Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cái An Lập Trong Tánh Không

04 Tháng Năm 201300:00(Xem: 5539)
Cái An Lập Trong Tánh Không

Gadjin M. Nagao
TRUNG QUÁNDU-GIÀ HÀNH TÔNG
Nghiên cứu về Triết học Trung quán
Thích Nhuận Châu dịch 09-2007

CÁI AN LẬP TRONG TÁNH KHÔNG
Kiến giải của Du-già hành tông về tánh không (śūnyatā)

Thiền đã chiếm vị trí quan trọng chủ yếu trong tư tưởng đạo Phật suốt cả lịch sử của nó. Từ rất sớm, Thiền đã được công nhận chung là đạt đến đỉnh cao trí huệ (prajñā) được thực chứng thông qua thiền định hoặc là cùng với thiền định (dhyāna, samādhi, v.v...). Ví dụ của trường hợp nầy có thể được thấy trong những quy tắc khác nhau như ‘chỉ quán tương ưng–śamatha-vipaśanā-yuganaddha,’ và hai chi phần sau của ‘giới–định-huệ–śila-sāmadhi-prajñā’, Ngũ căn (tín, tấn, niệm, định, huệ),[1]lục độ ( bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tính tấn, thiền định, trí huệ).[2]

Rất nhiều pháp được công nhận như là đối tượng của thiền quán, như ‘bất tịnh–impurity,’ ‘sổ tức–respiration,’[3] ‘Tứ diệu đế,’ và ‘tam pháp ấn,[4] nhưng về sau, trong Phật giáo Đại thừa, tánh không (śūnyatā) cũng được công nhận như một đối tượng của thiền trong dạng nầy. Tam giải thoát môn,[5] còn gọi là tam-muội (tri-samādhi), gồm không, vô tướng, vô nguyện, như là thành viên của nó, được công nhận rộng rãi là các đối tượng để tu tập. Trong ba đối tượng nầy, tánh không (śūnyatā) được xem là nền tảng nhất, bao hàm cả hai đối tượng kia. Trong ý nghĩa nầy, dù tánh không (śūnyatā) thường được xem như là ‘vô thể–non-existence,’ nó không chỉ mang ý niệm bản thể luận (ontology) hoặc siêu hình học, mà còn một pháp tu nhất định. ‘Tánh không (śūnyatā) đã có tầm quan trọng ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống tôn giáo’ như Richard Robinson đã phát biểu. [6]

Chính Long Thụ đã thiết lập ý niệm tánh không (śūnyatā) với một sắc thái mang tính triết học rất cao. Nhưng đối với ngài, ý niệm nầy dường như có ý nghĩa không những trong phạm trù triết học và Luận lý học mà còn trong ý nghĩa tu đạo (religio-practical). Các nhà Du-già hành tông, như tên gọi đã gợi ý, đều có liên quan phần lớn với pháp tu tập Du-già (Yoga), kế thừa từ ý niệm mang tư tưởng tánh không (śūnyatā) từ học thuyết Long Thụ (Nagarjunian), và khi họ minh giải các pháp liên quan với pháp tu tập Du-già (Yoga) như lục độ ba-la-mật-đa, thập địa (ten bhūmis), v.v... dường như vốn đã có nền tảng trong giáo lý của họ. Các bộ luận của Du-già hành tông liệt kê 10 thứ tâm tán loạn[7] như là chướng ngại cho chánh định, tuy nhiên, nhiều đoạn văn trong kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng giới thiệu về những hành vi như là sự giải độc cho những chướng ngại nầy và còn mang ý nghĩa trọn vẹn của tánh không (śūnyatā).[8]

Tánh không (śūnyatā) không phải là độc quyền của Đại thừa, vì nó xuất hiện rất sớm trong thời kỳ Phật giáo nguyên thuỷ. Cũng vậy, không khó để tìm thấy những từ như ‘không’ trong tạng Nikāya và A-hàm (Āgama). Trong đó, Kinh Tiểu không[9] thu hút nhiều chú ý đặc biệt nhất của chúng ta .

 Trong kinh nầy, Đức Thế tôn giảng giải cho A-nan phương pháp thiền quán về không, ngài dạy rằng: ‘sau khi chứng ngộ Như Lai an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh tính Không. – Như Lai ... nhờ an trú trong (ý niệm về) không, mà nay Như Lai hoàn toàn an trú trong cứu cánh thanh tịnh Không tánh[10]

Thế tôn tiếp tục dạy rằng, khi các vị tỷ-khưu tập trung trong giảng đường, trong đó không có tướng voi, bò, v.v... và rồi, ‘chỉ có điều nầy là là chẳng không, có thể nói điều ấy [vốn là chẳng không, nhưng] có cơ sở trong chúng tăng.’[11]

Cũng vậy, khi một vị tỷ-khưu ngồi thiền trong rừng, vị ấy thấy không có thôn làng, không có người dân trong thôn, và an trú trong nhất tâm, thấy chẳng có gì là không và duyên với ý niệm về rừng núi. Tâm vị tỷ-khưu an lạctự tại đối với sự an tĩnh của rừng núi, vị tỷ-khưu nghĩ như vậy, ‘những phiền tạp khởi từ ý niệm về thôn làng không hiện hữu ở đây...’ thế nên, ‘chỉ có mức độ của sự phiền tạp nầy, có nghĩa là, hệ duyên vào niệm tưởng về rừng cây.’[12] Có nghĩa là, nhờ tu tập thiền quán về không, vị tỷ-khưu đạt được tự tại đối với các phiền tạp (daratha)[13] về ‘thôn làng, và người trong thôn xóm, nhưng chính sự yên tĩnh trong rừng lại trở nên một sự phiền tạp mới trong trong tâm vị tỷ-khưu, điều ấy sẽ được xoá bỏ qua công phu thiền định xa hơn nữa. Qua sự trông cậy vào thiền quans và trừ bỏ, vị ấy đã đi qua nhiều giạ đoạn, gồm cả cảnh giới định cao nhất của ‘vô sắc giới,’ cuối cùng, đạt đến Vô tưởng định.[14] Trong cảnh giới cao nhất nầy, vị ấy thoát khỏi mọi tác động nhiễm ô bất tịnh hữu lậu (āsava) và chứng quả A-la-hán; và vẫn còn một ưu phiền này, tức là sáu nhập[15] duyên mạng, duyên với thân này.[16] Thế nên, sự hiện hữu có thật của vị ấy, vốn ngay cả một vị A-la-hán cũng không bao giờ chối bỏ, chính là sự phiền tạp rốt ráo của mình. Ở mọi tiến trình cảnh giới đã được mô tả, còn có thêm cảnh giới như sau:

 

...Thấy rằng khi cái gì không hiện hữu ở một nơi nào đó, thì ở đó cái đó không hiện hữu. Và thế nên biết được rằng khi cái gì có ở một nơi nào đó, thì cái ấy thực sự hiện hữu.[17]

 

Kinh lập lại đoạn nầy tất cả 8 lần. Xác định rằng không, một mặt là ‘không hiện hữu’ ở nơi nầy, nhưng mặt kia, vẫn có cái gì tồn tại trong đó, vốn là rất thực, không thể bị phủ nhận. Tánh không (śūnyatā) bao hàm cả hai mặt, hiện hữu và không hiện hữu, cả khẳng định và phủ định. Đây là định nghĩa chân thực về tánh không (śūnyatā), như bản kinh tiếp tục giải thích :

 

 Thế nên, Ananda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, không tánh.[18]

 

Kinh Tiểu Không dường như không thu hút sự chú ý của các nhà Trung quán, nhưng nó đã nêu lên một ý nghĩa đặc biệt cho các luận giải của Du-già hành tông.

Trước hết, Trung biên phân biệt luận [19] giải thích mối liên hệ giữa ‘hư vọng phân biệt’[20]tánh không (śūnyatā) trong bài kệ 1.1.[21] Thực tế sinh hoạt hằng ngày ở đây được nói vắn tắt là ‘hư vọng phân biệt,’ là sự phân biệt giữa, và chấp trước vào hai thứ–chủ thể và đối tượng chấp thủ; năng thủsở thủ.’[22] Hai cái nầy, dù tuyệt đối không thể phân biệt hoá hoặc khái niệm hoá, cũng chẳng có thực chút nào cả. Ở đây, tánh không (śūnyatā) được an lập là thuộc về ‘hư vọng phân biệt’ hoặc là ‘biến kế sở chấp’ (tính từ ‘unreal,’ thường được dùng để chỉ cho ý niệm hoặc tưởng tượng) được chọn ra như là vật thể hiện hữu mà ‘không thực, có nghĩa là ‘không–empty.’ Cùng lúc, tuy vậy, cái ‘tưởng tượng không thực có’ nầy mặc dù là không, nó vẫn thường hoạt động. Do vậy, tưởng tượng không thực (biến kế sở chấp ) vẫn sinh khởi trong tánh không (śūnyatā).[23]

Điều nầy được tranh luận phức tạp hơn bằng bài kệ trong Trung biên phân biệt luận, 1.2, với một sỗ điểm khác nhau:

 

Do vậy, tất cả các pháp, chẳng phải là không, cũng không phải là chẳng không [vì ‘là biến kế sở chấp’], vý ý niệm hữu và vô [nhị nguyên khách thể/chủ thể], và vì ý niệm hữu [về tánh không (śūnyatā) của ‘hư vọng phân biệt’], cũng như ý niệm hữu [của ‘tưởng tượng không thực có’ như là tiêu điểm của tánh không (śūnyatā).]. Đây chính là nghĩa Trung đạo.[24]

 

Khi ngài Thế Thân luận giải về bài kệ 1.1 trong (Madhyānta-vibhāga), ngài giải thích:

 

Như vậy [trong bài kệ nầy] đặc tính của tánh không (śūnyatā) đã được trình bày theo cách không sai lạc như sau: ‘được cho là có thực nghĩa là, khi pháp ấy không hiện hữu trong một nơi nào đó; còn pháp ấy không là không đối với cái trước, và lại nữa, nó được hiểu như là có thực có nghĩa là, khi ở chỗ nầy, có cái gì đó hiện hữu, nó hiện hữu ở đây như là một hiện hữu có thực.’[25]

 

Câu ‘được trình bày... như sau’ cho thấy rằng đoạn luận giải được ghi trong đấu ngoặc trích dẫn là được trích từ một vài bản kinhgiá trị, và nếu điều nầy hợp lý, thì sự trích dẫn ấy chẳng gì khác hơn là ý niệm từ trong Kinh Tiểu Không, sự tương đồng giữa kinh và đoạn luận giải nầy quá rõ ràng. Thế Thân cũng nhận xét rằng, cùng với kinh nầy, tánh không (śūnyatā) có thể được ‘trình bày không sai lạc.’ Và cách hiểu nầy về tánh không (śūnyatā) của các nhà Du-già hành tông dường như có căn cứ khế hợp với quan điểm của kinh nầy. 

Cách diễn đạt ‘Cái an lập’ (avaśiṣṭa), tuy nhiên, quả thực là khó hiểu (enigmatic), vì tánh không (śūnyatā) vốn thường được công nhận là cái gì đó không hiện hữu, phủ định ngay trong đặc tính của nó, trong khi có cái gì đó có mặt một cách tích cực khẳng định sự hiện hữu của các pháp. Có lẽ chúng ta nên hiểu điều nầy như là thực tại tuyệt đối mà không bao giờ bị bác bỏ, thậm chí không có cả phủ định cực đoan; đó là, chẳng hạn tương tự như trường hợp người ta không thể phủ nhận thực tế là mình đang phủ nhận. Nó là xác định, được lập ngay trong trung tâm của phủ định, và là chân thực hiện hữu vì nó được lập trên phủ định.

Madhyānta-vibhāga, 1.13, có lẽ đã đồng ý với ý niệm đã nêu trên, giải thích một định nghĩa về tánh không (śūnyatā) như sau:

Thực vậy, đặc tính của không là không có sự hiện hữu của hai cực đoan (chủ thể/đối tượng), và sự hiện hữu của cái không hiện hữu ấy.[26]

 

Như vậy, tánh không (śūnyatā) được hiểu là, không chỉ ‘không có, không hiện hữu,’ mà còn là ‘hiện hữu của cái không hiện hữu,’ trở lại là một khía cạnh đặc biệt của kiến giải Du-già hành tông. Ý tưởng thêm vào ý niệm hiện hữu của cái không hiện hữu,’ tuy vậy, bị công kích dữ dội bởi các nhà Trung quán sau nầy:[27] theo họ, ý nghĩa chân thực của tánh không (śūnyatā) là ‘không hiện hữu/không có’, có nghĩa là, hoàn toàn không có thực; thêm vào ý niệm ‘hiện hữu của cái không hiện hữu,’ không chỉ là vô dụng mà còn là vô lý vì kết quả mâu thuẫn nội tại của nó.

 Tuy nhiên, trong Phật học Trung Hoa sau nầy, chúng ta thấy có câu chân không diệu hữu[28] vốn được hiểu như là đồng nhất của hữu và vô, phủ định và khẳng định, hoặc như là sự phục hồi của hữu từ vô. Thực ra, trong Kinh Bát-nhã cũn vậy, chúng ta đọc thấy, Sắc tức thị không, không tức thị sắc.[29] Câu ‘không tức thị sắc’ chẳng vô dụng và tối nghĩa, cũng chẳng phải là sự lặp lại đoạn kinh có trước, vì nó mở ra một chân trời mới của sự hiện hữu chân thực theo gót thuyết phủ định của ‘sắc tức thị không.’ Cũng vậy, Long Thụ, tương truyền là người đã lập nên ý nghĩa chân thực của hiện tượng thế gian trong Căn bản trung quán luận tụng, phẩm XXIV.[30] Đặc biệt là trong bài kệ 18,[31] ngài đã đánh đồng tánh không (śūnyatā), vốn đồng nhất với Duyên khởi, còn với khái niệm khác, gọi là ‘giả danh–upādāya prajñapti,’[32]cuối cùng, đồng nhất với Trung đạo. Toàn thể sơ đồ của bài kệ nầy trông giống như nguyên mẫu của bài kệ 1.1-2, của Madhyānta-vibhāga đã nói từ trước. Ý niệm ‘hư vọng phân biệt–abhūtatparikalpa’ về sau đại biểu cho giả danh–upādāya prajñapti,’[33] ở đây, trong mọi nỗ lực của con người, gồn cả những người tu tập hành trì, đều khẳng định một cách đúng đắn.

Mặt khác, các nhà Du-già hành tông trong minh giải của họ về kahí niệm hữu và vô, họ thường cầu viện vào thuyết Tam tánh (trisvabhāva): biến kế sở chấp tánh, y tha khởi tánh, và Viên thành thật tánh. Trong trường hợp khác,[34] tánh không (śūnyatā) được phân tích thành ba: vô tánh không (abhāva-śūnyatā); như thực hữu không (tathā-bhāva-śūnyatā) hoặc bất như thực hữu không (tathā-abhāva-śūnyatā); tánh không (prakṛti-śūnyatā), và ba phạm trù đó liên quan với biến kế sở chấp tánh, y tha khởi tánh , và Viên thành thật tánh. Như vậy, tánh không (śūnyatā) tổng hợp cả Tam tánh (cùng biểu hiện mọi trạng thái của các thực thể mà chẳng loại trừ), đặc biệt là những trạng thái thuộc về phạm trù vô và hữu trong ý nghĩa của biến kế sở chấpy tha khởi tánh. ‘Cái an lập,’ như được đề cập ở trên, tương ứng chính xác với ý niệm nầy về y tha khởi tánh ‘như thực hữu không (tathā-bhāva-śūnyatā) hoặc bất như thực hữu không (tathā-abhāva-śūnyatā) do vậy nên là không, như đã thấy ở trước,’ vốn tương tự như một mục tiêu chỉ trích một phần của các nhà Trung quán.[35]

Một phát biểu tương tự với Kinh Tiểu Không cũng thấy xuất hiện trong các bộ luận của Du-già hành tông. Trong Bồ-tát địa trì Kinh (Bodhisattvabhūmi) của Du-già sư địa luận (Yogācārabhūmi), có giải thích[36] ‘thiện thủ, thiện nhiếp không (sughītā śūnyatā).’[37] Ở đây dù không có bằng chứng trích dẫn, vẫn thấy có một đoạn văn hầu như đồng nhất với đoạn được trích trong Madhyānta-vibhāga–đoạn kinh vốn nhấn mạnh rằng chánh quán, hiểu không sai lạc về tánh không (śūnyatā).[38] Ý niệm căn bản nầy còn được giải thích khác hơn qua thuật ngữ ‘sắc–rūpa; form.’ Sắc, vốn được công nhận là thực có trong triết học A-tỳ-đạt-ma, là không, hễ khi nào nó được cấu trúc bằng niệm tưởng. Nhưng vẫn có một cái gì đó còn lại, cái mà, dù chính nó là ‘diệu hữu,’ vẫn có cái gì đó thực hữu khi nó cung ứng một nơi chốn/sở y (locus; āśraya) cho giả thiết luận (prajñapti-vāda) của sắc (rūpa). Kiến giải nầy khác với trong Madhyānta-vibhāga, nhưng dường như có chút khác nhau chủ yếu giữa khái niệm của hai bộ luận nầy.

Đoạn kinh văn trong vấn đề được đật ra cũng có xuất hiện trong A-tỳ-đạt-ma tạp tập luận (Abhidharma samuccaya) của ngài Vô Trước (Asaṅga), vốn còn được lưu giữ con nguyên vẹn bằng tiếng Hán và Tây Tạng, nhưng bản tiếng Sanskrit thì còn không đầy đủ.[39] Chính ở đây rất gần với bản dịch Bồ tát địa trì Kinh (Bodhisattvabhūmi) hơn là với Madhyānta-vibhāga, có lẽ chỉ cho thấy rằng A-tỳ-đạt-ma tạp tập luận (Abhidharma samuccaya) là được trích từ Bồ tát địa trì Kinh (Bodhisattvabhūmi) (?). Sự tương đồng nầy trở nên hiển nhiên khi bản dịch tiềng Tây Tạng (cũng như tiếng Hán) của các luận giải nầy được đối chiếu.[40] Theo cách dịch sau, cái bị phủ nhận là ‘ngã và ngã sở,’[41] và cái còn lại như thực là ‘vô ngã tánh.’[42] Dù không hiện hữu thể tánh[43] trong các thực thể như uẩn (skandha), xứ (āyatana), giới (dhātu)–các phạm trù được triết học A-tỳ-đạt-ma đề xướng–nhưng trong đó, vẫn có sự hiện hữu của cái không hiện hữu–đó là, [thực tại của] ‘vô ngã.’ Tiến trình của sự tranh luận là đồng nhất với cái ‘vô và hữu của vô–nonexistence and existence of nonexistence’ trong Madhyānta-vibhāga.

Một giải thích hay nhất về tánh không (śūnyatā), trong mối quan hệ nầy, được tìm thấy trong Hiển dương thánh giáo luận,[44] nay chỉ còn bản tiếng Hán, không còn bản tiếng Sanskrit và Tây Tạng. Ngay phần mở đầu của phẩm thứ 6, ‘Sự an lập của tánh không’ có bài kệ như sau:

 

Nhược ư thử vô hữu, cập thử trừ sở hữu, Tuỳ nhị chủng đạo lý, thuyết không tướng vô nhị.

Khi [nhận thức được rằng] không có gì hiện hữu ở đây, và có cái gì còn lưu lại–thì tính bất nhị của tánh không (śūnyatā) được giải thích tuỳ thuận với nhị chủng nghĩa (twofold reasoning).[45]

 

Trong văn luận giải, nhị chủng nghĩa (twofold reasoning; yukti)[46] được giải thích như sau:

 

(1) hai loại ngã (nhân ngã; pudgala-ātman) và (pháp ngã;

 dharma-ātman) đều không, nhưng

 (2) hai loại vô ngã (nairātmya) đều có.

 

Như vậy, tánh không (śūnyatā) được giải thích, là không thường có (hữu) và cũng chẳng thường không (vô). Cách diễn đạt trong lập luận nầy rất gần với cách diễn đạt trong A-tỳ-đạt-ma tạp tập luận (Abhidharma samuccaya), và cách thức ấy lại rất gần với ý niệm ‘vô và hữu của vô–nonexistence and existence of nonexistence’ trong Madhyānta-vibhāga.

Bài kệ có lẽ hầu như không do chính ngài Vô Trước biên soạn, và khía cạnh chú ý nhất là, dù trong bài kệ nầy ‘cái an lập’ xuất hiện trong nhiều cách rất tương tự như ý nghĩa trong các bản văn vừa đề cập, nó được xác định như thể là tư tưởng phát xuất từ chính Vô Trước. Nhưng rõ ràng rằng ý niệm ‘cái an lập’ có thể truy cứu được, thông qua những bộ luận nầy của Du-già hành tông, trở lại với Kinh Tiểu Không. Điều nầy có thể chỉ ra rằng bản kinh đặc biệt nầy là rất gần gũi với Du-già hành tông.

Khi Vô Trước viết bộ luận Kārikāsaptati,[47] về Kinh Kim Cang, ngài đã lấy cùng ý niệm ‘vô và hữu của vô[48] trong vài bài kệ.[49] Trong Kinh Bát-nhã cũng thường thấy những cách diễn tả nghịch lý (vyatyasta-pada)[50] như:

 

 Vì sao? Tu-bồ-đề. Phật pháp, ...đó chẳng phải là Phật pháp do chính Như Lai giảng nói. Vậy nên mới được gọi là Phật pháp.[51] (17d)

Hoặc :

 

Vì sao? Thế Tôn, vì thật tưởng này chính chẳng phải là thật tưởng, thế nên Thế Tôn mới nói thật tưởng là ‘thật tưởng’. (14a)

 

Trong những đoạn kinh nầy, điều gì ban đầu bị phủ định thì được khẳng định ở đoạn kế tiếp; từ ‘do vậy, vậy nên’ được dùng để nối kết ý phủ định với ý xác định tiếp sau đó. Nguyên lý ‘vô và hữu của vô–nonexistence and existence of nonexistence’ sẽ được tìm thấy một căn cứ thuận tiệnphù hợp để nhận ra cách diễn đạt nghịch lý nầy.

Thật vậy, trong tất cả các luận giải của Du-già hành tông đã nêu trên, ý niệm ‘vô’ kể cả ‘hữu của vô’–‘nonexistence’ cum ‘existence of nonexistence’ được xem như là nguyên lý nền tảng cho cách kiến giải về tánh không (śūnyatā) của mọi tông phái. Và có thể nói rằng thêm vào với ý niệm ‘hữu của vô,’ dù là đối tượng của vấn đề đang bàn luận, cũng đã có từ ý niệm ‘cái an lập’ như được đề nói trong Kinh Tiểu Không. Cái an lập, dĩ nhiên, mang ý nghĩa đích thực của tánh không của trường phái nầy và không bao giờ có bất kỳ hàm ý ‘duy thực–realism’ nào cả, thuyết thực thể (substantialism) cũng bị bác bỏ bởi các nhà Đại thừa.[52]

 Có sự ghép thêm vào đoạn văn trên với ý tưởng ‘điều an lập’ thấy xuất hiện trong Bảo tánh luận.[53] Giáo lý trong Bảo tánh luận được xem như rất gần với Du-già hành tông.[54] Tuy nhiên, với tầm mức Bảo tánh luận là bộ luận giải thích học thuyết Như Lai tạng,[55] cách hiểu của họ về đoạn văn liên hệ dường như có phần khác với cách hiểu của Du-già hành tông. Điểm nầy nay sẽ được giải thích.

Đoạn văn đang bàn đến xuất hiện trong văn giải thích bài kệ 1.154-155, trong đó ý niệmkhông Như Lai tạng[56] được giải thích.[57] Như Lai tạng, còn gọi là ‘Như Lai giới–Tathāgata-dhatu’ tố chất, phần tử của Như Lai, Phật tánh,[58] v.v...là hoàn toàn thanh tịnh với ý nghĩa bản tánh ban sơ, do vậy, không có nhiễm ô để phải tách lìa ra khỏi nó, cũng chẳng có gì thanh tịnh để thêm vào đó. Như được trình bày trong Kinh Thắng Man.

Như Lai tạng là không đối với mọi nhiễm ô, nhưng không có nghĩa là không trong ý nghĩa công đức của Phật tánh, vốn là Bất khả tư nghì, và nhiều như cát sông Hằng. Sau những phát biểu nầy, đoạn văn có giới thiệu ý niệman lập’,[59] không có chứng cứ nào để cho biết đó có phải là trích dẫn hay không.

Sự khác nhau giữa Bảo tánh luận, về một mặt, và mặt khác là Madhyānta-vibhāga và các luận giải của Du-già hành tông, hiểu theo phạm trù đoạn văn nầy, có thể tóm tắt thành hai điểm:

 

1. Thuyết Như Lai tạngkhôngbất không được đề xuất theo thẩm quyền của Kinh Thắng Man; nhưng ở đây, điều phủ nhận là chỉ là sự nhiễm ô, trong khi chính Như Lai tạng không bao giờ bị phủ nhận. Nhiễm ôphiền não luôn luôn là ngẫu nhiên hoặc là khách trần (āgantuka-kleśa), không phải là bản chất của Như Lai tạng, và do vậy, phiền não nhiễm ô ấy sẽ được hoá giải bởi công phu thiền quán. Nhưng yếu tính của Như Lai tạng bao gồm cả công đức Bất khả tư nghì của Phật tánh, và những công đức nầy là chẳng có nghĩa là không.

Trong trường hợp nầy, chủ thể của ‘không–phủ định’ và chủ thể của ‘có–xác định’ là khác biệt nhau, cái trước là phiền não nhiễm ô và cái sau là công đức.

Tuy nhiên, trong Madhyānta-vibhāga một và đồng thực thể ‘hư vọng phân biệt abhūtaparikalpa’ là chủ thể của cả hai cái ‘không,’ và ‘có’ của ‘ không hiện hữu’ và ‘hiện hữu.’ Tính nhị nguyên của chủ thể và đối tượng, vốn là bản chất của ‘hư vọng phân biệt–abhūtaparikalpa’ bị phủ định; do vậy nên tánh không (śūnyatā) được an lập. Và mỗi tánh không (śūnyatā) của những cái không là chẳng bao giờ bị phủ định, nó chưa từng là không hiện hữu. Trong khung cảnh của tánh không (śūnyatā) mà ‘hư vọng phân biệt’ có hình dạng mới mẻ của nó; do vậy nên có ý niệm ‘hữu của vô.’ Trong trường hợp đó, tính đồng nhất và dị biệt có một dạng ‘cấu trúc nhị nguyên’ của hiện hữu và không hiện hữu.. Cấu trúc song trùng này sẽ được thấy cả hai trong hư vọng phân biệt và trong tánh không; trong phương diện ‘không’ của nó, hư vọng phân biệt nhất thiết sẽ chuyển thành tánh không (śūnyatā) trong phương diện ‘hữu’ và tánh không chính nó tự nhiên trở thành hư vọng phân biệt (abhūtaparikalpa).

Nhưng cấu trúc song trùng nầy thì chẳng dễ gì nhận ra được trong Như Lai tạng; không có gạch nối nào giữa công đức tối cao của Phật tánhnhiễm ô phàm trần. Trong Bảo tánh luậnKinh Thắng Man, thẩm quyền của ý niệm nầy, chủ thể của ‘chẳng không’ là nhiễm ô phiền não, và chủ thể của ‘có’ là Phật tánh. Phật tánh, bản chất của Như Lai tạng, không thể đồng thời vừa có vừa không,–Phật tánh vốn là hoàn toàn ‘có,’ thanh tịnh, tuyệt đối, và thường trụ.[60]

2. Cách hiểu ‘cái an lập’ trong Bảo tánh luậnhoàn toàn khác với cách hiểu về nó trong các bộ luận của Du-già hành tông. Trong phạm trù của bảo tánh luận, cái an lập (còn lại sau khi phủ định) nhất thiết phải trở thành cái gì đó lưu lại sau khi mọi yếu tố nhiễm ô phiền não bị trừ sạch; đó là, cái an lập trong Như Lai tạng, trong ý nghĩa công đức của chư Phật, là chẳng bao giờ không. Điều nầy là khác hẳn trong Kinh Tiểu Không và trong Madhyānta-vibhāga cùng nhiều bộ luận khác. Vì trong Kinh Tiểu Không, cái an lập sau cùng chính là sự hiện hữu cụ thể, là chướng ngại lớn nhất cho tinh thần xả ly của con người; và trong Madhyānta-vibhāga, đó là biến kế sở chấp, như thế là biểu tượng cho thế giới phiền não. Cả hai điều nầy đều là thực thể phàm trần và chất ngại, khác biệt rất xa với Như Lai tạng, vốn chỉ được mô tả bằng phẩm tính cao nhất. Những kinh luận sau nầy dường như gợi ý rằng phiền não là rất khó, hầu như không thể nào trừ sạch được–nó vẫn còn sau khi chứng ngộ được một phần nào đó. Khác với điểm nầy, Bảo tánh luận dường như lạc quan hơn về khả năng hư vô hoá các phiền não.

 Trong Bảo tánh luận, cái an lập, hiểu đơn giản là số dư của toán học; người ta loại bỏ phiền não từ trong Như Lai tạng và còn lại số thành là Phật tánh. Phép trừ toán học nầy[61] không liên quan gì đến những sai lầm. Nhưng đề ra phép trừ đơn giản nầy, thực tế là sau khi vắng bặt các phiền não rồi thì luôn luôn vẫn còn một phiền não mới không thể nào giải thích thoả đáng được.

Nói chung, cái an lập là cái được chạm trán bởi hành giả một khi họ giác ngộ. Khi thức hoàn toàn thay đổi (có nghĩa là trong sự chuyển y ‘āśraya-parāvitti’) thông qua sự tu tập để chân thật trở thành niềm tin thanh tịnh, sự thực của Như Lai tạng sẽ được nhận biết như là ‘cái an lập.’ Theo giáo lý Như Lai tạng, Tuy nhiên, thường được công nhận là thực sự không có cái gì ‘an lập–còn lại’ cả, mà đúng hơn là ‘cái vốn có từ khởi thuỷ.’ Trong giáo lý tánh không (śūnyatā), tình trạng hoàn toàn đảo ngược. Sau khi tánh không (śūnyatā) được nhận thức qua trung gian của hư vọng phân biệt (abhūtaparikalpa), hư vọng phân biệt chính nó được tái nhận thức là luôn luôn hiện hữu trong tánh không (śūnyatā) và còn lại mãi mãi trong tánh không (śūnyatā). Chỉ khi nào một nhận thức và tái nhận thức như vậy về phiền trược, thì Phật tánh mới trở nên hiển lộ, Viên thành thật tánh mới được viên mãn, và mới thể nhập Trung đạo.

Chỉ nhờ vào đặc tính song trùng hữu và vô, tánh không mới có thể là nguyên lý ẩn tàng trong câu nói từ xưa của các nhà Đại thừa như ‘Phiền não tức bồ-đề,’ ‘sinh tử tức niết-bàn,’ Cấu trúc nhị nguyên được lập trong trong mối quan hệ giữa hư vọng phân biệt (abhūtaparikalpa) và tánh không (śūnyatā) biểu tượng cho tính đồng nhất hay bất nhị giữa luân hồi sinh tử và niết-bàn. Trừ phi cấu trúc nhị nguyên về thế giới, vốn được mô tả là ‘không,’ được lĩnh hội, thì những ý tưởng của các nhà Đại thừa nầy mới thoát khỏi nghịch lý vô nghĩa.

 Nếu trong giáo lý Như Lai tạng cũng vậy, những lời nói nầy được cho là chân thực,[62] thì nó phải theo đúng Như Lai tạng, vốn thường được xem là Hiện hữu tối thượng, là ‘không và bất không,’ và cũng là ‘nhiễm ô chính là Như Lai tạng’ trong cách thức ‘luân hồi sinh tử tức niết-bàn.’ Nhưng điều ấy không đúng với giáo lý Như Lai tạng. Trong khi Bảo tánh luận, tâm chỉ được định nghĩa từ phương diện ‘bản thể thanh tịnh’ (citta-viśuddhi, citta-prakṛti), và như vậy, tương đồng với Như Lai tạng trong Đại thừa Khởi tín luận,[63] Như Lai tạng được lập trong ‘tâm hàng phàm phu.’ Tâm nầy được định nghĩa là có hai phương diện: ‘tâm chân như’ và ‘tâm sinh diệt,’ nhưng bộ luận nầy dường như muốn nhấn mạnh vào ‘tâm chân như’, do vậy nên đánh đồng tâm chúng sinh với Như Lai tạng. Ngược lại trong Madhyānta-vibhāga, ‘vọng tưởng hư giả’ vốn có với ý nghĩa hạ thấp hơn so với tâm chúng sinh, được sử dụng và định nghĩa là ‘không và bất không’ như đã nói ở trên. Ý niệm ấy còn được mô tả như là bản tính,[64] tuy nhiên, bản tính thanh tịnh trong sáng chỉ được nhận ra chỉ khi nào vọng tưởng hư giả bị phủ nhận như là không và chính nó tái nhận thứcphục hồi qua tánh không (śūnyatā). Quan niệm nầy của Madhyānta-vibhāga không được tán thành ở mức độ cao như thuyết Như Lai tạng, quan niệm ấy chỉ đạt đến được bằng cách chấp nhận ý nghĩa trong kinh Tiểu không như là lập trường của mình. Đặc tính nhị nguyên của Hư vọng phân biệttánh không (śūnyatā) được nói rõ trong Madhyānta-vibhāga khó có thể nhận ra được qua giáo lý Như Lai tạng.



[1] Śraddhendriya 信 根; vīryen-driya 進根; smṛtīndriya 念根; sa-mādhīndriya 定根; prajñendriya 慧 根 .

[2] sad-pāramitā; six perfections.

[3] Từ bộ Kinh An ban thủ ý (安般守意經) P: ānāpānasati; dịch nghĩa là Nhập tức xuất tức niệm (入 息 出 息 念), là sự tỉnh giác trong lúc thở, thở ra, thở vào. Kinh căn bản của Thiền tông, do An Thế Cao dịch từ Phạn ra Hán, Trần Tuệ chú giải, Khương Tăng Hội (?-280) bổ túc và viết bài tựa. Đây là một trong những bộ kinh Phật được chú giải đầu tiên ở Giao Chỉ trong thời Phật giáo mới du nhập vào Việt Nam. Nội dung dạy cách toạ thiền đếm hơi thở, quán niệm hơi thở để giữ tâm ý không bị tán loạn. Một trong những phép tu cơ bản quan trọng nhất để đạt → Bốn xứ hay → Định (s: samā-dhi). Phép này tập trung nơi hơi thở, qua đó tâm thức đạt yên tĩnh, là phép tu của hầu hết mọi trường phái → Phật giáo. Từ phép niệm hơi thở, hành giả dễ dàng tiến tới phép tập giác tỉnh (念; niệm; s: smṛti; p: sati) trong hơi thở. Sau đó hành giả tập giác tỉnh trong mọi diễn biến về tâm và về thân.

[4] E: three dharma-marks: 1) 諸行無常 Các hành vô thường (p: sabbe saṅkhārā aniccā; s: ani-tyā sarvasaṃskārāḥ; 2) Các pháp vô ngã 諸法無我 (p: sabbe dhammā anattā; s: anāt-manaḥ sarvadharmāḥ; 3) Niết-bàn tịch tĩnh 涅槃寂靜 (p: santaṃ nibbānaṃ; s: śāntamnirvāṇam)

[5] E: three doors to enlightenment; trīṇi vimokṣa-mukhāni; tib: rnam-par thar-baḥi sgo gsum trivimokṣa-mukha: 1.空 śūnyatā; 2.無相 animitta (còn gọi Vô tưởng 無想); 3.無願 apraṇihita.

[6] Richard Robinson, The Buddhist Religion (California: Dickcnson, 1970), p. 53

[7] mental distractions; s: vikṣepavikalpa.

[8] Sylvain Lévi, cd., Đại thừa Trang nghiêm Kinh–Mahāyāna sūtrā lakāra (Paris: H. Champion, 1907), p. 76, XI, 77; Étienne Lamotte, cd. and trans., La somme du grand véhicule d'Asaga (Mahāyānasagraha) (Louvain: Bureaux du Museon, 1938), vol. II. pp. 115-18; Dignāga, Prajñāpāramitāpidārthasagraha, vv. 19-54, in E. Frauwallner, ed., "Dignāga, sein Werk und seine Entwieklung, Wiener Zeitserifl für die Kunde Süd-und Osiasiens III (1959), pp. 141-43.

[9] Culasunñata-sutta; Lesser Discourse on Emptiness, số 121.

[10] Bản dịch Việt: Ht. Thích Minh Châu.

[11] Ví như lâu đài Lộc Mẫu này không có voi, bò, ngựa, ngựa cái, không có vàng và bạc, không có đàn bà, đàn ông tụ hội, và chỉ có một cái không phải không, tức là sự nhất trí (ekattam) do duyên chúng Tỷ-kheo.

[12] Vị ấy tuệ tri : “... là sự nhất trí (ekattam) do duyên lâm tưởng.”

Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây, vị ấy tuệ tri : “Cái kia có, cái này có”. Như vậy, này Ananda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, không tánh.

[13]Daratha: sorrow; anxiety; distress.

[14]無想定 s: asaṃjñā-samāpatti; t: ḥdu-śes-med-paḥi-sñoms-pa; E: concentration of mind that is signless; p: animittaṃ cetosamādhiṃ)

[15] E: six sensory fields.

[16] Và chỉ ở Vị ấy tuệ tri: “Loại tưởng này không có dục lậu”. Vị ấy tuệ tri : “Loại tưởng này không có hữu lậu”. Vị ấy tuệ tri: “Loại tưởng này không có vô minh lậu. Và chỉ có một cái này không phải không, tức là sáu nhập duyên mạng, duyên với thân này”.

[17] Trung bộ Kinh (Majjhima Nikāya), số 121.

[18] Tiểu Không kinh, (trong Majjhima Nikāya), số 121. Xem thảo luận của David Seyforl Reugg về kinh nầy trong mối liên quan với Như Lai tạng (Tathāgatagarbha ) qua tác phẩm của ông nhan đề La théorie du Tathāgatagarbhadu gotra (Paris: Ecole franśaise d'extreme-orient, 1969), pp. 319/T.

[19] Trung biên phân biệt luận; Madhyānta-vibhāga-ṭīkā

中 邊 分 別 論; C: zhōngbiān fēnbié lùn; J: chūben funbetsu ron;

Cũng được gọi tắt là Trung biên luận (中 邊 論), và còn được gọi là Biện trung biên luận (辯 中 邊 論). Là luận văn tinh yếu của Du-già hành tông. Theo truyền thống, tác phẩm này được xem của ngài Di-lặc với lời luận giải của Thế Thân, nhưng theo các học giả thì luận giải nầy có vẻ là công trình biên soạn chung của Vô Trước và Thế Thân hơn. Đặc điểm chính của luận văn nầy là phân tích của Du-già hành tông về sự phân biệt sai lầm (Hư vọng phân biệt 虚 妄 分 別) khi chối từ ý niệm về Không tính, với mục đích giải trừ sự chấp trước vào hai cực đoan Hữu và Vô. Có 2 bản dịch Hán văn về luận giải nầy: 1. Bản dịch của Huyền Trang, gồm 3 tập; 2. Bản dịch của Chân Đế (眞 諦) gồm 2 tập.

[20] unreal notion; s: abhūtatparikalpa.

[21] 虛妄分別有 彼處無有二

 hư vọng phân biệt hữu bỉ xứ vô hữu nhị (0451a16)

 彼中唯有空 於此亦有彼

  bỉ trung duy hữu không ư thử diệc hữu bỉ. (0451a17)

abhūtatparikalpo ‘sti, dvaya tatra na vidyate / śūnyatā vidyate tv atra, tasyām api sa vidyate /

cf. Reugg, La theorie, pp. 323 ff. (Madhyānta-vibhāga) 1.1:

[22] s: grāhaka/grāhya; e: subject grasping and the object grasped.

[23] Madhyānta-vibhāga; 0451a16-0451a17.

[24] 0451a25 故說一切法 非空非不空

 cố thuyết nhứt thiết pháp phi không phi bất không

0451a26 有無及有故 是名中道義

 hữu vô cập hữu cố thị danh trung đạo nghĩa.

Skt: na śūnya nāpi cāśūnyatasmāt sarvam vidhīyate / sattvād asattvāt sattvāc ca, madhyamā pratipac ca sā /

[25] Hán: Duy hữu không ư thử giả. Vị năng sở không trung. Diệc hữu bỉ giả. Vị hữu hư vọng phân biệt. Nhược pháp thị xứ vô. Do thử pháp cố thị xứ không. Kỳ sở dư giả tắc danh. 唯有空於此者。謂能所空中。亦有彼者。謂有虛妄分別。若法是處無。由此法故是處空。其所餘者則名 (0451a22-0451a23).

[26] 0452b10 無二有此無 是二名空相

 vô nhị hữu thử vô thị nhị danh không tướng.

Skt. dvayābhāvo hy abhāvasya bhāvah śūnyasya lakaam.

[27] Chẳng hạn, công kích của Thanh Biện được thấy trong Madhyamaka-hdaya, chapter V, vv. 10-16 (Bản in lại của Bắc Kinh, vol. 96, pp. 11-13). Cf. Susumu Ya-maguchi, Bukkyō ni okeru Mu to U tono Tairon (Controversy between the Theories of Numbeing and Being in Buddhism) (Tokyo-Kyoto: Kobundō-shobō, 1941), pp. 178-210 và Phụ lục, pp. 6-8.

[28] E: Truly empty (hence) unfathomable existence.

[29] Edward Conze, Buddhist Wisdom Books (London: George Alien and Un-win, 1958), p. 81: rūpa śūnyatā, śūnyataiva rūpa.

[30] Quán Tứ đế, Phẩm 24. Āryasatyaparīkṣā nāma caturviṃśatitamaṃ prakaraṇaṃ.

[31] Skt. yaḥ pratītyasamutpādaḥ śūnyatāṃ tāṃ pracakṣmahe |

sā prajñaptir upādāya pratipat saiva madhyamā || MMK_24,18

Hán: 眾因緣生法 我說即是無, 亦為是假名 亦是中道義⑱

[32] Nguyên văn Skt: prajñaptirupādāya; e: designation having recourse to materials.

[33] Về thuật ngữ upādāya prajñapti, xin xem tác phẩm của Jacques May, Candrakīrti, Prasannapadā Madhyamakavtti (Paris: Adrien Maisonneuve 1959). p. 161, n. 494; pp. 237-38. n. 840; etc.

[34] Đại thừa trang nghiêm Kinh–Mahāyāna sutralamkara XIV.34; Madhyānta vibhāga bhāṣya III.3, III.7.

[35] Chẳng hạn, Nguyệt Xứng chỉ trích ý niệm y tha khởi tánh (paratantra) trong tác phẩm của ngài, Madhyamakāvatāra (VI. 72-83), Louis de La Vallée Poussin, ed., (St. Pétersbourg: Biblioteca Buddhica IX, 1912). 166-181.

[36] U. Wogihara. cd., Bodhisattvabhūmi (Tokyo: Seigo Kenkyukai, 1930-1936). pp. 47-48; N. Dutt. ed.. Bodhisattvabhūmi (Patna: K. P. Jayaswal Institute, Tibetan Sanskrit Works Series vol. VII, 1966), p. 32. Cf. Ruegg, La théorie, pp. 322 ff.

[37] sugṛhītā: chấp trước, thiện thủ, thiện nhiếp.

[38] see note 24.

[39] Ấn bản tiếng Hán, Taishō. 1605, vol. XXXI, p. 675a, line 21; no. 1606, vol. 31, p. 720c, line 17. Bnr tiếng Tây Tạng: Peking reprint edition no. 5550, vol. 112, p. 252-3-1; no. 5555, vol. 113, p. 172-1-6. Bản tiếng Sanskrit, V. V. Gokhale, "Fragments from the Abhidharmasamuccaya of Asaṅga," Journal of the Bombay Branch, Royal Asiatic Society. N. S., 23 (1947); Pralhad Pradhan, ed. Abhidharma Samuccaya of Asaga (Santiniketan: Visva-Bharati 1950), p. 40. Cf. Ruegg, La théorie. pp. 321f.

[40] Vì, phần thiếu mất trong bản gốc Sanskrit được ấn hành bởi Gokhale, Pradhan đã có nỗ lực trong tác phẩm của ông khi lấp đầy khoảng trốgn nầy bằng bản ‘dịch lại’ của ông. Nhưng vì sự hiểu lầm của ông về đoạn văn nầy, và cũng do sự bỏ quên của ông về mối quan hệ giữa các bản văn được đề cập trước đây, đoạn văn đang đề cập xuất hiện ở đây với những đặc điểm hoàn toàn khác và phải được xem xét lại kỹ lưỡng. Bản dịch tiếng Tây Tạng như sau:

(Bodhisattvabhūmi) gang gi phyir ''gang la gang med pa de ni des stong par yang dag par mthong la / 'di la lhag ma gang yin pa de ni 'di na yang dag par yod do zhes yang dag pa ji lta ba bzhin du rab tu shes pa" de ni slong pa nyid la yang dag pa ji lta ba bzhin du phyin ci ma log par zhugs pa zhes bya sic /

(Abhidharmascamuccaya) "gang la gang med pa dc ni des slong par yang dag par rjes su mthong ba ste / 'di la lhag ma gang yin pa de ni 'dir yod pa'o / / zhes yang dag pa ji lta ba bzhin du rab tu shes so" / / 'di ni stong pa nyid la 'jug pa yang dag pa ji lta ba sic / phyin ci ma log pa zhes bya'o /

[41] ātma-ātmīlyatva; e: self-hood and possession.

[42] Anātmakatva; e: selflessness.

[43] ātmatva; e: substantive.

[44] Ārya-śāsana-prakaraṇa-śāstra; Hsitn-yang-sheng-chiao-lun 顯揚聖教論; e: Acclamation of the Scriptural Teaching. Vô Trước soạn, Huyền Trang dịch, 20 quyển

[45] Taishō. 1602, vol. XXXI, p. 553b.

[46] Hán: hoà hợp chi pháp, lý, pháp, sự.

[47] . G. Tucci, Minor Buddhist Texts, Serie Orientale Roma IX, part I (Roma: Istituto Italiano per il Medio ed Estremo Oriente, 1956), pp. 53 ff.

[48] E: nonexistence and existence of nonexistence.

[49] Chẳng hạn: sarvābhāvād, abhāvasya sadbhāvān . . . (v. II).

Còn thấy trong bài kệgiải thích về bài kệ 15 (Taishō 1513, vol. XXV, p. 877a).

[50] Trong kinh Duy-ma-cật Vimalakfninirdefa; cf. Éttenne Lamotte, L’Enseignement de Vimalakīrti (Louvain: Bibliothéque du Muséon, vol. 51, 1962), p. 34.

[51] Xem Edward Conze, biên tậpphiên dịch, Vajracchedikā Prajñā pāramitā, Serie Orientate Roma XIII (Roma: Istituto Italiano per il Medio ed Estremo Oriente, 1957), p. 70 (8).

[52] Đoạn văn bao gồm ‘ý nghĩa an lập’ còn xuất hiện trong Madhyamakāvatāra (Louis de la Vallée Poussin, p. 139, ad VI.57), những ở đây được giới thiệu bởi ngài Nguyệt Xứng để biểu thị quan niệm của đối thủ Du-già hành tông. Đoạn văn nầy rất gần đọn đã tìm thấy trong Bồ-tát địa trì kinh (Bodhisattvabhūmi). Jayānanda có bình giải về đoạn văn nầy (Peking reprint edition, vol. 99, p. 147-5).

[53] Ratnagotravibhāga-mahāyānanottaratantra-śāstra (s); Cứu cánh nhất thừa bảo tính luận 究 竟 一 乘 寶 性 論 Jewel-Nature Treatise (e);

[54] Từ một điểm, tác giả được gán cho ngài Di-lặc (Maitreyanātha), vị sáng tổ của Du-già hành tông, theo truyền thống của Tây Tạng.

[55] Tathāgatagarbha; e: matrix of the tathāgata.

[56] the emptiness of the tathagatagarbha

[57] E. H. Johnston, ed., The Ratnagotravibhaga Mahāyānottaratantraśastra (Patna; Bihar Research Society, 1950), p. 76. Jikido Takasaki, A Study on the Ratnagotravibhaga, Serie Orientale Roma, XXXIII (Roma: Istituto Italiano per il Medio ed Estremo Oriente, 1966), pp. 300-302. Cf. Ruegg, La théorie, pp. 319ff.

[58] S: buddha-svabhāva/buddhatā; e: Buddhahood.

[59] ... Evaṃ "yad yatra nāsti tat tcna śūnyam iti samanupaśyati / yat punar atrāvaśiṣtaṃ bhavati tat sad ihāstīti yathābhūtam prajānāti" /

[60] Đối với tôi (tác giả, Nagao) Như Lai tạng dường như chiếm một vị trí tối cao–vị trí hơi giống như của Brahman hoặc Ātman hoặc là ‘Đấng tuyệt đối’ trong triết học của đạo Bà-la-môn. Nếu trường hợp nầy là đúng, thật khó cho Như Lai tạng khi bao gồm trong nó yếu tố nhiễm ô như là thựcc thể bị phủ định, hoặc là có cái ‘Cấu trúc song trùng’ bị phủ định, hoặc có ‘Cấu trúc song trùng’ của hư vọng phân biệt (abhūtaparikalpa)=tánh không (śūnyatā) 

[61] Thuật ngữ "itaretara-śūnyata" trong Kinh Lăng-già (Lankāvatāra-sūtra) và khái niệm 'gzhan-stong" trong trường phái Jo-nang-pa đã được nghiên cứu kỹ do Ruegg, La théorie. pp. 325 ff., 337. Mặc dù tôi (tác giả, Nagao) không hoàn toàn chắc chắn về ý tưởng nầy, điều tôi muốn gợi ý về ‘Phép trừ toán học ’ là có thể áp dụng cho những ý tưởng nầy.

[62] Johnston, Ratnagotravibhaga, p. 35, line 3 . . . paramārthataḥ saṃsāra eva nirvaṇam ity uktam.

[63] Hiện chỉ lưu hành bản dịch tiếng Hán của ngài Chân Đế.

[64] Madhyānta-vibhāga 1.22.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11396)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
(Xem: 11555)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13556)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14127)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10311)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10782)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11337)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11284)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11441)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10178)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9970)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10716)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11321)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42227)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10489)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11865)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10019)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10462)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10636)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45787)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32129)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11328)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10707)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11333)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10637)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13462)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12380)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11035)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10622)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12331)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11175)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11850)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29287)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9221)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10554)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10247)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10598)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10912)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10811)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32153)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27405)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17811)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11881)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12293)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10448)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11702)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10438)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10791)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28090)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10163)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10289)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10659)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10773)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11234)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10404)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10697)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11481)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18271)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10529)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12857)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11756)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29207)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28610)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28309)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13330)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22789)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13444)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11582)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13827)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25732)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26089)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22321)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14492)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12077)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11811)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11692)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11494)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33206)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31852)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12043)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39637)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22505)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11966)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14243)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13351)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14309)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12075)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10413)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11237)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13328)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34538)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12634)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12237)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13534)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12628)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12984)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16310)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11759)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27404)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28441)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant