Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Công Án 60-74

14 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 8065)
Công Án 60-74

THIÊN KHI NHƯ HUYỄN bình
ĐỖ ĐÌNH ĐỒNG dịch
TIẾNG SÁO THÉP
(100 CÔNG ÁN THIỀN)

60. CÁI GỐI GỖ

 

Một hôm ở chùa Nam Tuyền, ông tăng đầu bếp làm trò vui cho ông tăng làm vườn. Trong lúc đang ăn, họ nghe tiếng chim hót. Ông tăng làm vườn gõ ngón tay lên cái gối gỗ, thì con chim lại hót. Ông tăng làm vườn gõ cái gối gỗ trở lại, thì con chim không hót nữa. Ông tăng làm vườn hỏi, “Huynh hiểu không?” Ông tăng đầu bếp đáp, “Không, tôi không hiểu.” Ông tăng kia đánh vào cái gối gỗ lần thứ ba.

 

Như Huyễn: Trong một ngôi chùa thì ông tăng làm vườn trồng rau cho ông tăng đầu bếp nấu, và họ thân mậtthân hữu một cách tự nhiên. Con chim hót vì thiên nhiên gây hứng thú cho nó hót. Ông tăng làm vườn biết cách đi vào tâm trạng của những người ở núi này; như vậy cái gõ đầu tiên của ông ta đem lại tiếng hót. Nhưng khi ông ta gõ lần thứ hai thì con chim đã bay mất rồi. Ông tăng đầu bếp sống trong dục giới; ông ta phải nghĩ đến miệng và dạ dày của những tăng nhân khác. Khi ông tăng làm vườn gõ lần thứ ba, là đem tin tức từ thiên nhiên đến, vẫn còn có đôi tai điếc về mặt tâm linh

 

Genro: Chim hót một cách tự nhiên; ông tăng làm vườn gõ cái gối một cách ngây thơ. Tất cả chỉ thế thôi. Tại sao ông tăng đầu bếp không hiểu? Bởi vì trong tâm ông ta có điều gì đó.

 

 

 

61. VÂN MÔN QUẢ THÁNH

 

Có lần Vân Môn sống trong một cái am nhỏ gọi là “Thánh Quả Am.” Một sáng nọ, một viên chức nhà nước đến viếng sư và hỏi, “Các quả thánh của thầy bây giờ đã thật chín chưa?” Vân Môn đáp, “Không một quả nào từng có ai gọi là xanh.”

 

Như Huyễn: Phải mất ba năm mới thấy quả đầu tiên của cây đào và tám năm với cây hồng. Cây nào gọi là “thánh” thì phải được trồng trong vườn chùa. Viên chức nhà nước Trung hoa này đã biết rằng tên các cây duy để chỉ quả trí và muốn thấy Thiền của Vân Môn hiện thực lúc đó. Ông ta không muốn đợi đến ba năm hay tám năm. Ông ta cũng không muốn lảng vảng trong ký ức về Cổ Phật. Lời đáp của Vân Môn đã cho thấy quả của Thiền. Cái biết của nhận thứcthể đạt được một cách dần dần như người ta nhìn nó từ màu xanh biến thành màu đỏ, nhưng sự giác ngộ Thiền đến với hình dáng trưởng thành và màu sắc thuần thục.

 

Genro: Thiền của ông ta chưa chín. Lời nói vô vị.

 

Fugai: Tôi yêu quả xanh đó.

 

Như Huyễn: Thiền đường này, theo danh từ, phải có thứ Thiền nào đó. Khi có ai hỏi quí vị ông được loại Thiền gì ở đây, quí vị trả lời câu hỏi này như thế nào? Chúng ta không mang theo Thiền của chúng ta khi dọn vào chỗ trú này. Chúng ta không bỏ lại Thiền của chúng ta ở chỗ trú trước kia. Chúng ta không chia nó với nhau, mỗi người đút vào túi mình một miếng. Khi chúng ta bật đèn lên và thắp nhang, thì Thiền của chúng lóe lên đầy phòng từ sàn đến trần và thấm nhuần khắp các góc. Hãy tỏ sự kính trọng đối với người hỏi hay bắt tay người ấy. Bất chấp là câu hỏi đó trí tuệ hay ngu xuẩn. Người ấy cũng có thứ Thiền không ai gọi là xanh.

 

Genro: Cây thánh không rễ

 Mà mang quả thánh.

 Có bao nhiêu vậy?

 Một, hai, ba . . .

 Quả thì không đỏ;

 Quả cũng không xanh.

 Tự ra tay lấy;

 Quả cứng như sắt.

 Khi viên chức kia

Cố ra sức cắn

 Quả của Vân Môn

Ở trong Am Thánh,

 Y mất hết răng

Ở trong quả ấy.

 Y không biết nó

Lớn đủ để che

 Cả đất lẫn trời.

 Tất cả chúng sanh

Trọn chứa trong đó.

62. NAM TUYỀN AM NHỎ

 

Một hôm, khi Nam Tuyền đang ở trong một cái am nhỏ trên núi, một ông tăng lạ mặt đến viếng lúc sư đang chuẩn bị ra rẫy làm việc. Nam Tuyên mời đón ông tăng, “Xin hãy tự nhiên. Cứ nấu bất cứ thứ gì huynh thích để ăn trưa. Rồi mang cho tôi thức ăn còn lại, đi theo con đường chỉ đi tới chỗ tôi làm.” Nam Tuyền làm việc cực nhọc cho đến chiều rồi trở về am, bụng rất đói. Ông tăng lạ đã nấu xong, thưởng thức bữa ăn một mình, vất hết thức ăn còn lại và đập bể tất cả nồi niêu. Nam Tuyền thấy ông tăng ngủ yên lành trong am trống, nhưng khi sư nằm sải tấm thân mệt nhọc bên cạnh người khách lạ, thì y chổi dậy và đi mất. Mấy năm sau, Nam Tuyền kể lại câu chuyện dật sử này cho tăng chúng nghe với lời bình rằng, “Y là một ông tăng tốt, ngay cả bây giờ tôi vẫn nhớ y.”

 

 Như Huyễn: Chắc chắn Nam Tuyền đã sống thích thú với cô tịch, hình thành thứ Thiền riêng của sư. Ông tăng lạ mặt muốn sư tự do tự tại với tất cả các hình thức quan niệm, nhưng biết rằng tranh luận sẽ không bao giờ thuyết phục được Nam Tuyền. Nam Tuyền nhận thức được những gì ông tăng lạ mặt cố gắng chỉ bày cho sư, vì thế nằm xuống ngủ trong am trống, nhưng cái trống không này không phải là nhà thật cho Thiền tăng. Ông tăng lạ mặt kia ra đi để lại Nam Tuyền trong thế giới mới của sáng tạo.

 Thiền đoạt lấy thức ăn của người đói, đoạt lấy kiếm của chiến sĩ. Bất cứ thứ gì mà một người tự ràng buộc mình vào đó nhiều nhất là nguyên nhân đích thực của đau khổ. Ông tăng lạ mặt không muốn cho Nam Tuyền thứ gì hết trừ sự giải thoát. Sau này, khi Nam Tuyền nói cho tăng chúng biết sư nhớ cái tên ăn cắp vặt ngày xưa như thế nào, sư đã sống thích thú với sự giải thoát chân thực với lòng biết ơn mãi mãi đối với vị thầy vô danh này. 

 

 

 

63. DƯỢC SƠN THUYẾT PHÁP

 

Một thời gian qua, không thấy Dược Sơn nói pháp cho tăng chúng, cuối cùng ông tăng thủ tọa đến nói với sư, “Tăng chúng nhớ hòa thượng nói pháp.” Dược Sơn bảo, “Vậy thì đánh chuông đi.” Khi tất cả tăng chúng tụ tập trong pháp đường, Dược Sơn liền trở về phòng không nói một lời. Ông tăng thủ tọa đi theo sư, nói, “Hòa thượng bảo sẽ nói pháp. Sao chẳng nói?” Dược Sơn đáp, “Kinh có pháp sư giảng, luận có luận sư nói. Tại sao còn phiền đến lão tăng này?” 

 

Như Huyễn:  Một Thiền sưthí dụ cụ thể cho những gì kinh điển dạy, luận là lời giải thích về kinh. Nếu một người có thể sống như Phật đã dạy, thì kinh và luận không còn ý nghĩa gì đối với y. Dược Sơn đã nói pháp cho những người mới bắt đầu - ngón tay chỉ mặt trăng - nhưng từ sáng đến tối và từ tối đến sáng, cách sống của sư đã là một bài pháp thường xuyên cho tăng chúng. Bài pháp này là bài pháp chân thực. Nếu có tăng nhân nào bỏ qua, không nhìn thấy bài pháp không lời này thì y không đáng học Thiền. Ông tăng thủ tọa đáng nhận ba chục hèo.

 Khi Đức Sơn ngộ được đạo lý Thiền, sư lập tức đem tất cả bộ sớ sao về kinh Kim Cương mà sư đã có thời gian coi là vô giá và bất khả ly thân, ném vào lửa. Khi chúng cháy thành tro, sư nói, “Dù cho tri thức về triết lý tuyệt đối của ông thâm sâu bao nhiêu thì cũng chỉ như mảnh lông đặt trong hư không mênh mông; và dù cho kinh nghiệm thế gian của ông quan trọng đến đâu thì cũng chỉ như giọt nước ném vào hố thẳm không đáy.”

 Hồng Xuyên Tông Ôn, là thầy của Thích Tông Diễn, đã nói, “Dù cho một triệu quyển kinh cũng chỉ là ánh sáng của ngọn đèn cầy so với mặt trời khi ông so sánh chúng với kinh nghiệm ngộ thực tế.” Tôi không có ý làm quí vị chán nản việc học Phật giáo qua sách vở. Tây phương ngày nay cần có pháp sưluận sư. Nó cũng cần một cách cấp thiết người tu Thiền thường xuyên như Dược Sơn.

 

Genro: Thiền của Dược Sơn

 Giống như trăng rằm.

 Ánh sáng bàng bạc,

 Xuyên thấu ngàn dặm.

 Kẻ ngu bịt mắt,

 Không thấy đạo Thiền.

 Tiếng chuông gọi chúng,

 Thầy già về hưu.

 Một bức tranh Thiền

 Thật đẹp làm sao!

 Một bài pháp Thiền

 Thâm sâu vi diệu!

 

 

 

64. CẢNH THANH GẬY TO

 

Cảnh Thanh hỏi một ông tăng mới, từ đâu đến. Ông tăng đáp, “Từ Tam sơn đến.” Rồi Cảnh Thanh hỏi, “Mùa an cư vừa rồi ở đâu?” Ông tăng đáp, “Ở Ngũ nhạc.” Cảnh Thanh nói, “Tôi sẽ đánh ông ba chục gậy bự này.” Ông tăng hỏi, “Tại sao con đáng ăn gậy của hòa thượng?” Cảnh Thanh đáp, “Tại vì ông bỏ chùa này tới chùa kia.”

 

Như Huyễn: Khi một tăng nhân mới đến chùa gặp thầy, ông ta thường được hỏi là ông từ đâu đến. Ông tăng trong câu chuyện này nghĩ rằng không cần thiết phải thông báo tin tức này vì nó là chuyện riêng của ông ta. Ông ta đáp, “Tam sơn”, “Ngũ nhạc” là nói bừa, chẳng phải địa danh. Một tăng nhân phải ở lại chùa từ ngày 15 tháng tư đến ngày 15 tháng bảy, để an cư thiền định. Từ 15 tháng bảy đến 15 tháng mười, ông ta được hành cước tự do theo ý muốn và tự chọn bất cứ một ngôi chùa nào ông thích để cho mùa an cư kế tiếp từ 15 tháng mười đến 15 tháng giêng năm sau. Rồi từ 15 tháng tư trở đi ông ta lại được tự do đến, đi tùy ý.

 Ông tăng này là người lương thiện, chắc chắn tuân theo giới luật. Ông ta nghĩ mình tự do lang thang theo sở thích chừng nào còn hợp giới luật, mà rốt cùng, ông ta là tăng nhân, không phải là một tên la cà vất vưởng. Tên của chúng ta chỉ là để nhận diện với nhau, nhưng khi một người tự đặt cho cái tên nào đó, y trở thành gắn chặt với nó. Một người không có tên, cũng như một chỗ không có tên, sẽ không hiện hữu khi đưa vào so sánh. Không phải ông tăng này đang bám vào sự tự do tưởng tượng hay sao? Mặc dù giáo lý của sư nhằm đạt sự giải thoát tuyệt đối, Bồ- đề-đạt-ma rất nghiêm khắc trong việc quản lý các đệ tử.

 

 

 

 

 

 

65. VẬT KỲ DIỆU NHẤT

 

Một ông tăng đến hỏi Bách Trượng, “Vật gì kỳ diệu nhất thế gian?” Bách Trượng đáp, “Tôi ngồi trên đỉnh núi này.” Ông tăng chắp tay lễ bái. Ngay lúc đó Bách Trượng đánh ông tăng một gậy. 

 

Như Huyễn: Ông tăng đến Bách Trượng mong được nghe một lời dạy phi thường hay được chứng kiến một hiện tượng phép lạ, nhưng Bách Trượng tiếp ông ta trong một căn phòng trống với quan cảnh bình thường, “Tôi ngồi trên đỉnh núi này.” Đây không phải là vật kỳ diệu nhất trên thế gian sao? Trong Chứng Đạo Ca, đại sư Vĩnh Gia nói, “Khi vào thế giới vô sắc sẽ cùng Như Lai thấy nhau.” Ông tăng chắp tay lễ bái ông Phật sống, nhưng ngay lúc ấy Bách Trượng đánh ông ta một gậy để đánh tan hình ảnh ấy.

 Từ đỉnh núi đến lời nói, “Kẻ vô minh chấp chứa những ý nghĩ dừng và không dừng, trong khi người giác ngộ chẳng có thích hay không thích. Tất cả mọi hình thức là do kẻ vô minh tự bày ra. Chúng giống như cái thấy hoa đốm trong hư không. Tại sao chúng tự gánh lấy phiền não mà chấp giữ chúng? Được và mất, đúng và sai; tất cả những cái đó, hãy một lần buông sạch.” Mừng cho quí vị! 

 

 

 

66. ĐẠO NGÔ ĐẠO LÝ THÂM SÂU

 

Đạo Ngô đang thiền định trên tòa cao thì một ông tăng đến hỏi, “Thế nào là đạo lý thâm sâu vĩ đại nhất?” Đạo Ngô liền bước xuống tòa, quì trên sàn và nói,“Ông từ xa đến đây, nhưng xin lỗi, tôi không có gì để đáp ông.”

 

Genro: Coi kìa, sư huynh! Huynh đang tự dìm mình trong biển sâu.

 

Như Huyễn:  Vâng, đúng vậy. Ông tăng này không nhận ra mình đang trong nguy hiểm, dù cho ông ta sắp chết đuối. Toàn bộ không khí ngôi chùa của Đạo Ngô là độ sâu vĩ đại nhất của Thiền, nhưng ông tăng đã phát biểu nó như là một vật ở tận nơi nào. Tại sao ông ta không tham gia thiền định cùng với những người khác? Đầu tiên ông ta có thể không thấy gì cả, nhưng dần dần đám mù mê hoặc sẽ tan đi trong hơi ấm mặt trời. Ông thầy rất từ bi, nhưng vì giáo lý không cao cũng không thấp, không có bề mặt cũng không có đáy, không có gì để cho ông xem.

 

Genro: Tôi sẽ nói rằng Đạo Ngô chắc chắnđạo lý thâm sâu vĩ đại trong Thiền của sư.

 

Fugai: Tôi phải nói rằng thầy tôi biết chiều sâu Thiền của Đạo Ngô.

 

Như Huyễn: Lời tán gẫu trong gia đình như thế khiến tôi hổ thẹn! Ước gì ngay từ đầu không ai nói tiếng nào.

 

Genro: Biển sâu vĩ đại!

 Bốn hướng không biên

 Đạo Ngô bước xuống

 Từ trên tòa cao,

 Không có độ sâu . . .

 Cũng không có nước.

 

Fugai: Bên kia lớn nhỏ;

 Bên trên nông sâu

 Tôi sợ thầy yêu

 Nguy hiểm vì chìm

 Bởi tim ông lớn

 Yêu khắp chúng sanh.

 

 

 

67. CÀN PHONG LUÂN HỒI

 

Can Phong hỏi,“Những người luân hồi trong năm giới có loại mắt gì?”

 

Như Huyễn:  Trong Tọa Thiền Hòa Tán, Bạch Ẩn nói, “Lý do chúng ta luân hồi trong năm giới là vì chúng ta bị lạc mất trong vô minh.” Vốn ở Ấn độ năm giới được xếp loại như là những giai đoạn tâm lý, nhưng trong các bản dịch của Trung hoa vào các thời kỳ sớm nhất đã nhầm những danh từ tiêu biểu cho những cá nhân sống trong năm thế giới khác nhau. Một cách vắn tắt, năm giới là: Manusya, hoàn cảnh bình thường của tâm, giai đoạn của người; Asurya, khi chúng ta mất thăng bằng trong tình cảm và ham muốn; Tiryagyoni, tâm thú vật, khi năng lực lý trí biến mất và năm giác quan ngự trị; Preta, quỉ đói; Naraka, quỉ khổ. Càn Phong hỏi tăng chúng câu này là nỗ lực tiêu diệt mê hoặc của họ.

 

 Fugai: Những người không luân hồi trong năm giới có loại mắt gì?

 

Như Huyễn: Một người có thể có nụ cười đáng yêu vào buổi sáng và bộ mặt giận giữ vào buổi chiều, là y đi từ thế giới người đến thế giới súc sinh trong một ngày. Mắt của y đầy tử tế vào buổi sáng và đầy oán ghét vào buổi chiều. Nhưng Thiền không bàn đến loại mắt này. Meister Eckhart nói, “Tôi thấy Thượng đế với con mắt nào thì Thượng đế thấy tôi với con mắt ấy.” Quí vị sẽ nói, “Vậy thì, phải có hai loại mắt.” Không! Không! Dù Quan Thế Âm ngàn mắt cũng chỉ có một mắt chánh. Kẻ vô minh bị mê hoặc lừa, còn thánh nhân biết làm thế nào vào các các giai đoạn để độ chúng sinh thoát khổ. Một Bồ-tát sẽ không sợ hãi khi đi qua bãi chiến trường hay tay nắm tay cùng bước với quỉ đói ở tận đáy của thế giới quỉ khổ. 

 

 Genro: Thế giới là vườn tôi.

 Chim hát bài hát tôi;

 Gió thổi là hơi thở tôi;

 Khỉ múa điệu múa tôi;

 Cá bơi là tự do của tôi.

 Trăng chiều đang phản chiếu

 Trên một ngàn cái hồ

 Nhưng khi bị núi che

 Tất cả ảnh đều mất

 Bóng không còn trên nước.

 Tôi yêu từng đóa hoa xuân

 Từng chiếc lá thu vàng.

 Mừng luân hồi vui vẻ!

 

 

 

 

 

 

68. VÂN MÔN BA NGÀY

 

Một hôm Vân Môn nói với tăng chúng, “Có câu nói rằng, ‘Ba ngày có thể làm một người đổi khác.’ Còn các ông thế nào?” Trước khi người ta có thể trả lời, sư lặng lẽ nói, “Một ngàn.”

 

Như Huyễn: Câu nói này rất phổ biến trong giới văn học Trung hoa từ thế kỷ thứ ba sau Tây lịch, phát xuất từ câu chuyện một vị tướng quân có một người phụ tá ngu nhất xứ. Có lần vị tướng quân đề nghị người ngu kia đọc thêm sách. Không bao lâu sau đó vị tướng quân có công việc phải đi vắng, và khi trở về ông ta thấy rằng người phụ tá của mình không còn ngu nữa, với quan niệm thay đổi và tin tức nhiều hơn đã có được trong lúc xa nhau. Vị tướng quân rất hài lòngca ngợi người phụ tá, “Ba ngày có thể làm một người đổi khác.”

Ignacy Paferewshi có lần nhận xét, “Nếu tôi không thực hành một ngày, tôi có thể nói ra sự đổi khác; nếu tôi không thực hành hai ngày, người phê bình của tôi có thể nói ra sự đổi khác; nếu tôi không thực hành ba ngày, mọi người có thể nói ra sự đổi khác.” 

Số ngày không dính dáng gì với công án. Vào lúc đó một số tăng nhân dưới Vân Môn có thể hãnh diện về sự tiến nhanh của họ trong Thiền trong thời gian an cư và một số khác có thể hổ thẹnsự thiền định chậm tiến của họ bất chấp số năm họ đã ở với Vân Môn. Khi Vân Môn nói, “Một ngàn,” sư cũng không viện dẫn thời gian hay con số. Sư là một học giả Hoa Nghiêm dựa vào triết lý cho rằng một phút chứa trọn một ngàn năm và một ngàn năm chỉ là một phút. Câu trả lời của sư có tính cách chỉ dạy hơn khuyến khích.

 

Fugai: Nếu tôi có ở đó, tôi sẽ tát vào má Vân Môn một cái. Chẳng phải ba ngày mà mọi hơi hít vàothở ra đều có thể thay đổi một người. (Rồi, sau cái “Một ngàn” của Vân Môn) Vân Môn vẫn có cùng bộ mặt xưa.

 

Như Huyễn: Lúc ấy nếu có tôi ở đó, tôi có thể đứng lên cúi đầu lễ bái Vân Mônchúc thọ lão sư vạn sự như ý.

 

Genro: Vân Môn mở cửa hàng tự mua tự bán, như vậy chẳng lời chẳng lỗ. Không trả giá được cái “Một ngàn” của sư. Tôi thà nói, “Vào thời của sư thì được còn như ngày nay thì chẳng được.” Ông không thể thấy ba ngày thay đổi một người sao?

 

Như Huyễn: Một thầy giáo dạy học luôn luôn đón mừng các học trò cũ đã trở thành học giả vĩ đại hay thương gia giàu có. Ngay từ đầu ông thầy đã biết học trò không phải là kẻ địch, mà sau này họ có thể cho ông uy tín vì phần của ông huấn luyện họ. Các Thiền sư - những người có thể có khuynh hướng làm mất uy tín các đồng nghiệp xưa trong các ngôi chùa cũ - nên tham đi tham lại công án này.

 

 

 

69. QUAN THƯỢNG THƯ

 

Thượng thư Trần Tháo đi lên cầu thang với những người trong ban tham mưu của ông. Khi thấy một nhóm tăng nhân đi ngang qua dưới đường lộ, một trong các quan thuộc hạ hỏi, “Họ có phải là tăng nhân hành cước không?” Trần Tháo đáp, “Không.” Viên chức ấy hỏi, “Làm sao đại nhân biết họ không phải là tăng hành cước?” “Để khám nghiệm xem,” Trần Tháo đáp xong liền kêu to, “Này! chư tăng!” Nghe tiếng gọi, tất cả nhìn lên cửa sổ. Trần Tháo nói, “Đó! Không phải tôi đã nói với ông như vậy sao?”

 

Như Huyễn:  Trần Tháo là đệ tử lâu năm trong Thiền và cũng là một quan chức cao cấp, trong khi đó các quan chức kém hơn ông ta đều là những đệ tử mới học Thiền. Ông ta muốn chỉ dạy họ về Thiền, như vậy đã đưa cuộc đối thoại này đến chỗ kết thúc đó. Câu chuyện này xảy ra trong một ngôi chùa hơn là trong một cơ quan chính quyền như vậy câu chuyện dật sử này chỉ nói đến Thiền và không nói đến điều gì khác. Một trong các viên chức nhận thức các ông tăng đang đi ngang đó với tâm phân biệt, đáng trách mắng vào lúc đó. Tiếng “Không” của Trần Tháo phủ nhận vô số sự phân biệt với tiếng “không” trường tồn; thuộc hạ của ông ta chỉ tranh luận về sự đồng nhất bề ngoài của những người hành cước. Nếu tôi là Trần Tháo, tôi sẽ nói, “Không,” nhưng Trần Tháo đã tử tế nói, “Để khám nghiệm xem.” Khi các ông tăng nhìn lên vì tiếng la của Trần Tháo, ông quan thuộc hạ có thể đã nghĩ, “Không phải tôi đã nói với ông như vậy sao?” Để đánh tan ý nghĩ ấy, Trần Tháo nói, “Đó! Không phải tôi đã nói với ông như vậy sao?” 

 

Genro: Trần Tháo mắt nhìn nam mà tâm nghĩ bắc.

 

Như Huyễn: Một hôm Thích Tông Diễn tiếp một người khách là một nhà báo nổi tiếng. Trong khi uống trà, Thích Tông Diễn nói về chính trị và tình hình thế giới, cuối cùng ông khách nói, “Tôi biết tất cả những điều đó. Tôi đến đây học Thiền. Xin vui lòng cho tôi nghe về Thiền.” Thích Tông Diễn điềm nhiên đáp, “Đó là những gì tôi đang nói.” Lúc ấy nhà báo hiểu việc làm của sư và nhận tham thiền vào sáng và chiều, phát triển tánh cách siêu việt tất cả chuyện thế gian của tâm.

Mấy năm qua tôi đã tiếp tục an cư trong phòng một khách sạn ở Seattle, tiếp khách đến tham gia thiền định với tôi. Một hôm khi một người say rượu bước vào nói, “Tôi hiểu các Thiền tăng hét, ‘Katz!’ Tôi muốn nghe ông hét.” Tôi đáp, “Ông không xứng đáng vào thiền định khi trong người ông có rượu. Làm ơn bước ra cho.”

Ngày hôm sau ông ta lại đến, tham gia thiền địnhtiếp tục suốt tuần lễChúng tôi không nói mà cùng nhau thiền định. Năm sau tôi trở lại khách sạn đó và một lần nữa ông ta lại xuất hiện. Lần này chúng tôi thăm viếng và cùng nhau nghiên cứu. Tôi đặt tên cho ông ta là Cổ Đăng (Koto) có nghĩa là “Đèn Xưa.” Rồi nhiều năm trôi qua, không thêm một lời nào nữa cho đến khi tôi đọc về cái chết của ông ta trên báo. Bài xã luận nói là ông ta được giao trách nhiệm coi nhà máy cưa và đã chết trong khi chữa lửa để cứu một dụng cụ nào đó. Công ty của ông đã tôn vinh ông ta vì cái chết ấy, và tôi chắp hai tay lại nói, “Cổ Đăng vẫn còn cháy.” Tôi không bao giờ biểu diễn cho ông ta nghe tiếng hét bắt chước và ông ta cũng không bao giờ yêu cầu nữa.

 

 

 

70. TRIỆU CHÂU TRỤ CHỖ NÀO

 

Một hôm khi Triệu Châu đến viếng thì Vân Cư nói, “Già rồi sao không tìm chỗ trụ đi.” Triệu Châu hỏi, “Trụ chỗ nào bây giờ?” Vân Cư đề nghị, “Phía sau núi có cái chùa cũ đổ nát.” Triệu Châu hỏi lại, “Sao ông không trụ ở đó đi?” Vân Cư không đáp. Sau đó Triệu Châu đến viếng Thù Du. Thù Du hỏi, “Già rồi sao không tìm chỗ trụ đi?” Triệu Châu lại hỏi như trước, “Trụ chỗ nào bây giờ?” Thù Du phản đối, “Ông còn không biết chỗ trụ trong lúc tuổi già nữa sao?” Lúc ấy Triệu Châu nói, “Ba chục năm cưỡi ngựa chẳng sao, bữa nay lại bị té lừa.” 

 

Như Huyễn: Triệu Châu đi viếng hết sư này đến sư khác lúc sư đã sáu mươi tuổi và vẫn tiếp tục đi như một ông tăng hành cước đến khi sư tám mươi tuổi. Thiền của sư đã chín và dịu ngọt như rượu nho lâu năm, nhưng một vài tăng nhân và bậc thầy nghĩ rằng nó chưa đúng mùa. Khi Vân Cư đề nghị sư an trụ, Triệu Châu đã biết nhà thật của sư và không chỗ nào nằm bên ngoài nó, vì thế sư đáp, “Trụ ở đâu bây giờ,” là khôi hài. Triệu Châu, nhận thấy Vân Cư còn thiếu cái hiểu đầy đủ khi bám vào ấn tượng đầu tiên, đề nghị Vân Cư trụ ở cái chùa đổ nát đó. Vân Cư im lặngchấp nhận sự đạt ngộ của Triệu Châu

 Về sau Triệu Châu sống trong một Thiền viện và dạy nhiều tăng nhân, sư sống đến một trăm hai chục tuổi. Sư chẳng dùng “gậy to” cũng chẳng hò hét như các sư khác, lời sư nói ít nhưng đầy Thiền.

 Các Thiền sư Trung hoa và Nhật bản sống ở các chùa hay viện do các nhà quí tộc trợ cấp. Những ông tăng ngu bám vào sự hào nhoángdanh vọng của những chỗ trú tạm thời không lưu tâm đến sự đạt ngộ của ông thầy. Triệu Châu đã tự giải thoát mình ra khỏi những tiêu chuẩn giả dối này khi sư trắc nghiệm cái hiểu của các ông thầy đã thành danh trong lúc sư hành cước. Có điều hầu như đáng tiếc là về sau sư đã sống trong một Thiền viện và không còn tiếp tục trôi nổi bồng bềnh như một đám mây trời. Trên thế giới, cùng với tín đồ Phật giáo là những người dấu sự đạt ngộ của họ nhưng ảnh hưởng tới người khác như các thầy Sufi, Rinds hay Dervishes đã làm. 

 

 

 

71. VÂN MÔN NẾP NHÀ

 

Một ông tăng hỏi Vân Môn, “Thế nào là nếp nhà của hòa thượng?” Vân Môn đáp, “Ông chẳng nghe học sinh đến nhà này học đọc học viết sao?"

 

Như HuyễnMỗi Thiền sư tiếp người đến học Thiền theo cách riêng của họ. Ở Nhật, những người thừa kế Bạch Ẩn nhận người học từng người một và dùng công án để khảo nghiệm cái hiểu của họ. Độc Viên thường tiếp tục hút thuốc khi người học vào phòng tham thiền, mỉm cười với người học, không nói một lời hay bỗng nhiên cười lớn khi người học trình cái thấy của mình về công án, rồi rung chuông cho lui trước khi người học có thể lễ bái lần thứ nhì. Kando thì để cây gậy ngay trước chỗ ngồi và bảo người học, “Hãy đến gần hơn. Tôi già rồi nghe khó lắm.” Khi người học đến vừa tầm, sư liền lấy gậy đánh. Tôi đã có lần kinh nghiệm gia phong của sư trong lúc tham thiền, khi sư bảo tôi đến gần hơn, tôi tiến đến vừa đủ để nắm lấy cây gậy của sư khi tôi trình kiến giải của tôi về công án. Thích Tông Diễn thường thay đổi chỗ ngồi, nhất là vào buổi chiều, vì vậy người học không thể thấy sư ngay.

 Vào thời của Vân Môn không có phương pháp ổn định khi nhận tham thiền. Các ông tăng tiến đến gần sư bất cứ khi nào có cơ hội: ngoài vườn, trong hành lang, hay ngay cả lúc sư đang tắm. Câu chuyện này xảy ra gần cổng ngoài, nơi đây trẻ con đang đi ngang qua trên đường đến trường. Vân Môn tiếp tất cả người trong thiên hạ như đệ tử của sư, ngay cả trẻ con trong trường học cũng bắt đầu nhận sự hướng dẫn của sư mặc dù chưa từng gặp hay biết sư. Ở đây sư chỉ bày triết lý Hoa Nghiêm: Một là nhiều và nhiều là một.

 Nếu đọc những cuộc đối thoại Thiền thời nhà Đường hay nhà Tống, quí vị sẽ thấy sau khi nói pháp các sư ban sự hướng dẫn cá nhân cho những ai bước lên đặt câu hỏi. Theo kinh điển thì Phật cũng dạy theo cách này, nhưng khi giáo lý truyền đến Nhật bản, phương pháp này dần dần trở thành một phần của nghi thức hay nghi lễ, tạo nên sự phù phiếmtham vọng trong giới đệ tử cố đẩy ông thầy vào góc tường, hay dàn cảnh. Nó giống như một màn biểu diễn rẻ tiền trên đường phố. Để tránh tình trạng này, Bạch Ẩn bắt đầu biện pháp bắt buộc đệ tử đến phòng tham thiền của sư riêng từng người một, buổi sáng và buổi chiều, dù họ có kiến giải hay không. Nhưng phương pháp này cuối cùng cũng đến phiên trở thành nghi thức đối với những đệ tử quan tâm đến sự đậu rớt trong các kỳ thi. Thật là lạc xa tư tưởng Thiền.

 Vào thời Vân Môn, các nhà Khổng học cống hiến sự giáo dục thông thường, nhấn mạnh luân lý hơn là học thứcVân Môn nhấn mạnh một cách có mục đích quan điểm đạo đức khích lệ tăng nhân giữ giới luật hằng ngày trước khi phát biểu triết lý siêu việt.

 

Genro: Vân Môn sẽ không có nhiều đệ tử bằng cách này khi họ đến để lượm lặt các thứ gia phong hấp dẫn

 

Fugai: Có lẽ Vân Môn không làm gì hơn là chiếm lấy chỗ của thầy giáo nhà trường.

 

Như Huyễn: Nếu một Thiền tăng không làm gì khác hơn là chiếm chỗ của thầy giáo nhà trường, thì ông ta là một Thiền tăng lý tưởng. Ông ta không cần che dấu gia phong dể dụ mấy ông tăng hành cước.

 

 

 

72. BẢO THỌ QUAY LƯNG

 

Triệu Châu đến viếng Bảo Thọ. Chợt thấy Triệu Châu, Bảo Thọ liền quay lưng về phiá Triệu Châu. Triệu Châu trải tọa cụ mang theo xuống lễ bái Bảo ThọBảo Thọ liền đứng lên quay mặt lại Triệu ChâuTriệu Châu nhặt tọa cụ lên và bỏ đi.

 

Như Huyễn: Ấn độ, một ông tăng có y trong, y ngoài và một tấm nệm làm mền đắp ban đêm hay làm vật để ngồi vào ban ngày. Mặc dù tấm nệm này đủ cho thời tiếtẤn độTích lan, nhưng nó đã trở thành một biểu tượng nghi thức cho tăng nhân ở vùng lạnh phía bắc Trung hoa.

 Thiền của Bảo Thọ đã tinh luyện. Sư đã biến mình thành một viên thủy tinh không có phía trước không có phía sau. Triệu Châu đã nhận ra điều đó nên chuẩn bị lễ bái, lúc đó Bảo Thọ liền bỏ đi bởi vì không cần thiết phải xem qui ước bên ngoài của cái hiểu tâm với tâm. Lúc ấy Triệu Châu cũng bỏ đi.

 Khi Hàn Sơn nhận một ông tăng từ một chùa khác đến, sư hỏi, “Ông từ đâu đến?” Ông tăng nói tên chùa mình. Hàn Sơn hỏi, “Ở đó ông học được gì?” Ông tăng đáp, “Thiền định.” Hàn Sơn bảo, “Chỉ cho tôi cách thiền định.” Ông tăng đáp bằng cách xếp tréo chân ngồi thẳng như tượng PhậtHàn Sơn hét ông tăng, “Này! Ông ngốc ơi! Hãy cút đi! Chùa chúng tôi ở đây có đủ Phật đá rồi.” 

 Ông tăng này có phiá sau và phiá trước rời nhau. Khi thiền định thì ông ta giống như ông Phật đá, khi ăn cơm thì ông ta giống như quỉ đói, và đôi khi ông ta còn giống như A-tu-la nữa. Chẳng lạ gì Hàn Sơn không muốn ông ta ở lại chùa. Nhưng có thể quí vị hỏi, “Không phải ông thầy đã bảo ông tăng chỉ cách thiền định sao?” Ông tăng thiền định thật sự sẽ không bao giờ ngồi, không bao giờ đứng, không bao giờ nằm, và không bao giờ nói. Bây giờ, thế nào là thiền định đúng cách? Nhưng quí vị không được bắt chước Bảo ThọTriệu Châu

 

 

 

73. TUYẾT PHONG TỪ CHỐI ÔNG TĂNG

 

 Một ông tăng đến Tuyết Phonglễ bái.

 

Fugai: Ông ta đang dùng bài học đầu tiên cho con nít.

 

Như Huyễn: Ông ta muốn gọi ông tăng là người mới bắt đầu hay đang xem cuộc gặp gỡ chính thức bắt đầu? 

 

Tuyết Phong đánh ông tăng năm gậy. 

 

Fugai:  Công án nháng lửa lên rồi.

 

Lúc đó ông tăng hỏi, “Con lỗi ở chỗ nào?”

 

Fugai: Ông chẳng biết thí chủ của ông.

 

Sư đánh ông tăng năm gậy nữa và hét to đuổi ông tăng ra ngoài.

 

Fugai: Cưng quá khiến con hư.

 

Như Huyễn: Trẻ con Trung hoa đầu tiên được dạy cho một câu chữ Hán đơn giản ngư vầy, “Đức thánh Khổng Phu tử ngày xưa có ba ngàn học trò, trong đó có bảy mươi học trò giỏi. Các con những trẻ em tám chín tuổi nên biết lễ phép với nhau.” Đây giống như các chữ A, B, C trong tiếng Anh. Ông tăng bắt đầu rất ư lễ phép nhưng Tuyết Phong xem ông ta như một người mới bắt đầu trong Thiền, như lời bình của Fugai chỉ rõ. Những ai học sâu cũng sẽ lễ bái thầy như khi gặp lần đầu tiên. Lỗi duy nhất của ông tăng là sự khớp sợ trong phút giây đầu tiên ở trước thầy và đáng nhận một gậy. Nếu ông ta nhận thức được điều này thì sẽ không hỏi lỗi mình ở chỗ nào. Chắc chắn ông ta không biết người ban lợi ích thực sự cho ông ta đang ở ngay trước mặt. Ông ta nên lễ bái lần nữa trước khi bị Tuyết Phong đuổi ra ngoài. 

 

Genro: Tiếng hét sau cùng của Tuyết Phong chẳng có chút giá trị gì.

 

Fugai: Tuyết Phong cố thọc gậy vuông vào lỗ tròn.

 

 Như Huyễn: Tôi không tin Tuyết Phong hét chút nào. Ai tả câu chuyện này đã không biết ngôn ngữ hàng ngày của người Trung hoa. Trong ngôn ngữ Trung hoa ngày nay, câu cuối cùng của công án này sẽ đọc mà không cho tiếng “Hát!” nghĩa gì cả, mặc dù những người theo Lâm Tế dường như xem đây là một biểu hiện bất ly thân. 

 

Genro: Thiền Tuyết Phong như bà nội hiền từ.

 Khắc mạn thuyền để tìm thanh kiếm mất.

 Giống chuyện xưa khi Lâm Tế được rồi,

 Liền cho Đại Ngu ngay hông ba đấm.

 

 Như Huyễn: Một hôm một người ngu đánh rơi thanh kiếm của y qua lườn tàu, liền cẩn thận đánh dấu vào hông tàu chỗ kiếm rơi để chỉ chỗ cho viên thuyền trưởng bắt đầu cuộc tìm kiếm mà không ý thức tàu đang giương buồm chạy. Các giáo sư đại học diễn giảng trong lớp học về các triết lý thời cổ mà không cho loài người tiến bộ qua năm tháng sự thực là đang cố tìm thanh kiếm đã bị mất theo dấu khắc vào mạn tàu. 

 Lâm Tế hỏi Hoàng Bá thế nào là đại ý Phật pháp, và nhận câu trả lời của Hoàng Bá là một cú đánh bằng gậy. Lâm Tế đến hỏi Hoàng Bá cùng câu hỏi ấy hai lần nữa và cũng nhận cùng một loại câu trả lời. Hầu như đã sẵn sàng bỏ cuộc tìm cầu, sư đến Đại Ngu phàn nàn về sự thất bại của mình. Khi nghe câu chuyện, Đại Ngu nói, “Hoàng Bá thật là quá tử tế. Kẻ ngu như ông làm sao thấy được.” Trước khi Đại Ngu dứt lời, ngộ đến với Lâm Tế như một tia chớp. Lâm Tế liền cho Đại Ngu ba đấm ngay sườn. 

 Bài thơ này cũng là khắc dấu vào mạn thuyền. Không lạ gì, sau câu thơ cuối cùng, Fugai nói, “Ông không thể bắt một con thỏ hai lần trong cùng một cái hang.”

 

 

 

 

 

 

 

 

74. CHỌN NGƯỜI KHAI SÁNG

MỘT NGÔI CHÙA

 

Khi Qui Sơn học Thiền dưới sự hướng dẫn

của Bách Trượng, sư làm việc như một đầu bếp của chùa. 

 

Fugai: Một gia đình Thiền đang bình yên làm sao!

 

Mã Đầu Đà đến chùa nói với Bách Trượng rằng ông ta đã tìm được một cảnh đất rất tốt để lập một ngôi chùa trên núi Đại Qui và muốn chọn một vị sư mới cho chùa trước khi xây xong. 

 

Fugai: Có người không thể ở được sao?

 

Bách Trượng hỏi, “Tôi thế nào?”

 

Fugai: Chớ có nói đùa.

 

Mã Đầu Đà đáp, “Núi ấy có số được chùa thịnh đạtHòa thượng sinh ra bần hàn, như vậy nếu hòa thượng ở đó thì có thể chỉ có độ năm trăm tăng.”

Fugai: Làm sao ông biết được?

 

Chùa ấy sẽ có hơn một ngàn tăng.

 

Fugai: Chỉ có thế à ?

 

Bách Trượng nói, “Trong tăng chúng ở đây ông thấy có người nào thích hợp không?”

 

Fugai: Con mắt chọn tăng của thầy ở đâu?

 

Mã Đầu Đà nói tiếp, “Tôi nghĩ điển tọa Qui Sơn sẽ là người đó.”

 

Fugai: Vô lý!

 

Lúc ấy Bách Trượng gọi Qui Sơn bảo sư đi lập chùa mới.

 

Fugai: Đi dễ vậy sao!

 

Ông tăng thủ tọa chợt nghe chuyện liền đi thẳng đến Bách Trượng, nói, “Không ai có thể bảo điển tọa giỏi hơn thủ tọa.”

 

Fugai: Ông chẳng tự biết mình.

 

Lúc ấy Bách Trượng gọi tăng chúng tụ tập lại, nói cho họ nghe tình hình, và bảo rằng hễ ai trả lời đúng câu hỏi của sư thì được chọn.

 

Fugai: Phán quyết ngay thẳng!

 

Bách Trượng chỉ cái tịnh bình đặt trên sàn nhà và hỏi, “Không được gọi nó là tịnh bình, vậy gọi nó là gì?”

 

Fugai: Tôi có thể thấy được sư đang nháy mắt.

 

Ông tăng thủ tọa nói, “Không thể gọi nó là chiếc giày gỗ.”

 

Fugai: Ôi là thủ tọa!

 

Khi không còn ai khác trả lời, Bách Trượng quay sang Qui Sơn. Qui Sơn bước tới, đá đổ tịnh rồi bỏ đi.

 

Fugai: Chẳng có gì mới mẻ hết.

 

Bách Trượng mỉm cười, “Thủ tọa thua rồi.”

 

Fugai: Phán quyết ngay thẳng!

 

Qui Sơn được cử làm trụ trì ngôi chùa mới và dạy Thiền cho hơn một ngàn tăng nhân.

 

Fugai: Không những chỉ hơn một mgàn tăng chúng mà còn tất cả chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai và tất cả Bồ-tát mười phương.

 

Genro: May quá, Bách Trượng đã đặt sẵn cái tịnh bình làm cọc vì thế ông tăng ấy có thể đạp nhào nó. Giả sử tôi chỉ vào hòn núi Nam và nói, “Không gọi nó là hòn núi Nam, thì gọi nó là gì?” Nếu các ông nói rằng không thể gọi nó là chiếc giày gỗ, thì các ông có hơn gì ông tăng thủ tọa. Các ông cũng không thể đá nhào nó như Qui Sơn đã làm. Bây giờ các ông làm gì? Trong các ông có ai là người Thiền thật vượt hết những kiến giải này, thì trả lời tôi đi.

 

Fugai: Tôi sẽ đá ông thầy.

 

Như Huyễn: Dù cho tất cả tăng chúng đều ngu không ai nói nó là chiếc “Giày gỗ,” khi chỉ hòn núi Nam. Khi Fugai nói, “Tôi sẽ đá ông thầy,” có lẽ sư muốn nói cả Bách Trượng lẫn Genro. Nếu tôi là Genro, tôi sẽ chỉ cây chổi tre để bên ngoài cửa sổ và bảo tăng chúng gọi nó mà không phải bằng tên của nó. Quí vị không thể gọi nó cái đồ xúc bụi và cũng không thể đá cây chổi. Nếu tôi là Fugai, tôi sẽ lấy cây chổi, đi quét nhà.

 

 Genro: Chỉ nhặt tịnh bình lên, đo xem dài ngắn,

[Fugai: Thầy làm gì nó vậy? Nó không có kích thước; làm sao thầy có thể gọi nó là ngắn hay dài?]

 Như vậy, vượt kích thước,

 hiển lộ toàn nội dung.

 [Đó là những gì tôi nói!]

 Hãy xem bàn chân làm được chuyện gì!

 [Bàn chân quí vô song!]

 Một đá dựng thành chùa Qui Sơn.

[Bàn chân ấy sẽ nghiền hư không thành bụi]

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14443)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14157)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39751)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15325)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13892)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13940)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37361)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40080)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14646)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14318)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12663)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14852)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19227)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13805)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42645)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13849)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37273)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12698)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11780)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22565)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12519)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12577)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13070)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13123)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17285)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33277)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14844)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11049)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12468)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11969)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11940)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13149)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51284)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12393)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6620)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30444)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13133)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13341)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30707)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19388)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12494)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11861)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14777)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13210)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13207)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30709)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12051)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11844)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12739)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31919)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29429)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11795)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11757)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10440)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11567)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9649)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9677)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 10008)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35431)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10167)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10107)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10061)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9671)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27826)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15511)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9869)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13692)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9855)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9711)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18348)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12049)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9579)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9702)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8724)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8934)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8432)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11486)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31763)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12343)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13336)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8844)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9457)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11952)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9240)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9085)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9681)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29379)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9096)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9115)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33280)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8440)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30646)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31258)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37150)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32304)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9942)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27124)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8458)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19253)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 13023)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant