từ và ngay cả sự vô ngã của y. Y trở thành “con ong trong cái tổ mới,” tự do tự tại. Sự sống của y là Thiền hay “Thân”.

 

 

 

38. RA ĐI VÀ TRỞ LẠI

 

Một ông tăng hỏi thầy, “Hòa thượng nghĩ sao về một ông tăng từ chùa ra đi và chẳng bao giờ trở lại?” Sư đáp, “Y là con lừa vô ơn.” Ông tăng lại hỏi, “Hòa thượng nghĩ sao về một ông tăng từ chùa ra đi nhưng lại trở lại?” Sư đáp, “Y nhớ đến lợi ích.”

 

Như Huyễn: Khi một tăng nhân bước vào một ngôi chùa, ông ta phát nguyện sẽ ở lại chùa cho đến khi đạt ngộ. Nếu ông ta bỏ chùa đi ra thì đã tự mình hoàn thành rồi, trong trương hợp này, ông ta không còn việc gì để ở lại chùa. Tuy nhiên, Thiền không có những người tốt nghiệp [như ở trường học!]. Nếu một Thiền tăng nghĩ rằng mình đạt một cái gì đó thì y đã đánh mất Thiền của mình, và y cần phải ở lại chùa.

 Sau nhiều năm ở đó, nếu y được một chùa nào khác mời dạy thì y có thể đi, nhưng y phải trở lại, như một luật lệ qui định. Những tăng nhân trẻ tuổi không chịu nổi sự nghiêm khắc của một Thiền sư, họ rời bỏ chùa. Họ là những con lừa vong ân, vì vậy mà không bao giờ trở lại với thầy cũ. Nếu một người nhận Pháp ở một ngôi chùa thì ông thầy trở thành người cha và ngôi chùa là nhà của y. Làm sao y có thể quên mọi sự vật chung quanh đã từng khởi hứng sự giác ngộ? Y luôn luôn nhớ đến ích lợitrở về nhà ngay khi có cơ hội đầu tiên.

 

Genro: Nếu có ai hỏi tôi, “Ông nghĩ thế nào về một ông tăng từ chùa ra đi mà không bao giờ trở lại?” Tôi sẽ nói, “Y là một thằng ngu.” Và câu hỏi, “Ông nghĩ gì về một ông tăng từ chùa ra đi và chỉ trở về?” Tôi sẽ đáp, “Y là một con cáo đang chạy trốn.”

 

Như Huyễn: Genro cho các tăng nhân tự do đến hay đi như ý họ muốn. Không một Thiền sư nào ép buộc các tăng nhân phải ở lại chùa mình, nhưng một ông tăng bỏ thầy này đến thầy khác thì thường là một kẻ ngu bởi vì y chìm ngập trong sự phán đoán thô bạo không công bình cho cả ông thầy và chính y

 Trong Thiền đường này, tôi không bao giờ quan tâm sự đến và đi của bất cứ người nào. Một người khách thường xuyên có thể nghĩ rằng y thuộc về chỗ này. Y nghĩ đúng, nhưng nếu y không đến nữa, tôi không nhớ nhung y. Một người lạ đến viếng ngôi nhà khiêm tốn này có thể cảm thấy nhờm tởm sự kỳ quái của sự vật chung quanh và không trở lại nữa. Tôi tôn trọng quan niệm của y, như y không thể bỏ tôi đi bởi vì lời nguyện của tôi là độ tất cả chúng sanh, kể cả y. Nếu có ai hỏi, “Ông nghĩ thế nào về một người bạn không đến đây nữa?” Tôi sẽ trả lời, “Tôi sẽ gặp anh ta trên đường phố.” Và đối với câu hỏi, “Ông nghĩ thế nào về một người bạn trở lại chỗ này?” Tôi đáp, “Tôi sẽ nói, ‘Anh mạnh giỏi không? Gặp anh tôi vui lắm.”

 

 

 

39. BA LẦN GỌI

 

Quốc sư Huệ Trung, là thầy của hoàng đế Trung hoa, gọi thị giả, “Ứng Chơn!” Ứng Chơn đáp, “Dạ.” Để trắc nghiệm đệ tử, Quốc sư lại gọi, “Ứng Chơn!” Ứng Chơn đáp, “Dạ.” Rồi Quốc sư gọi lần thứ ba, “Ứng Chơn!” Ứng Chơn lại, “Dạ.” Quốc sư nói, “Ta nên xin lỗi con về chuyện gọi con, nhưng thực ra con nên xin lỗi ta.”

 

Như Huyễn: Quốc sư Huệ Trung đã ở ẩn trên núi bốn chục năm, dấu mình khỏi thế gian, nhưng cuối cùng bị hoàng đế khám phá và bắt phải có học trò đội mũ vua. Vào lúc câu chuyện dật sử này xảy ra, sư đã hơn trăm tuổi và đồ đệ, Ứng Chơn, là một Thiền tăng đã được rèn luyện kỹ lưỡng, vẫn còn trẻ, nhưng có thể thọ nhận đèn Pháp từ thầy. Khi sư gọi, “Ứng Chơn!” và Ứng Chơn đáp, “Dạ,” thì cuộc đối thoại Thiền đã xong. Quốc sư Huệ Trung là một lão nhân và muốn biết chắc sự thành tựu của đệ tử. Ứng Chơn hiểu điều này đã kiên nhẫn trả lời. Ông ta đang mong lời bình phẩm của thầy và sung sướng được nghe. Thật là một bức tranh đẹp của hiểu biết và hài hòa.

 

Genro: Ông thầy già đủ từ tâm và chú học trò trẻ cũng vô ngãphục vụ. Tại sao phải xin lỗi? Bởi vì nhân sự chẳng có gì chắc chắn. Người ta không nên đặt mình vào một khuôn mẫu đời sống nào cả nếu như muốn sống tự do

 

 Như Huyễn: Khi một Thiền sư gọi tên đệ tử, có nghĩa là ông ta muốn gõ cánh cửa bên trong Phật tánh của người đệ tử. Nếu ông thầy có chuyện trao đổi với người đệ tử, thì ông ta sẽ chẳng gọi lần thứ nhì. Trong Thiền, thầy cũng như trò chẳng ai lãng phí thì giờ, vật liệu, lời nói, ý nghĩ hay năng lực.

 

 

 

40. KHE SUỐI KHÔ

 

Một ông tăng hỏi Thuyết Phong, “Khi khe nước Thiền xưa khô không còn giọt nào thì con có thể thấy cái gì ở đó?” Tuyết Phong đáp, “Có nước không đáy ông không thể thấy được.” Ông tăng lại hỏi, “Làm sao có thể uống được nước đó?” Tuyết Phong đáp, “Y sẽ không dùng miệng mà uống.”

 Sau đó, ông tăng đến Triệu Châu và kể lại cuộc đối thoại trên. Triệu Châu nói, “Nếu y chẳng uống được bằng miệng thì cũng chẳng uống được bằng mũi.” Lúc ấy ông tăng lặp lại câu hỏi đầu tiên, “Khi khe nước Thiền xưa khô không còn giọt nào thì con có thể thấy cái gì ở đó?” Triệu Châu đáp, “Nước ấy đắng như khổ qua.” Ông tăng hỏi, “Nhỡ có người uống phải thì sao?” Triệu Châu nói, “Y tất mất mạng.”

 Khi Tuyết Phong nghe được cuộc đối thoại này liền hướng về Triệu Châu lễ bái và nói, “Triệu Châu là ông Phật sống, từ đây tôi không thể đáp các câu hỏi trong thiên hạ được nữa.” Từ đó về sau, hễ có người mới đến Tuyết Phong liền gửi đến Triệu Châu

 

Như Huyễn: Bao lâu còn có chút dấu vết Thiền, thì khe suối ấy chưa thật khô. Mỗi người đến đây mang theo chút màu sắc đặc biệt của mình thêm vào dòng suối. Khi Triệu Châu dùng chữ “mất mạng”, sư muốn nói là mất cái ta và nhập Niết bàn. Một người cố gắng trở thành thánh nhân phải vượt qua nhiều gian khó, và ngay đến lúc cuối cùng y cũng phải làm dịu nỗi khát của mình bằng cay đắng. Nếu quí vị không quan tâm đến những chướng ngại này, tôi nói, “Hãy đến với nó.”

 

 

 

41. ĐỘNG SƠN BA TẠNG

 

Thiền sư Động Sơn nói, “Toàn bộ Ba Tạng kinh điển của Phật giáo có thể diễn tả bằng một chữ này.”

Bạch Vân, một Thiền sư khác, minh họa câu nói của Động Sơn bằng một bài thơ:

 

Chữ này nét nét rõ,

Nhưng chẳng có lý do.

Bao lần Phật cố gắng

Viết nó mà chẳng thành.

Cứ trao cho ông Vương,

Là người viết chữ đẹp,

Với bàn tay khéo léo,

Mong muốn ắt hoàn thành.

 

Như Huyễn: Ba tạng có nghĩa là “Ba cái giỏ”, tiếng Phạn là Tripitaka, gồm có Tạng Kinh (Sutra-pitaka), hay các kinh điển, Tạng Luật (Vinaya-pitaka) gồm các giới luật và sự điều hành tăng già, và Tạng Luận (Abhidharma-pitaka), những luận giải về các giáo lý. Vào thời của công án này có năm ngàn bốn mươi tám (5048) quyển gồm tất cả các bản văn mà Động Sơn nói có thể diễn tả trong một chữ. Chữ này là chữ gì ? Đừng để ý đến bài thơ của Bạch Vân. Nếu sư có ý chế nhạo thì đó chỉ là một chuyện khôi hài dở ẹt về chính sư.

 

 

 

42. NÚI NAM

 

 Thạch Sương sống trên núi Nam và Quán Khê sống trên núi Bắc. Một hôm một ông tăng từ chùa Bắc đến chùa Nam, và Thạch Sương bảo ông, “Chùa Nam của tôi không phải là thượng đẳng so với chùa ở phương bắc.” Ông tăng không biết nói gì, vì thế im lặng. Khi ông ta trở về với Quán Khê và kể lại những gì Thạch Sương đã nói. Quán Khê nói, “Ông nên nói với ông ấy rằng bất cứ ngày nào tôi cũng sẵn sàng nhập niết bàn.”

 

Như Huyễn: Ông tăng này mang ý nghĩ so sánh khi ông đi viếng hết chùa này đến chùa khác. Thạch Sương đọc được điều này trên mặt ông ta nên cố gắng điều chỉnh ý nghĩ đó, nhưng ông tăng bối rốiim lặng - một sự im lặng không dính dáng gì đến Thiền. Trở về chùa cũ, ông thầy hiền từ đã không trách mắng ông ta, thay vào đó, cố gắng chỉ cái nhất thể không có sự so sánhCon người tham cầu sinh ra đau khổđau khổ sinh ra tham cầu một cái gì khác nữa; như thế y không bao giờ thoát khỏi sanh tử, sự bất an của cuộc sống thế gianNiết bàn diệt đau khổ bằng các tiêu diệt tham cầu. Cả hai ông thầy đều biểu hiện sự tịch tĩnhChúng ta phải luôn luôn cảnh giác đối những người mang ý nghĩ so sánh và lang thang từ cuộc hội họp này sang cuộc hội họp khác. Ở đấy chẳng có lợi ích gì cho bất cứ ai.

 

 

 

43. ĐẠO LÝ TỐI HẬU CỦA THIỀN

 

 Một ông tăng hỏi Huyền Sa, “Khi các sư xưa giảng Pháp không lời bằng cái chùy hay cây phất tử, thì các ngài có chỉ bày đạo lý tối hậu của Thiền không?” Huyền Sa đáp, “Không.” Ông tăng hỏi tiếp, “Vậy lúc ấy các ngài chỉ bày cái gì ?” Huyền Sa giơ cây phất tử lên. Ông tăng hỏi, “Thế nào là đạo lý tối hậu của Thiền?” Huyền Sa đáp, “Đợi đến khi ông ngộ đã.”

 

Như Huyễn: Ông tăng này giống như những người khác, bám vào thành kiến của mình như là giải pháp khả hữu duy nhấtHuyền Sa đã tìm cách thay đổi ý nghĩ này khi sư nói, “Không.” Ông tăng vẫn không thể giải thoát mình khỏi quan niệm cứng ngắt này dù với lời chỉ dạy sống động ở ngay trước mặt. Khi hỏi về đạo lý tối hậu của Thiền, ông ta giống như người đang đứng trước tòa thị sảnh mà hỏi thành phố ở chỗ nào. Huyền Sa bỏ cuộc và nói, “Đợi đến khi ông ngộ đã.”

 

Genro: Nếu tôi là Huyền Sa, tôi đã ném cây phất tử đi thay vì nói một câu nhạt nhẽo như vậy. 

 

Fugai: Lời của thầy tôi [Genro] có thể giúp Huyền Sa, nhưng tiếc thay ông đã dùng dao mổ trâu để chặt gà.

 

 

 

44. NAM TUYỀN CHẲNG NHẬN

CẢ TĂNG LẪN TỤC

 

Một ông tăng đến Nam Tuyền, đứng ngay trước sư, với hai tay trước ngực. Nam Tuyền nói, “Ông cư sĩ quá.” Rồi ông tăng chắp hai tay lại. Nam tuyền nói, “Ông tăng nhân quá.” Ông tăng không nói được tiếng nào. Một sư khác nghe được chuyện này, nói với tăng chúng của mình, “Nếu tôi là ông tăng, tôi sẽ buông hai tay tự do và bước lùi đi ra.”

 

Như Huyễn:  Khi ông tăng đến để tham thiền, có nghĩa là ông ta muốn bày tỏ sự tự do tự tại của mình bằng cách không thích hợp với các qui củ vào ra Thiền đường, nhưng câu nói đầu tiên của Nam Tuyền làm ông ta nao núng và ông ta đã thay đổi thái độ. Như vậy, ông ta tự do ở chỗ nào? Thế gian đầy những người “thái quá” loại này hay loại kia, và có những người nghĩ rằng bằng cách đập phá ngẫu tượng là họ biểu hiện sự tự do. Tất cả những người ấy đều bị trói buộc. Một người tự do không phô bày sự tự do của mình. Người ấy tự do, vì vậyvượt qua hầu hết không bị chú ý. Vì y không bám vào cái gì cả, qui củ và sự điều hành không bao giờ làm phiền y. Y có thể cúi đầu lễ bái hay bước lùi ra sau, chẳng gì khác biệt.

 

Genro: Nếu tôi là Nam Tuyền, tôi sẽ nói với ông tăng, “Ông kẻ ngốc quá,” và với ông thầy nói rằng buông thả hai tay bước lùi ra, tôi sẽ nói “Hòa thượng người điên qúa.” Chân giải thoát chẳng có vật để nắm giữ, chẳng có màu sắc để thấy, chẳng có âm thanh để nghe.

 

 Kẻ thực sự tự do

Trong tay không một vật,

 Chẳng có kế hoạch gì,

Chỉ phản ứng tùy theo

Hành động của kẻ khác.

Tài thay sư Nam Tuyền

Làm lỏng được cái nút

Dây thừng của ông tăng.

 

Như Huyễn: Silas Hubbard có lần đã nói, “Khi tôi trở thành người già, tôi đơn giản hóa cả khoa học và tôn giáo của tôi. Đối với tôi sách trở nên ít ý nghĩa hơn; cầu nguyện trở nên ít ý nghiã hơn; thuốc nước, thuốc viên và cần sa ma túy trở nên ít ý nghiã hơn; nhưng sự bình yên, tình bạn, tình thươngmột đời sống hữu dụng có ý nghĩa hơn... hơn một cách vô cùng.”

 Ở đây chúng ta thấy một người Mỹ học Thiền một cách tự nhiên vào tuổi già. Nhưng tại sao người ta phải chờ đến khi già? Nhiều người không biết cách nào làm cho mình tự do với khoa học và tôn giáo. Họ càng học khoa học thì họ càng chế tạo năng lực hủy diệt. Tôn giáo của họ chỉ là chiếc áo khoác bên ngoài quá nặng nề khi họ bước đi trong gió xuân êm nhẹ. Sách là gánh nặng đối với họ và cầu nguyện chỉ là lời xin tha thứ đẹp đẽ. Họ tiêu thụ thuốc nước, thuốc viên, cần sa ma túy, nhưng họ không làm giảm được sự bịnh hoạn thể xác và tâm trí. Nếu thực sự họ muốn bình yên, tình bạn, tình thươngmột đời sống hữu dụng thì họ phải làm trống tất cả những cái túi quí hóa chứa bụi và ảo tưởng để nhận ra tinh thần tự do, lý tưởng của đất nước này. 



* . . . Thị dĩ, thánh nhân xử vô vi chi sự, hành bất ngôn chi giáo. Vạn vật tác yên nhi bất từ, sanh nhi bất hữu, vi nhi bất thị. Công thành nhi phất cư, phù duy phất cư, thị dĩ bất khứ. Đạo Đức kinh, Ch. II. (Người dịch).

* Sufi là danh từ gọi các tu sĩ khổ hạnh và ẩn tu theo một trong các giáo phái của Hồi giáo. Một số giáo lý của tông phái này chịu ảnh hưởng từ các tôn giáo khác như Phật giáo, Ky-tô giáo... và chủ yếu là Hồi giáo, qui kết ở một vị thần tối cao duy nhấtThượng đế hay đấng A-la. Các Sufi có liên hệ chặt chẽ với các tu sĩ huyền bí Dervish hay fakir. (Người dịch).

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14424)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14138)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39695)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15304)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13876)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13916)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37312)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40045)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14633)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14308)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12649)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14819)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19205)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13789)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42607)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13822)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37230)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12660)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11746)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22530)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12506)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12568)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13045)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13104)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17255)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33223)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14827)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11044)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12448)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11948)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11929)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13125)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51244)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12376)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6606)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30400)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13117)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13307)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30665)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19342)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12472)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11839)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14755)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13188)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13184)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30664)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12023)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11820)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12712)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31885)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29401)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11777)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11732)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10408)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11544)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9633)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9644)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9966)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35388)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10137)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10090)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10036)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9639)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27789)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15471)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9829)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13659)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9828)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9686)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18305)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12040)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9565)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9678)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8698)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8904)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8406)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11473)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31716)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12327)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13311)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8817)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9430)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11929)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9215)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9069)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9653)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29338)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9064)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9085)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33219)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8419)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30588)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31207)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37095)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32238)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9912)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27083)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8440)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19222)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 12998)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant